|
1..Trăm
năm trong cơi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn
ḷng.
5.. Lạ ǵ bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Cảo thơm lần giở trước đèn,
Phong t́nh có lục c̣n truyền sử xanh.
Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh,
10.. Bốn phương phẳng
lặng, hai kinh vững vàng.
Có nhà viên ngoại họ Vương,
Gia tư nghĩ cũng thường thường
bực trung.
Một trai con thứ rốt ḷng,
Vương Quan là chữ, nối ḍng nho gia.
15.. Đầu ḷng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Một người một vẻ, mười phân
vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
20.. Khuôn trăng đầy đặn,
nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu
da.
Kiều càng sắc sảo, mặn mà,
So bề tài, sắc, lại là phần hơn.
25.. Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một, hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đ̣i một, tài đành họa
hai.
Thông minh vốn sẵn tư trời,
30.. Pha nghề thi họa, đủ mùi
ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm
một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh, lại càng năo nhân.
35.. Phong lưu rất mực hồng
quần,
Xuân xanh sấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về
mặc ai.
Ngày xuân con én đưa thoi,
40.. Thiều quang chín chục đă ngoài
sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp Thanh.
45.. Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập d́u tài tử, giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
Ngổn ngang g̣ đống kéo lên,
50.. Thoi vàng vó rắc tro tiền
giấy bay.
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
55.. Nao nao ḍng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc
ngang.
Sè sè nấm đất bên đàng,
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
Rằng: Sao trong tiết thanh minh,
60.. Mà đây hương khói vắng
tanh thế mà?
Vương Quan mới dẫn gần xa:
Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi.
Nổi danh tài sắc một th́,
Xôn xao ngoài cửa hiếm ǵ yến anh.
65.. Kiếp hồng nhan có mong manh,
Nửa chừng xuân thoắt găy cành thiên hương.
Có người khách ở viễn phương,
Xa nghe cũng nức tiếng nàng t́m chơi.
Thuyền t́nh vừa ghé tới nơi,
70.. Th́ đà trâm gẫy b́nh rơi bao
giờ.
Buồng không lạnh ngắt như tờ,
Dấu xe ngựa đă rêu lờ mờ xanh.
Khóc than khôn xiết sự t́nh,
Khéo vô duyên ấy là ḿnh với ta.
75.. Đă không duyên trước chăng
mà,
Th́ chi chút ước gọi là duyên sau.
Sắm xanh nếp tử xe châu,
Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa.
Trải bao thỏ lặn ác tà,
80.. ấy mồ vô chủ, ai mà
viếng thăm!
Ḷng đâu sẵn mối thương tâm,
Thoắt nghe Kiều đă đầm đầm
châu sa.
Đau đớn thay phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời
chung.
85.. Phũ phàng chi bấy hoá công,
Ngày xanh ṃn mỏi má hồng phôi pha.
Sống làm vợ khắp người ta,
Khéo thay thác xuống làm ma không chồng.
Nào người phượng chạ loan chung,
90.. Nào người tích lục tham
hồng là ai ?
đă không kẻ đoái người hoài,
Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương.
Gọi là gặp gỡ giữa đường,
Họa là người dưới suối vàng
biết cho.
95.. Lầm rầm khấn khứa
nhỏ to,
Sụp ngồi vài gật trước mồ bước
ra.
Một vùng cỏ áy bóng tà,
Gió hiu hiu thổi một vài bông lau.
Rút trâm sẵn giắt mái đầu,
100.. Vạch da cây vịnh bốn câu ba
vần.
Lại càng mê mẩn tâm thần
Lại càng đứng lặng tần ngần
chẳng ra.
Lại càng ủ dột nét hoa,
Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài
105.. Vân rằng: Chị cũng nực cười,
Khéo dư nước mắt khóc người
đời xưa.
Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu
?
Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
110.. Thấy người nằm đó
biết sau thế nào ?
Quan rằng: Chị nói hay sao,
Một lời là một vận vào khó nghe.
