|
Tần
ngần dạo gót lầu trang,
Một đoàn mừng thọ ngoại hương
mới về,
575.. Hàn huyên chưa
kịp giãi dề,
Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao.
Người nách thước, kẻ tay đao;
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.
Già giang một lão một trai,
580.. Một dây vô
lại buộc hai thâm tình.
Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh,
Rụng rời khung dệt, tan tành gói may.
Đồ tế nhuyễn, của riêng tây,
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham.
585.. Điều
đâu bay buộc ai làm ?
Này ai dan dậm, giật giàm bỗng dưng ?
Hỏi ra sau mới biết rằng:
Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ.
Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ,
590.. Tiếng oan
dậy đất, án ngờ lòa mây.
Hạ từ van lạy suốt ngày,
Điếc tai lân tuất, phũ tay tồi tàn.
Rường cao rút ngược dây oan,
Dẫu là đá cũng nát gan, lọ người.
595.. Mặt trông
đau đớn rụng rời,
Oan này còn một kêu trời, nhưng xa.
Một ngày lạ thói sai nha,
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.
Sao cho cốt nhục vẹn tuyền,
600.. Trong khi ngộ
biến tòng quyền biết sao ?
Duyên hội ngộ, đức cù lao,
Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn ?
Để lời thệ hải minh sơn,
Làm con trước phải đền ơn sinh thành.
605.. Quyết tình nàng
mới hạ tình:
Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha !
Họ Chung có kẻ lại già,
Cũng trong nha dịch lại là từ tâm.
Thấy nàng hiếu trọng tình thâm,
610.. Vì nàng nghĩ cũng thương thầm xót
vay.
Tính bài lót đó luồn đây,
Có ba trăm lạng việc này mới xuôi.
Hãy về tạm phó giam ngoài,
Dặn nàng qui liệu trong đôi ba ngày.
615.. Thương tình con trẻ thơ ngây,
Gặp cơn vạ gió tai bay bất kỳ!
Đau lòng tử biệt sinh ly,
Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến
duyên !
Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,
620.. Liều đem tấc cỏ quyết đền
ba xuân.
Sự lòng ngỏ với băng nhân,
Tin sương đồn đại xa gần xôn
xao.
Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn
danh.
625.. Hỏi tên rằng: Mã Giám sinh.
Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng
gần.
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
Trước thầy sau tớ lao xao
630.. Nhà băng đưa mối rước vào
lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng
!
635.. Ngại ngùng giợn gió e sương,
Nhìn hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày.
Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai.
Đắn đo cân sắc cân tài,
640.. ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ.
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.
Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều,
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường ?
645.. Mối rằng: đáng giá nghìn vàng,
Gấp nhà nhờ lượng người thương
dám nài.
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.
Một lời thuyền đã êm dằm
650.. Hãy đưa canh thiếp trước cầm
làm ghi.
Định ngày nạp thái vu qui,
Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng
xong !
Một lời cậy với Chung công,
Khất từ tạm lĩnh Vương ông về
nhà.
655.. Thương tình con trẻ cha già,
Nhìn nàng ông những máu sa ruột dàu:
Nuôi con những ước về sau,
Trao tơ phải lứa, gieo cầu đáng nơi.
Trời làm chi cực bấy trời,
660.. Này ai vu thác cho người hợp tan !
Búa rìu bao quản thân tàn,
Nỡ đầy đọa trẻ, càng oan khốc
già.
Một lần sau trước cũng là,
Thôi thì mặt khuất chẳng thà lòng đau !
665.. Theo lời càng chảy dòng châu,
Liều mình ông rắp gieo đầu tường
vôi.
Vội vàng kẻ giữ người coi,
Nhỏ to nàng lại tìm lời khuyên can:
Vẻ chi một mảnh hồng nhan,
670.. Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành.
Dâng thư đã thẹn nàng Oanh,
Lại thua ả Lý bán mình hay sao ?
Cỗi xuân tuổi hạc càng cao,
Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành.
