|
Ngậm ngùi rủ bước rèm châu,
Cách tường, nghe có tiếng đâu họa
vần.
Một chàng vừa trạc thanh xuân,
1060. Hình dong chải chuốt, áo khǎn dịu dàng.
Nghĩ rằng cũng mạch thư hương,
Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh.
Bóng Nga thấp thoáng dưới mành,
Trông nàng, chàng cũng ra tình đeo đai .
1065. Than ôi ! sắc nước hương trời,
Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến
đây ?
Giá đành trong nguyệt trên mây,
Hoa sao, hoa khéo đọa đày bấy hoa ?
Tức gan riêng giận trời già,
1070. Lòng này ai tỏ cho ta, hỡi lòng?
Thuyền quyên ví biết anh hùng,
Ra tay tháo cũi, sổ lồng như chơi !
Song thu đã khép cánh ngoài,
Tai còn đồng vọng mấy lời sắt
đanh.
1075. Nghĩ người thôi lại nghĩ mình,
Cám lòng chua xót, nhạt tình chơ vơ .
Những là lần lữa nắng mưa,
Kiếp phong trần biết bao giờ mới thôi ?
Đánh liều nhắn một hai lời,
1080. Nhờ tay tế độ
vớt người trầm lu
ân.
Mảnh tiên kể hết xa gần,
Nỗi nhà báo đáp, nỗi thân lạc loài .
Tan sương vừa rạng ngày mai,
Tiện hồng nàng mới nhắn lời gửi
sang.
1085. Trời tây lãng đãng bóng vàng,
Phúc thư đã thấy tin chàng đến nơi
.
Mở xem một bức tiên mai,
Rành rành tích việt có hai chữ đề .
Lấy trong ý tứ mà suy:
1090. Ngày hai mươi mốt, tuất thì phải
chǎng?
Chim hôm thoi thót về rừng,
Đóa trà mi đã ngậm trǎng nửa vành.
Tường đông lay động bóng cành,
Rẽ song, đã thấy Sở Khanh lẻn vào .
1095. Sượng sùng đánh dạn ra chào,
Lạy thôi, nàng mới rỉ tai ân cần.
Rằng: Tôi bèo bọt chút thân,
Lạc đàn mang lấy nợ nần yến anh.
Dám nhờ cốt nhục tử sinh,
1100. Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về
sau !
Lặng nghe, lẩm nhẩm gật đầu:
Ta đây phải mượn ai đâu mà rằng !
Nàng đà biết đến ta chǎng,
Bể trầm luân, lấp cho bằng mới thôi !
1105. Nàng rằng: Muôn sự ơn người,
Thế nào xin quyết một bài cho xong.
Rằng: Ta có ngựa truy phong,
Có tên dưới trướng, vốn dòng kiện
nhi .
Thừa cơ lẻn bước ra đi,
1110. Ba mươi sáu chước, chước gì là
hơn.
Dù khi gió kép, mưa đơn,
Có ta đây cũng chẳng cơn cớ gì !
Nghe lời nàng đã sinh nghi,
Song đà quá đỗi, quản gì được
thân.
1115. Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Mà xem con Tạo xoay vần đến đâu !
Cùng nhau lẻn bước xuống lầu,
Song song ngựa trước, ngựa sau một đoàn.
Đêm thâu khắc lậu canh tàn,
1120. Gió cây trút lá, trǎng ngàn ngậm gương.
Lối mòn cỏ nhợt mù sương,
Lòng quê đi một bước đường,
một đau .
Tiếng gà xao xác gáy mau,
Tiếng người đâu đã mái sau dậy dàng.
1125. Nàng càng thổn thức gan vàng,
Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào !
Một mình khôn biết làm sao,
Dặm rừng bước thấp, bước cao hãi
hùng.
Hóa nhi thật có nỡ lòng,
1130. Làm chi dày tía, vò hồng, lắm nau !
Một đoàn đổ đến trước
sau,
Vuốt đâu xuống đất, cánh đâu lên
trời .
Tú bà tốc thẳng đến nơi,
Hầm hầm áp điệu một hơi lại
nhà .
1135. Hung hǎng chẳng nói chẳng tra,
Đang tay vùi liễu, giập hoa tơi bời .
Thịt da ai cũng là người,
Lòng nào hồng rụng, thắm rời chẳng
đau .
Hết lời thú phục, khẩn cầu,
1140. Uốn lưng thịt đổ, cất đầu
máu sa .
Rằng: Tôi chút phận đàn bà,
Nước non lìa cửa, lìa nhà, đến đây.
Bây giờ sống chết ở tay,
Thân này đã đến thế này thì thôi !
1145. Nhưng tôi có sá chi tôi,
Phận tôi đành vậy, vốn người
để đâu ?