ở đây âm khí nặng nề,
Bóng chiều đă ngả dậm về c̣n xa.
115.. Kiều rằng: Những đấng
tài hoa,
Thác là thể phách, c̣n là tinh anh,
Dễ hay t́nh lại gặp t́nh,
Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ.
Một lời nói chửa kịp thưa,
120..Phút đâu trận gió cuốn
cờ đến ngay.
ào ào đổ lộc rung cây,
ở trong dường có hương bay ít
nhiều.
Đè chừng ngọn gió lần theo,
Dấu giày từng bước in rêu rành rành.
125.. Mắt nh́n ai nấy đều
kinh,
Nàng rằng: Này thực tinh thành chẳng xa.
Hữu t́nh ta lại gặp ta,
Chớ nều hiển mới là chị em.
Đă ḷng hiển hiện cho xem,.
Tạ ḷng nàng
lại nối thêm vài lời.
130..Ḷng thơ lai láng bồi hồi,
Gốc cây lại vạch một bài cổ thi.
Dùng dằng nửa ở nửa về,
Nhạc vàng đâu đă tiếng nghe gần
gần.
135.. Trông chừng thấy một văn
nhân,
Lỏng buông tay khấu bước lần dặm
băng.
đề huề lưng túi gió trăng,
Sau chân theo một vài thằng con con.
Tuyết in sắc ngựa câu gịn,
140.. Cỏ pha màu áo nhuộm non da
trời.
Nẻo xa mới tỏ mặt người,
Khách đà xuống ngựa tới nơi tự t́nh.
Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.
145.. Chàng Vương quen mặt ra chào,
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa.
Nguyên người quanh quất đâu xa,
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.
Nền phú hậu, bậc tài danh,
150..Văn chương nết đất,
thông minh tính trời.
Phong tư tài mạo tót vời,
Vào trong phong nhă, ra ngoài hào hoa.
Chung quanh vẫn đất nước nhà,
Với Vương Quan trước vẫn là đồng
thân.
155..Vẫn nghe thơm nức hương
lân,
Một nền đồng Tước khoá xuân hai
Kiều.
Nước non cách mấy buồng thêu,
Những là trộm nhớ thầm yêu chốc ṃng.
May thay giải cấu tương phùng,
160..Gặp tuần đố lá thoả
ḷng t́m hoa.
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,
Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.
Người quốc sắc, kẻ thiên tài,
T́nh trong như đă, mặt ngoài c̣n e.
165.. Chập chờn cơn tỉnh cơn
mê.
Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về
chỉn khôn.
Bóng tà như giục cơn buồn,
Khách đà lên ngựa, người c̣n nghé theo.
Dưới cầu nước chảy trong veo,
170..Bên cầu tơ liễu bóng
chiều thướt tha.
Kiều từ trở gót trướng hoa,
Mặt trời gác núi chiêng đà thu không.
Mảnh trăng chênh chếch ḍm song,
Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân.
175..Hải đường lả
ngọn đông lân,
Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà.
Một ḿnh lặng ngắm bóng nga,
Rộn đường gần với nỗi xa
bời bời:
Người mà đến thế th́ thôi,
180..Đời phồn hoa cũng là
đời bỏ đi!
Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên ǵ hay không?
Ngổn ngang trăm mối bên ḷng,
Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính t́nh.
185..Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,
Tựa nương bên triện một ḿnh thiu
thiu.
Thoắt đâu thấy một tiểu kiều,
Có chiều thanh vận, có chiều thanh tân.
Sương in mặt, tuyết pha thân,
190.. Sen vàng lăng đăng như gần như
xa.
Chào mừng đón hỏi ḍ la:
Đào nguyên lạc lối đâu mà đến
đây ?
Thưa rằng: Thanh khí xưa nay,
Mới cùng nhau lúc ban ngày đă quên.
195..Hàn gia ở mé tây thiên,
Dưới ḍng nước chảy bên trên có
cầu.
Mấy ḷng hạ cố đến nhau,
Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng.