675.. Lòng tơ dù chẳng dứt tình,
Gió mưa âu hẳn tan tành nưóc non.
Thà rằng liều một thân con,
Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây.
Phận sao đành vậy cũng vầy,
680.. Cầm như chẳng đậu những ngày
còn xanh.
Cũng đừng tính quẩn lo quanh,
Tan nhà là một thiệt mình là hai.
Phải lời ông cũng êm tai,
Nhìn nhau giọt vắn giọt dài ngổn ngang.
685.. Mái ngoài họ Mã vừa sang,
Tờ hoa đã ký, cân vàng mới trao.
Trăng già độc địa làm sao ?
Cầm dây chẳng lựa buộc vào tự nhiên.
Trong tay đã sẵn đồng tiền,
690.. Dầu lòng đổi trắng thay đen khó
gì !
Họ Chung ra sức giúp vì,
Lễ tâm đã đặt, tụng kỳ cũng
xong.
Việc nhà đã tạm thong dong,
Tinh kỳ giục giã đã mong độ về.
695. Một mình nàng ngọn đèn khuya,
áo dầm giọt lệ, tóc xe mối sầu.
Phận dầu, dầu vậy cũng dầu,
Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một
lời!
Công trình kể biết mấy mươi.
700. Vì ta khăng khít, cho người dở dang.
Thề hoa chưa ráo chén vàng,
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa.
Trời Liêu non nước bao xa.
Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi.
705. Biết bao duyên nợ thề bồi.
Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì.
Tái sinh chưa dứt hương thề.
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.
Nợ tình chưa trả cho ai,
710. Khối tình mang xuống tuyền đài chưa
tan.
Nỗi riêng riêng những bàng hoàng,
Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn.
Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân,
Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi
han:
715. Cơ trời dâu bể đa đoan,
Một nhà để chị riêng oan một mình,
Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh ?
Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây\?
Rằng: Lòng đương thổn thức đầy,
720. Tơ duyên còn vướng mối này chưa
xong.
Hở môi ra cũng thẹn thùng,
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai.
Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
725. Giữa đường đứt gánh tương
tư,
Loan giao chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
730. Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai !
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
735. Chiếc thoa với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng
quên.
Mất người còn chút của tin,
740. Phím đàn với mảnh hương nguyền
ngày xưa.
Mai sao dầu có bao giờ.
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
745. Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai;
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rẩy xin chén nước cho người thác oan.
Bây giờ trâm gẫy bình tan,
750. Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Trăm nghìn gửi lại tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phận sao phận bạc như vôi,
Đã đành nước chẩy hoa trôi lỡ
làng.
755. ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Cạn lời hồn ngất máu say,
Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng.
Xuân Huyên chợt tỉnh giất nồng,
760. Một nhà tấp nập, kẻ trong người
ngoài.
Kẻ thang người thuốc bời bời,
Mới dằn cơn vựng, chưa phai giọt
hồng.
Hỏi: Sao ra sự lạ lùng?
Kiều càng nức nở mở không ra lời.
765. Nỗi nàng Vân mới rỉ tai,
Chiếc thoa này với tờ bồi ở đây...
Này cha làm lỗi duyên mày,
Thôi thì nỗi ấy sau này đã em.
Vì ai rụng cải rơi kim,
770. Để con bèo nổi mây chìm vì ai.
Lời con dặn lại một hai,
Dẫu mòn bia đá, dám sai tấc vàng.
Lậy thôi, nàng lại thưa chiềng,
Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho
xuôi.
775. Sá chi thân phận tôi đòi,
Dẫu rằng xương trắng quê người
quản đâu.
Xiết bao kể nỗi thảm sầu !
Khắc canh đã giục nam lâu mấy hồi .
Kiệu hoa đâu đã đến ngoài,
780.Quản huyền đâu đã giục người
sinh ly .
Đau lòng kẻ ở người đi,
Lệ rơi thấm đá tơ chia rũ tằm.
Trời hôm mây kéo tối rầm,
Rầu rầu ngọn cỏ đầm đầm
cành sương.