Thân lươn bao quản lấm đầu,
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa !
Được lời mụ mới tùy cơ,
1150. Bắt người bảo lĩnh làm tờ
cung chiêu .
Bày vai có ả Mã Kiều,
Xót nàng, ra mới đánh liều chịu đoan .
Mụ càng kể nhặt, kể khoan,
Gạn gùng đến mực, nồng nàn mới
tha .
1155. Vực nàng vào nghỉ trong nhà,
Mã Kiều lại ngỏ ý ra dặn lời:
Thôi đà mắc lận thì thôi !
Đi đâu chẳng biết con người Sở
Khanh?
Bạc tình, nổi tiếng lầu xanh,
1160. Một tay chôn biết mấy cành phù dung !
Đà đào lập sẵn chước dùng,
Lạ gì một cốt một đồng xưa
nay !
Có ba mươi lạng trao tay,
Không dưng chi có chuyện này, trò kia !
1165. Rồi ra trở mặt tức thì,
Bớt lời, liệu chớ sân si, thiệt đời
!
Nàng rằng: Thề thốt nặng lời,
Có đâu mà lại ra người hiểm sâu !
Còn đương suy trước, nghĩ sau,
1170. Mặt mo đã thấy ở đâu dẫn vào
.
Sở Khanh lên tiếng rêu rao:
Rằng nghe mới có con nào ở đây .
Phao cho quyến gió rủ mây,
Hãy xem có biết mặt này là ai
1175. Nàng rằng: Thôi thế thì thôi !
Rằng không, thì cũng vâng lời là không !
Sở Khanh quắt mắng đùng đùng,
Sấn vào, vừa rắp thị hùng ra tay,
Nàng rằng: Trời nhé có hay !
1180. Quyến anh, rủ yến, sự này tại ai
?
Đem người giẩy xuống giếng khơi,
Nói rồi, rồi lại ǎn lời được
ngay !
Còn tiên tích việt ở tay,
Rõ ràng mặt ấy, mặt này chứ ai ?
1185. Lời ngay, đông mặt trong ngoài,
Kẻ chê bất nghĩa, người cười vô
lương !
Phụ tình án đã rõ ràng,
Dơ tuồng, nghỉ mới kiếm đường
tháo lui .
Buồng riêng, riêng những sụt sùi:
1190. Nghĩ thân, mà lại ngậm ngùi cho thân.
Tiếc thay trong giá trắng ngần,
Đến phong trần, cũng phong trần như
ai !
Tẻ vui cũng một kiếp người,
Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru
!
1195. Kiếp xưa đã vụng đường
tu,
Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi
!
Dù sao bình đã vỡ rồi,
Lấy thân mà trả nợ đời cho xong !
Vừa tuần nguyệt sáng, gương trong,
1200. Tú bà ghé lại thong dong dặn dò:
Nghề chơi cũng lắm công phu,
Làng chơi ta phải biết cho đủ điều
.
Nàng rằng: Mưa gió dập dìu,
Liều thân, thì cũng phải liều thế thôi!
1205. Mụ rằng: Ai cũng như ai,
Người ta ai mất tiền hoài đến
đây ?
ở trong còn lắm điều hay,
Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung.
Này con thuộc lấy nằm lòng,
1210. Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề .
Chơi cho liễu chán, hoa chê,
Cho lǎn lóc đá, cho mê mẩn đời .
Khi khóe hạnh, khi nét ngài,
Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa .
1215. Điều là nghề nghiệp trong nhà,
Đủ ngần ấy nết, mới là người
soi .
Gót đầu vâng dạy mấy lời,
Dường chau nét nguyệt, dường phai
vẻ hồng.
Những nghe nói, đã thẹn thùng,
1220. Nước đời lắm nỗi lạ lùng,
khắt khe!
Xót mình cửa các, buồng khuê,
Vỡ lòng, học lấy những nghề
nghiệp hay!
Khéo là mặt dạn, mày dày,
Kiếp người đã đến thế này thì
thôi!
1225. Thương thay thân phận lạc loài,
Dẫu sao cũng ở tay người biết sao ?
Lầu xanh, mới rủ trướng đào,
Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người .
Biết bao bướm lả, ong lơi,
1230. Cuộc say đầy tháng, trận cười
suốt đêm.
Dập dìu lá gió, cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng
Khanh.
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa .
1235. Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân?
Mặt người mưa Sở, mây Tần,
1240. Những mình nào biết có xuân là gì!
Đôi phen gió tựa, hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trǎng
thâu .
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn, cảnh có vui đâu bao
giờ!
1245. Đòi phen nét vẽ, câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới
hoa,
Vui là vui gượng kẻo mà,
Ai tri âm đó, mặn mà với ai ?