Vâng tŕnh hội chủ xem tường,
200.. Mà sao trong sổ đoạn trường
có tên.
Âu đành quả kiếp nhân duyên,
Cùng người một hội, một thuyền
đâu xa!
Này mười bài mới mới ra,
Câu thần lại mượn bút hoa vẽ
vời.
205.. Kiều vâng lĩnh ư đề bài,
Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm.
Xem thơ nức nở khen thầm:
Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường
Ví đem vào tập đoạn Trường
210.. Th́ treo giải nhất chi nhường
cho ai.
Thềm hoa khách đă trở hài,
Nàng c̣n cầm lại một hai tự t́nh.
Gió đâu xịch bức mành mành,
Tỉnh ra mới biết rằng ḿnh chiêm bao.
215..Trông theo nào thấy đâu nào
Hương thừa dường hăy ra vào đâu
đây.
Một ḿnh lưỡng lự canh chầy,
Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh.
Hoa trôi bèo dạt đă đành,
220.. Biết duyên ḿnh, biết phận ḿnh
thế thôi!
Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi,
Nghĩ đ̣i cơn lại sụt sùi đ̣i cơn.
Giọng Kiều rền rĩ trướng loan,
Nhà Huyên chợt tỉnh hỏi: Cơn cớ ǵ ?
225..Cớ sao trằn trọc canh khuya,
Màu hoa lê hăy dầm dề giọt mưa ?
Thưa rằng: Chút phận ngây thơ,
Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa
đền.
Buổi ngày chơi mả đạm Tiên,
230.. Nhắp đi thoắt thấy
ứng liền chiêm bao.
đoạn trường là số thế nào,
Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia.
Cứ trong mộng triệu mà suy,
Phận con thôi có ra ǵ mai sau !
235.. Dạy rằng: Mộng triệu
cớ đâu,
Bỗng không mua năo chuốc sầu nghĩ nao.
Vâng lời khuyên giải thấp cao,
Chưa xong điều nghĩ đă dào mạch Tương.
Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng,
240.. Nách tường bông liễu bay
ngang trước mành.
Hiên tà gác bóng chênh chênh,
Nỗi riêng, riêng trạnh tấc riêng một ḿnh.
Cho hay là thói hữu t́nh,
Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong.
|
|
2. Người
có tài th́ thường gặp mệnh bạc, h́nh
như Tài, mệnh ghét nhau, xung khắc
với nhau, hễ được hơn cái này th́
phải kém cái kia.
3. Bể dâu:
Trong văn chương cổ của chúng ta thường
dùng thành ngữ "băi bể nương dâu",
hoặc nói tắt là "bể dâu" để
chỉ những sự biến đổi thăng
trầm của cuộc đời.
5. Bỉ
sắc tư phong: Cái kia kém th́ cái này hơn,
nghĩa là: Được hơn điều này
th́ bị kém điều kia.
6. (Tạo hoá
ghen với người đàn bà đẹp). ư nói:
Người đàn bà đẹp thường
gặp cảnh ngộ không hay.
7. Cảo thơm
hay Kiểu thơm: do chữ phương
cảo, nghĩa là pho sách thơm pho sách hay.
8. Phong t́nh:
Chỉ những chuyện ái t́nh trai gái.
Sử xanh:
Thời
xưa, khi chưa có giấy, người ta chép
sử bằng cách khắc chữ vào những
thanh trúc, cật trúc màu xanh, nên gọi là thanh
sử.
9. Gia-tĩnh:
Niên hiệu vua Thế Tông, nhà Minh (1522-1566).
10. Hai kinh:
Tức Bắc Kinh và Nam Kinh (Trung Quốc).
11. Viên
ngoại: Một chức quan giữ việc
sổ sách tại các bộ, đặt ra từ
thời Lục-triều. Về sau, "Viên
ngoại" dần dần trở thành một hư
hàm. Chữ "Viên ngoại" ở đây
được dùng theo nghĩa này.