785. Rước nàng về đến trú phường,
Bốn bề xuân khóa một nàng ở trong.
Ngập ngừng thẹn lục e hồng,
Nghĩ lòng lại xót xa lòng đòi phen.
Phẩm tiên rơi đến tay hèn,
790.Hoài công nắng giữ mưa gìn với ai:
Biết thân đến bước lạc loài,
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung.
Vì ai ngăn đón gió đông,
Thiệt lòng khi ở đau lòng khi đi .
795.Trùng phùng dầu họa có khi,
Thân này thôi có còn gì mà mong.
Đã sinh ra số long đong,
Còn mang lấy kiếp má hồng được sao
?
Trên yên sẵn có con dao,
800.Giấu cầm nàng đã gói vào chéo khăn:
Phòng khi nước đã đến chân,
Dao này thì liệu với thân sau này .
Đêm thu một khắc một chầy,
Bâng khuâng như tỉnh như say một mình.
|
|
574.
Ngoại hương: Làng ngoại, quê
ngoại.
Giãi dề: Giải
bày, chuyện trò.
576. Sai nha:
Nha lại do quan trên sai phái đi.
577. Thước:
Tay thước, một thứ võ khí cổ,
bằng gỗ, dài độ một thước tây,
cạnh vuông bốn góc, dùng để đánh người.
Nách thước:
Nách cắp tay thước.
Đao: Dao
to, mã tấu, thứ võ khí bằng sắt, lưỡi
to.
579. Già: Cái
gông. Giang: Khiêng đi, giải đi. ở đây nói
cha con viên ngoại và Vương quan bị đóng
gông lại.
583. Tế
nhuyễn: Nhỏ bé, mềm mại, chỉ chung
những đồ vàng ngọc quí gái và trang
sức, quần áo dễ mang đi.
585. Bay
buộc: ý nói cái tai vạ tự đâu bay
đến, buộc vào.
586. Dậm: Một
dụng cụ đánh cá.
588. Xưng
xuất: Xưng ra, khai ra.
590. Loà mây:
Làm mờ cả bầu trời. ý nói: một
vụ hết sức oan uổng.
594. Hạ
từ: Hạ lời, nói lời thanh minh để
kêu cầu van xin.
Lân tuất:
Thương xót, thương tình. ý cả câu:
tụi sai nha cứ phủ tay đánh đập,
mặc những lời kêu van của nhà Kiều, chúng
chỉ làm điếc làm ngơ.
593. Rường
cao: Thanh rường nhà bắc ở trên cao. Dây
oan: Dây trói oan uổng. Tụi sai nha trói và treo
ngược hai cha con họ Vương lên rường
nhà.
599. Cốt
nhục: Ruột thịt, chỉ Vương ông
và Vương Quan.
600. Ngộ
biến tòng quyền: Gặp cảnh biến
phải theo đạo "quyền" (không
thể giữ nguyên đạo "kinh" như lúc
bình thường được). ý nói: Phải
tuỳ theo hoàn cảnh mà xử sự cho thích
hợp.
601. Hội
ngộ: Gặp gỡ gắn bó nhau. Chỉ
mối tình duyên giữa Kiều với Kim
Trọng.
Cù lao: Công
ơn sinh dưỡng khó nhọc của cha mẹ.
603. Thệ
hải minh sơn: Chỉ non thề bể.
604. Sinh thành:
Công ơn cha mẹ sinh ra và nuôi dưỡng nên người.
605. Hạ tình:
Tỏ bầy ý nghĩ.
606. Rẽ cho:
Lời gạt đi ý kiến những người
khác để nói lên ý kiến của mình một
cách kiên quyết.
607. Lại già:
Người gia lại già.
608. Nha
dịch: Người làm việc ở nơi gia
môn, tức nơi công sở của các phủ
huyện.
614. Qui
liệu: Thu xếp, lo liệu.