Thờ ơ gió trúc, mưa mai,
1250. Ngẩn ngơ trǎm nỗi, giùi mài một thân.
Ôm lòng đòi đoạn xa gần,
Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau!
Nhớ ơn chín chữ cao sâu,
Một ngày một ngả bóng dâu tà tà .
1255. Dặm ngàn, nước thẳm, non xa,
Nghĩ đâu thân phận con ra thế này!
Sân hòe đôi chút thơ ngây
Trân cam, ai kẻ đỡ thay việc mình?
Nhớ lời nguyện ước ba sinh,
1260. Xa xôi ai có thấu tình chǎng ai ?
Khi về hỏi liễu Chương đài,
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay .
Tình sâu mong trả nghĩa dày,
Hoa kia đã chắp cành này cho chưa ?
1265. Mối tình đòi đoạn vò tơ,
Giấc hương quan luống lần mơ canh dài
.
Song sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn, đã lại mai hôn hoàng.
Lần lần thỏ bạc ác vàng,
1270. Xót người trong hội đoạn tràng
đòi cơn !
Đã cho lấy chữ hồng nhan,
Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân !
Đã đày vào kiếp phong trần,
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi !
|
|
1057.
Rèm châu: do chữ Châu liêm, rèm kết bằng
ngọc châu.
1061. Mạch: Dòng dõi.
1063. Bóng nga: Bóng người đẹp, chỉ
Kiều.
1064. Đeo đai: Vương vấn ra vẻ
quyến luyến.
1067. Trong nguyện trên mây: ý nói có một phẩm
giá khác đời, như Hằng nga trong cung
nguyệt hay tiên nữ trên cung mây.
1070. Chữ lòng ở đầu câu là Sở Khanh
tự nói lòng mình còn chữ lòng ở cuối câu
là Sở Khanh hỏi lòng Kiều, hai chữ chỉ
riêng hai người.
1073. Song thu: Cửa sổ mùa thu (nói thời
tiết khi ấy).
1080. Tế độ: Cứu vớt.
Trầm luân: Chìm đắm, đắm đuổi.
ý Kiều muốn nhờ Sở Khanh cứu mình thoát
nạn thanh lâu như Phật cứu vớt chúng
sinh khỏi bể trầm luân.
1081. Mảnh tiên: Mảnh giấy hoa tiên, tức
tờ thư.
1082. Nỗi nhà báo đáp: Nông nỗi phải báo
đáp ơn nhà, bán mình chuộc cha.
1084. Tiện hồng: Thuận tiện cánh chim
hồng, tức là nhân có người mà gửi thư.
Chữ hồng đây dùng như chữ nhạn,
chỉ tin tức thư từ.
1086. Tiên mai: Do chữ mai tiên, tờ tiên có vẽ cành
hoa mai.
1090. Tuất thì: Giờ tuất, tức tám, chín
giờ tối hiện nay. Hai chữ tích việt
của Sở Khanh, đem tản ra theo lối
tản tự, thì thành những chữ trấp
nhất naật tuất lẩu, nghĩa là ngày hai mươi
mốt, giờ tuất, chạy trốn. Đó là
Sở Khanh bí mật hẹn ngày giờ đi
trốn mà Kiều đã lấy ý tứ suy đoán
ra.
1091. Thoi thót: Chim từng con lần lượt bay
về, con này rồi đến con khác.
1092. Ngậm trǎng nửa vành: ý nói buổi
tối, vầng trǎng chiếu vào hoa trà mi
ngậm lấy nửa vành trǎng.
1096. ÂÂAn cần: ở đây có nghĩa là
khẩn khoản.
1097. Bèo bọt: Như bèo hay bọt trôi nổi trên
mặt nước, ngụ lý lưu lạc lẻ
loi.
1098. Yến anh: Đây chỉ gái nhà chứa. ý
Kiều nói: nàng như con chim lạc đàn,
lại mang lấy cái nợ làm gái nhà chứa.
1099. Cốt nhục tử sinh: Do chữ sinh tử
nhục cốt. Tả chuyện: Sở vị sinh
tử cốt đã (thế gọi là làm sống
lại người chết, làm mọc thịt
nắn xương khô - làm cho người đã
chết sống lại, xương đã khô
mọc thịt ra). Do đó, người ta thường
chỉ sự làm ơn rất sâu sắc, to
lớn.