14. Chữ:
Theo lễ nghi Trung Quốc xưa, người nào
cũng có "danh" là tên chính, và
"tự" là tên chữ ("Danh" đặt
từ khi sinh ra, c̣n "tụ" th́ đến
khi hai mươi tuổi mới dựa theo
"danh" mà đặt ra).
15. Tố Nga:
Chỉ người con gái đẹp.
17. Thuư Kiều
và Thuư Vân, mỗi người có một vẻ riêng
ví như mai có "cốt cách" của mai,
tuyết có "tinh thần" của tuyết.
20. Khuông trăng:
Khuôn mặt đầy đặn, tṛn trĩnh,
xinh xắn như mặt trăng. Nét ngài: nét
lông mày.
21. Thốt: Tiếng
cổ có nghĩa là nói.
Hoa cười,
ngọc thốt: cười tươi như
hoa, nói đẹp như ngọc.
25. Thu
thuỷ: Nước mùa thu, Xuân sơn:
Núi mùa xuân. Câu noi này ví mắt Kiều trong sáng
như làn nước mùa thu, lông mày xinh đẹp
như rặng núi mùa xuân.
27. Bài ca
của Lư Diên Niên, đời Hán, ca ngợi
sắc đẹp của một mĩ nhân có câu:
Nhất
cố khuynh nhân thành
Tái cố khuynh nhân quốc
Nghĩa là:
Quay lại
nh́n một lần th́ làm nghiêng thành người
Quay lại nh́n lần nữa th́ làm nghiêng nước
người.
Do đó, người
sau thường dùng chữ nghiêng nước (khuynh
quốc), nghiêng thành (khuynh thành) để
chỉ sắc đẹp phi thường của
người phụ nữ.
Hai chữ một
hai trong câu này dịch mấy chữ nhất
cố, tái cố ở trên.
28. Câu này có
nghĩa là về "sắc" th́ chỉ có
một ḿnh Kiều là nhất, về "tài"
th́ họa may ra th́ c̣n có người thứ hai
nữa.
31. Cung, thương:
Hai âm đứng đầu ngũ âm trong cung
bậc nhạc cổ của Trung Quốc: Cung, thương
giốc, truỷ, vũ.
Lầu
bậc: Làu thông cung bậc.
32. Hồ
cầm: Một loại đàn tỳ bà.
Hồ
cầm một trương: Một cây đàn
hồ cầm.
34. Bạc
mệnh: Tên bản đàn do Thuư Kiều sáng
tác. "Bạc mệnh" nghĩa là số
mệnh bạc bẽo, mỏng manh.
Năo nhân:
Làm cho người ta nghe mà năo ḷng.
35. Hồng
quần: Cái quân màu hồng, hai chữ này
được dùng để chỉ nữ
giới.
36. Cặp kê:
Đến tuổi cài trâm (Kê nghĩa là cài trâm).
Theo lễ cổ Trung Quốc, con gái 15 tuổi
đến th́ hứa gả chồng cho nên
bắt đầu búi tóc cài trâm.
38. Tường
đông: Bức tường ở phía đông.
Thời xưa con gái thường ở nhà phía
đông. Đây dùng chữ "tường đông"
để chỉ chỗ có con gái đẹp
ở.
39. Con én
đưa thoi: Chim én bay đi bay lại như
chiếc thoi đưa.
40. Thiều
quang: ánh sáng tươi đẹp, chỉ
tiết mùa xuân. Mùa xuân có 90 ngày (ba tháng), mà
đă ngoài 60, tức là đă bước sang tháng
ba.
43. Thanh minh:
Là tiết đầu của mùa xuân nhằm vào
đầu tháng ba.
44. Tảo
mộ: Quét mồ. Theo tục cổ, đến
tiết Thanh minh con cháu đi viếng và sửa
sang lại phần mộ của cha mẹ tổ
tiên.
Đạp
thanh: Dẫm lên cỏ xanh, chỉ việc trai
gái đi chơi xuân, dẫm lên cỏ xanh ngoài
đồng, do đó mà gọi hội Thanh minh là
hội Đạp thanh.