617. Tử
biệt sinh ly: Chết vĩnh biệt nhau
gọi là "tử biệt", sống mà xa lìa
nhau gọi là "sinh ly". Đó là hai cảnh thương
tâm lớn của đời người. Tuy là hai
cảnh, nhưng người ta thường dùng làm
một thành ngữ, để nói chung cho người
gặp cảnh "tử biệt" cũng như
người gặp cảnh "sinh ly".
619. Hạt mưa:
Chỉ thân phận người con gái
Ca dao:
Thân em như
hạt mưa sa,
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng lầy.
620. Tấc
cỏ, ba xuân: Do chữ tnốn thảo, tâm
xuân. Thơ tả tình đi chơi xa nhớ
mẹ của Mạnh Giao đời Đường
có câu: Dục tương thốn thảo tâm, báo
đáp tam xuân huy (Ai bảo cái lòng của
ngọn cỏ một tấc (ngọn cỏ
ngắn) báo đáp được ánh sáng ấm áp
của ba tháng xuân). Tấc cỏ: Ví với
người con. Ba xuân Ví với công ơn
cha mẹ.
621. Băng nhân:
Người làm mối.
622. Tin sương:
Do chữ sương tín. Tin sương là
ngụ ý chỉ tin tức truyền đi.
624. Viễn khách:
Khách phương xa.
625. Giám sinh:
Sinh viên học tại Quốc tử giám, một
thứ trường đại học của
triều đình phong kiến, lập ở kinh đô
để đào tạo người ra làm quan.
626. Lâm thanh:
Một huyện thuộc tỉnh Sơn Đông
(Trung Quốc).
627. Tử
tuần: Bốn mươi tuổi (mỗi
một tuần là mười tuổi).
630. Nỗi mình:
Nỗi riêng của mình, chỉ cuộc tình duyên
dở dang với Kim Trọng. Nỗi nhà:
Nỗi tai vạ của toàn gia đình họ Vương.
635. Rợn gió:
Sợ gió.
638. Điệu:
Cách điệu, cốt cách.
644. Sinh nghi: Đồ
dẫn cưới, tiền dẫn cưới.
645. Nghìn vàng:
Đời hán, một nghìn vàng tức là
một cân vàng, sau dùng để chỉ nghìn
lạng vàng.
646. Rớp nhà:
Nhà gặp lúc hoạn nạn.
649. Êm
dằm: ý nói sự việc đã lo lót xong xuôi,
êm thấm, giống như chiếc thuyền đã
đứng êm dằm, khôn còn tròng trành nữa.
650. Canh
thiếp: Lá thiếp biên tên, tuổi (nhân trong
thiếp có biên tuổi, tức niên canh, nên gọi
là canh thiếp). Theo hôn lễ xưa, khi
bắt đầu dạm hỏi, nhà trai, nhà gái
trao đổi canh thiếp của trai gái để
đính ước với nhau.
651. Nạp thái:
Chỉ lễ dẫn đồ cưới.
Vu qui: Về
nhà chồng, chỉ lệ đón dâu.
654. Khất
tử: Đơn xin (Nhà Kiều làm đơn
xin tạm tha cho Vương ông).
658. Gieo
cầu: Hán Vũ đế kén phò mã, cho công chúa
ngồi lên lầu, ném quả cầu xuống, ai cướp
được thì làm phò mã.
660. Vu thác:
Vu là đổ tội cho, thác là đặt điều
ra.
669. Một
mảnh hồng nhan: Như nói một mụn con
gái.
671. Nàng Oanh:
Nàng Đề Oanh. Theo Liệt nữ truyện:
Để Oanh người đời Hán, khi cha nàng
là Thuấn Vu ý, phạm tội, bị hạ
ngục ở Tràng An, chờ ngày hành hình, Đề
Oanh dâng thư lên vua Văn đế, xin nộp mình
làm giá hầu cho các nhà quan để chuộc
tội cho cha, Văn đế cảm động,
xuống chiếu tha cho cha nàng.