45. Yến
anh: Chim yến (én), chim anh (có khi đọc là
oanh), hai loài chim về mùa xuân, thường hay ríu
rít từng đàn. Đây ví với cảnh
những đoàn người rộng ràng đi chơi
xuân.
48. Ngựa
đi như nước: Ngựa xe qua lại
như nước chảy, hết lớp này đến
lớp khác.
áo quần
như nêm: ư nói người đông đúc,
chen chúc.
49. Ngổn
ngang g̣ đống kéo lên: Những đoàn người
ngổn ngang kéo nhau lên nơi g̣ đống.
50. Vàng - vó:
Một loại vàng giấy, dùng trong việc
đưa ma hoặc lễ hội.
53. Tiểu
khê: Ng̣i nước nhỏ.
62. Ca nhi:
Con hát.
65. Hồng
nhan: Má hồng, chỉ người đẹp.
66. Cành thiên
hương: Cành hoa thơm của trời, ví
với người đẹp.
70. Trâm găy b́nh
rơi: ư nói người đẹp đă
chết.
72. Dấu xe
ngựa: Dấu vết xe ngựa của
những khách đến chơi bời trước
đấy.
74. Bấy:
Biết bao nhiêu.
77. Nếp
tử, xe châu: Quan tài bằng gỗ tử và
xe đưa đám tang có rèm hạt châu. ư nói người
khách mua quan tài và thuê xe tang chông cất Đạm
Tiên một cách chu đáo.
78. Bụi
hồng: do chữ hồng trần, nghiă
là đám bụi đỏ.
Đây muốn
ám chỉ nấm mộ nằm bên đường,
một nấm mồ lưu lại trong cơi
trần gió bụi.
79. Thỏ
bạc, ác vàng: Người xưa cho rằng
trong mặt trăng có con thỏ giă thuốc, trong
mặt trời có con quạ vàng ba chân.
82. Châu:
Hạt ngọc châu, đây chỉ nước
mắt.
85. Hoá công:
Thợ tạo hoá, tức là trời.
86. Phượng:
Chim phượng trống. LoanI: Chim phượng
mái. Trong văn cổ, loan phương dùng để
chỉ đôi lứa vợ chồng. ở đây
chỉ những khách làng chơi đi lại,
chung chạ ái ân với Đạm tiên, ngày trước.
90. Tiếc
lục tham hồng: ư nói luyến tiếc, ham
sắc đẹp của giai nhân.
94. Suối vàng:
Do chữ Hoàng tuyền ở dưới
đất có mạch suối, mà đất
thuộc màu vàng, nên gọi là hoàng tuyền.
97. áy: Vàng
úa.
112. Vận vào:
ư nói lời nào cũng như ám chỉ vào ḿnh.
113. ÂÂAm khí:
Cái khí cơi âm, cơi chết, ở đây chỉ không
khí băi tha ma.
116. Thể:
Thể xác (hữu h́nh). Phách: Chỉ
những cái ǵ vô h́nh chỉ dựa vào thể xác
mà tồn tại.
118. Hiển
linh: Tỏ sự linh thiêng cho mọi người
biết.
126. Tinh thành:
Ḷng thành thuần khiết, ḷng chí thành.
128. U
hiển: U là tối, chỉ cơi chết. Hiển
là sáng rơ, chỉ cơi sống. ư nói: chớ
nề kẻ sống, người chết, kẻ
cơi âm , người cơi dương.
136. Tay
khấu: Tay càm cương ngựa. ư nói, buông
lỏng dây cương cho ngựa đi thong
thả.
Dăm băng:
Như nói dặm đường đi. Băng
là lướt đi.
137. Lưng túi
gió trăng: Tức là lưng túi thơ.
Những nhà thơ thời xưa hay ngâm phong
vịnh nguyệt, nên người ta gọi thơ
là phong nguyệt (gió trăng).
139. Câu:
con ngựa, non trẻ, xinh đẹp.
142. Tự t́nh:
Chuyện tṛ, bày tỏ tâm t́nh.
143. Hài văn:
Thứ giày thêu mà nho sĩ thời xưa thường
dùng.
Dặm xanh:
Dặm
cỏ xanh.
144. Cây
quỳnh, cành giao: Cây ngọc quỳnh và cây
ngọc giao. ư nói vẻ khôi ngô tuấn tú
của Kim Trọng như làm cho cả một vùng
cũng hoá thành đẹp.
146. Hai
Kiều: Hai người con gái xinh đẹp,
tức hai chị em Thuư Kiều.
148. Trâm anh:
Trâm là cái trâm để cài búi tóc. Anh là cái
dải mũ, hai thứ dùng trang sức cho cái mũ
của người sĩ tử, quan chức. Nhà
trâm anh: Chỉ những nhà thế tộc phong
kiến, có người đỗ đạt, làm
quan.
149. Phú
hậu: Giàu có.
150. Nết
đất: Theo lối nhà, theo ḍng dơi trong nhà,
mạch đất đó có truyền thống văn
chương.
151. Phong tư:
Dáng điệu.
Tài mạo:
Tài hoa và dung mạo.
152. Phong nhă:
Phong lưu nho nhă. Hào hoa: Sang trọng
phong cách có vẻ quí phái. Vào trong là ở trong nhà,
Ra ngoài là ra giao thiệp với đời.
154. Đồng
thân: Bạn cùng học.
155. Hương
lân: Làng xóm, ư nói: Vẫn nghe tiếng khen
đồn đại ở vùng lân cận.
156. Đồng
tước: Đời tam quốc, Tào Tháo
đào sông Chương Hà, bắt được
đôi chim sẻ đồng, bèn cho xây ở
gần đó một toà lâu đài, đặt tên
là đài Đồng Tước (sẻ đồng),
và định hễ đánh thắng Đông Ngô
th́ bắt hai chị em Đại Kiều và
Tiểu Kiều (là vợ Tôn sách và vợ Chu Du)
đem về đấy để vui thú cảnh
già. Khoá xuân ở đây là khoá kín
tuổi xuân, tức cấm cung, tác giả mượn
điển cũ để nói lóng rằng: nhà
họ Vương có hai cô gái đẹp cấm
cung.
157. Buồng
thêu: Buồng người con gái.
158. Chốc
ṃng: Tiếng cổ, nghĩa là bấy lâu,
bấy nay.
159. Giải
cấu tương phùng: Cuộc gặp gỡ
t́nh cờ.
160. Đố
lá: Hội đố lá, c̣n gọi là diệp
hư, một tục chơi xuân có từ đời
nhà Đường. Vào khoảng tháng ba, trai gái
đi du xuân, bẻ một cành cây rồi đố
nhau xem số lá chẵn hay lẻ để đoán
việc may rủi. Đây là dịp để
họ làm quen và t́m hiểu nhau.
161. Bóng
hồng: Bóng người con gái. Phụ nữ
Trung Quốc thời xưa hay mặc quần đỏ
nên gọi là bóng hồng.
162. Xuân lan,
thu cúc: Hai chị em Kiều, mỗi người
có một vẻ đẹp riêng, ngựi như
lan mùa xuân, người như cúc mùa thu.
163. Quốc
sắc: Sắc đẹp nhất nước,
chỉ Thuư Kiều.
166. Chỉn:
Tiếng cổ. Chin khôn: chẳng xong, không
xong.
173. Gương
nga: Theo truyền thuyết trong cung trăng có
chị Hằng Nga, nên thường gọi trăng
là "gương nga".
174. Vàng gieo
ngấn nước: ánh trăng vàng dọi
xuống ngấn nước.
175. Đông
lân: Xóm bên đông, nơi có con gái đẹp
ở, cũng giống nghĩa chữ "tường
đông" (xem chú thích 38).