672. ả Lý:
Nàng Lý Ký. Theo sách Đường dại tùng thư:
Lý Ký, đời đường nhà nghèo,
tự nguyện bán mình cho người làng đem cúng
thần rắn, để lấy tiền nuôi cha
mẹ. Về sau nàng chém chết thần rắn,
rồi lấy vua Việt vương.
673. Cỗi xuân:
Gốc cây xuân, chỉ người cha. Sách xưa nói:
Tuổi hạc: Tuổi con chim hạc, như
nói tuổi thọ. Sách xưa nói, chim hạc
sống lâu một nghìn năm.
675. Lòng tơ:
Tấm lòng thương con vương vấn không
dứt.
676. Gió mưa:
Chỉ những tai biến xảy đến.
Nước
non: Chỉ cơ nghiệp nhà (nước non
cũng như giang sơn).
678. Hoa dù rã cánh:
Tức cây còn xanh lá, nói Vương ông được
an toàn.
679. Cũng
vầy: cũng vậy, cũng thế thôi.
680. Đậu:
Một cái hoa kết được thành
quả, hay một cái quả giữ được
đến lúc chín, không bị nửa chừng
rụng đi, thì người ta gọi là cái
hoa đậu, cái quả đậu. Cả câu:
ý nói cũng xem như là đã chết ngay từ lúc
còn nhỏ tuổi.
691. Giúp vì:
Giúp đỡ.
692. Lễ tâm:
Lễ vật của dân sự "thành
tâm" đem đút lót cho bọn quan
lại. Tụng kỳ: Kỳ xử kiện,
tức phiên xử án.
694. Tinh
kỳ: Người ta thường dùng chữ tinh
kỳ để chỉ cái ngày thành hôn, vì theo
hôn lễ xưa, người ta đón dâu vào
buổi tối.
697. Dầu:
Cũng như nghĩa đành (dầu lòng, đành
lòng).
698. Một
lời: Một lời thề nguyền. ý
Kiều nói: Số phận ra sao cũng đành, nhưng
chỉ đau lòng là trót đeo đẳng lời
thề với Kim Trọng.
703. Trời liêu:
Liêu dương.
707. Tái sinh: Một
kiếp sống nữa, kiếp sau cũng như nói
lai sinh
Hương
thề: Mảnh hương thề nguyền. Xem
chú thích 517.
708. Trâu
ngựa: Theo thuyết luân hồi nhà Phật: Người
nào kiếp này mắc nợ ai mà chưa trả
được, thì kiếp sau phải hoá làm thân
trâu ngựa nhà người ta để đền
trả cho xong.
Nghì: Tức
là chữ "nghĩa" được đọc
chệch ra.
Trúc mai: Tình
nghĩa bền chặt thân thiết như vậy cây
trúc, cây mai thường được trồng
gần nhau.
710. Khối tình:
Tình sử: Xưa có một cô gái yêu
một người lái buôn. Người lái buôn
đi mãi chưa về, cô ta ốm tương tư
mà chết. Khi hoả táng, quả tim kết thành
một khối rắn, đốt không cháy, đập
không vỡ. Sau người lái buôn trở về,
thương khóc, nước mắt nhỏ vào
khối ấy liền tan ra thành huyết.
Tuyền đài:
Nơi ở dưới suối vàng, tức nơi
ở của người chết.
711. Bàn hoàn:
ở đây có nghĩa là nghĩ quanh, nghĩ
quẩn mãi không dứt.
713. Giấc xuân:
Giấc ngủ ngon lành.
715. Cơ
trời: Tức thiên cơ, máy trời.
Dâu bể:
Cũng như "bể dâu".
Đa đoan:
Nhiều mối nhiều việc.
717. Nhẫn:
Tiếng cổ, ngồi nhẫn là ngồi mãi
suốt đêm.
726. Kéo loan:
do chữ loan giao, tức thứ keo chế
bằng máu chim loan. Tương truyền người
xưa thường dùng để nối dây đàn
và dây cung.
Mối tơ
thừa: Ví dây tơ tình với dây đàn, dây
tơ tình bị đứt.
723. Lời non
nước: Lời thề nguyền chỉ non
thề bể.