Hải
đường là ngọn đông lân: Cây
hải đường ở xóm đông ngả
ngọn xuống.
177. Bóng nga:
Bóng trăng.
179. Người
mà: Chỉ Đạm Tiên.
181. Người
đâu: Chỉ Kim Trọng.
186. Triện:
Lan can.
187. Tiểu
Kiều: Xem chú thích 146.
188. Phong
vận: Yểu điệu.
Thanh tân:
Thanh
tú tưới tắn.
189. ư nói
mặt và thân h́nh người tiểu kiều
đó như có sự và tuyết in phủ
lấy.
190. Sen vàng:
Chỉ gót chân người đẹp. Đông Hôn
Hầu, đời Tề (Nam Bắc Triều),
rất yêu quí phi họ Phan, từng đúc hoa sen
bằng vàng lát xuống nền nhà, để cho
nàng đi lên rồi khen rằng: "Bộ
bộ sing liên hoa" (mỗi bước đi
nở ra một hoa sen).
Lăng
đăng: Tiếng cổ, có nghĩa là đi
từ từ chậm chậm, chập chờn
mờ tỏ.
192. Đào
nguyên: Đời Tần có một người
đánh cá chèo thuyền ngược theo một ḍng
suối đi măi tới một khu rừng
trồng toàn đào, thấy nơi đó có
một cảnh sống tuyệt đẹp như
nơi tiên ở. Người sau dùng chữ
"nguồn đào" hay "động đào"
để chỉ cảnh tiên.
193. Thanh khí:
"Đồng thanh tương ứng, đồng
khí tương cầu" (cùng một thứ
tiếng th́ ứng với nhau, cùng một
loại khí th́ t́m đến nhau).
195. Hàn gia:
Hèn là nghèo, gia là mọn, nhà xoàng,
lạnhlẽo, nói khiêm tốn.
Tây thiên:
Phía
trời đàng tây, hoặc cánh đồng phía tây.
197. Hạ
cố: Trông xuống, chiếu cố đến
nhau.
198. Hạ
tứ: Ban xuống, ban cho. Cả câu: Hai bài thơ
của Kiều lời đẹp ư hay, thật quư
báu như là ném cho những hạt châu, gieo cho
những thỏi vàng vậy.
200. Đoạn
trường: Đứt ruột, chỉ
sự đau đớn bi thương. Số
đoạn trường: Sổ ghi tên
những người phụ nữ bạc
mệnh.
201. Quả
kiếp nhân duyên: Quả là kết quả. Nhân
là nguyên nhân, ư nói duyên (tốt). hay kiếp
(xấu) cũng là có nhân với quả cả.
208. Tú
khẩu, cẩm tâm: Miệng thêu, ḷng gấm.
ư nói thơ Kiều làm rất hay.
222. Đ̣i cơn:
Nhiều cơn.
223. Trưởng
loan: Màn có thêu chim loan.
224. Nhà huyên:
chỉ vào bà mẹ. Huyên là cây hoa hiên, theo
thuyết cổ, có tính chất làm quên sự lo
phiền.
226. Hoa lê:
Ví với người đẹp, giọt mưa
ví với giọt nước mắt.
228. Dưỡng
sinh: Nuôi dưỡng và sinh ra, chỉ công
ơn cha mẹ.
235. Mộng
triệu: Điều thấy trong mộng.
238. MạchTương:
Ḍng nước mắt. Tương là tên một
con sông ở tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc)
chảy vào hồ Động Đ́nh. Ngày xưa,
vua Thuấn đi tuần thú, chết ở phương
xa, hai người vợ vua là Nga Hoàng và Nữ
Anh đi t́m, đến ngồi trên bờ sông Tương,
khóc rất thảm thiết, nước mắt
vẩy ra những khóm trúc xung quanh, làm cho trúc
đó hoá thành những điểm lốm đốm.
Về sau, các nhà văn thường dùng chữ mạch
Tương, giọt Tương để
chỉ nước mắt phụ nữ.
244. Tơ mành
|
|