734. Chín
suối: Do chữ cửu tuyền,
chỉ nơi suối vàng.
735. Tờ mây:
Tờ giấy vẽ mây, tức tờ giấy ghi
lời thề nguyền của Kim, Kiều.
740. Mảnh hương
nguyền: Những manhr gỗ thơm đã
đốt dở trong cuộc thề nguyền
của Kim, Kiều. Thời xưa, khi thề
nguyền với nhau, người ta thường
đốt hương.
746. Bồ
liễu: Một loại cây ưa mọc gần
nước. Cây bồ liễu rụng lá sớm hơn
hết các loài cây, vì cái thể chất yếu
đuối đó nên trong văn cổ thường
dùng để ví với người phụ nữ.
747. Dạ dài:
Đài đêm tối, nghĩa bóng là cõi chết.
749. Trâm
gẫy bình tan: Thơ Bạch Cư Dị, đời
Đường: Bình truỵ trâm chiết
thị hà như, tự thiếp kim triêu dữ quân
biệt. (Cái cảnh bình rơi trâm gãy là
thế nào? nó giống như cảnh biệt ly
của thiếp với chàng buổi sáng nay). Đây
dùng chỉ cuộc tình duyên tan vỡ.
751. Tình quân:
Người tình, cũng như tình lang.
753. Phận
bạc: Chính nghĩa là phận mỏng, tức
bạc mệnh.
754. Nước
chảy hoa trôi: Hoa rụng xuống, nước
trôi đi, nguyên chỉ cảnh xuân tàn, sau thường
mượn để nói sự tàn tạ của
đời người.
759. Xuân huyên:
Xuân đường, huyên đường, tức
cha mẹ.
762. Vựng:
Cơn ngất, bất tỉnh nhân sự.
Giọt
hồng: Giọt nước mắt có máu,
giọt lệ thảm.
769. Nói tình
duyên nửa chừng bị chia lìa, tan vỡ.
772. Mòn bia
đá: Chỉ một khoảng thời gian
rất lâu.
Tấc vàng:
Tấc lòng bền vững như vàng.
773. Chiềng:
Trình, tiếng cổ.
775. Tôi đòi:
Kiều bán mình làm vợ lẽ nàng tự xem như
kẻ ăn người ở.
Mấy
hồi: Mấy hồi trống tan canh.
780. Quân
huyền: Chính nghĩa là ống trúc và dây
đàn, thường dùng chỉ đàn. Đây nói
họ Mã đưa các đồ âm nhạc đến
đón Kiều.
782. Đại ý
cả câu: Giọt lệ rơi xuống, có thể
thấm qua cả đá, tơ ruột rút ra, có
thể làm chết rũ cả con tằm.
785. Trú phường:
Chỗ phố trọ, nhà trọ.
786. Xuân khoá:
Chữ xuân ở đây không phải là mùa
xuân. Chú ý: lúc Mã Giám sinh đón Kiều là mùa thu:
Đêm thu một khắc một chầy.
787. Lục
hồng: Màu lá xanh, màu hoa đỏ thường
dùng để chỉ sắc đẹp của
phụ nữ.
788. Nghĩ lòng:
Nghĩ riêng trong lòng.
Đòi phen:
Nhiều phen, nhiều lúc.
789. Phẩm tiên:
Của trên cõi tiên. Hèn hạ, tục tằn.
790. Nắng
giữ mưa gìn: ý nói giữ gìn trinh tiết
một cách thận trọng.
792. Nhị
đào: Hoa đào còn phong nhị ví với người
con gái còn trinh.
793. Gió đông:
Tiếp ý chữ nhị đào ở trên, ý
nói: Không để cho người tình chung bẻ
nhị đào, giống như ngăn đón gió
đông không cho đến với nhị đào
vậy.
795. Trùng phùng:
Gặp gỡ lần thứ hai, ý nói đến sau
này lại gặp Kim Trọng.
799. Yên: Cái
án, một loại bàn cổ, chân cao, bề mặt
hẹp và dài.
|
|