1100. Kết cỏ ngậm vành: Tả chuyện:
Nguỵ Thù nước Tấn, có tột người
thiếp yêu, khi sắp chết còn dặn con là
Nguỵ Khoả phải đem cả người
thiếp chôn theo. Nguỵ Thù chết, Nguỵ
Khoả cho người thiếp về không đem
chôn theo. Sau Nguỵ Khoả làm tướng đi
đánh giặc nước Tần, gặp tướng
Tần là Đỗ Hồi, khoẻ mạnh có
tiếng, đang lúc đánh nhau, tự nhiên Đỗ
Hồi vấp phải đám cỏ mà ngã, bị
Nguỵ Khoả bắt được. Đêm
về, Nguỵ Khoả mộng thấy một ông
già đến nói rằng: "Tôi là cha người
thiếp, cảm ơn ông không chôn con gái tôi, nên tôi
kết cỏ quấn chân Đỗ Hồi cho nó ngã
vấp để báo ơn".
Tục Tề hài ký: Dương Biểu đến
chơi núi Hoa Âm cứu sống được
một con chim. Đêm ấy có một đồng
tử mặc áo vàng đến tặng bốn
chiếc vòng và nói rằng: "Ta là sứ giả
của Tây Vương mẫu may được chàng
cứu mạng, xin cảm tạ đại ân".
Do đó, người ta thường nói
"kết cỏ ngậm vành" để
chỉ sự đền ơn trả nghĩa.
1107. Truy phong: Đuổi theo gió, nói con ngựa
đi rất nhanh.
1108. Dưới trướng: Do chữ trướng
hạ, nguyên chỉ quân sĩ thuộc quyền
chỉ huy của một vị soái. Đây dùng
để chỉ kẻ thủ hạ của Sở
Khanh.
Kiện nhi: Người trẻ tuổi mà có
sức khỏe. Sở Khanh khoe nhà y có ngựa
tốt và thủ hạ khỏe mạnh, là có ý
bảo Kiều nếu chạy trốn thì sẽ
sẵn phương tiện và người hộ
vệ chắc chắn không phải lo ngại gì.
1110. Ba mươi sáu chước: "Tam thập
lục" là một danh từ chỉ chung tất
cả các chước. Câu này Sở Khanh bảo
Kiều chỉ có một kế hay nhất là
chạy trốn.
1111. Gió kép mưa đơn: ý nói dù có những
trở ngại bất trắc...
1114. Quá đỗi: Quá mức, quá đà, ý nói
việc đã trót dở dang rồi.
1119. Lậu: Đồng hồ nhỏ giọt.
Thời xưa thường dùng "đồng
hồ nước" để tính thời
khắc. Đó là một cái đồng hồ
bằng đồng, dưới có đục
lỗ nhỏ, trong chứa nước, giữa
đựng một cái tên có khắc độ; nước
trong hồ do lỗ nhỏ giọt ra, thì những
độ số ở cái tên cũng dần dần
lộ ra, xem đó, biết được thời
khắc của ngày đêm. Danh từ đồng
hồ ngày nay còn quen gọi là gốc ở đó.
1122. Lòng quê: Lòng nhớ quê hương.
1124. Dậy dàng: Xôn xao ồn ào nổi lên.
1125. Gan vàng: Có nghĩa như "lòng vàng".
Kiều đoán có người đuổi theo phía
sau nên hồi hộp sợ hãi...
1128. Dặm rừng: Đường rừng,
lối đi trong rừng.
1130. Lắm nau: Lắm nao, có nghĩa là đến
như thế sao!
1132. Vuốt: Móng sắc của loài thú. ý nói không
thoát lối nào được.
1139. Thú tội, chịu tội.
Khẩn cầu: Khẩn khoản, cầu xin.
1142. Nước non ý nói cách trở nước non,
tức là nơi ở xa xôi.
1150. Bảo lĩnh: Người đứng ra đảm
bảo, chịu trách nhiệm thay.
Cung chiêu: Cung khai, nhận tội Tú bà muốn
bắt buộc Kiều giữ lời hứa, nên
bắt làm tờ cung chiêu nhận tội, và
bắt người đứng bảo lĩnh
về lời cam kết của nàng.
1151. Bày vai: Cùng hàng cùng lứa.
1152. Chịu đoan: Chịu nhận trách nhiệm
về Kiều.
1160. Phù dung: Hoa phù dung, ví với người đẹp.
1161. Đà đao: Khi đánh giặc, giả thua
chạy để người ta đuổi theo,
rồi thình lình quǎng dao lại chém, gọi là
"đà dao". "Đà đao" đây là
một chước lửa.
1162. Mộ cốt một đồng: Nói Tú bà
với Sở Khanh thông đồng hiệp mưu
với nhau để đánh lừa Kiều.
1146. Không dưng: Nếu không thì tự nhiên làm chi
có...
1166. Sân si: Phân bua, cãi cọ. Mã Kiều khuyên
Kiều nên nén nỗi tức giận, chớ nên
đôi có với Sở Khanh mà thiệt mình.
1173. Quyến gió rủ mây: Quyến rũ mây gió
đi theo. ý nói quyến rũ Kiều.
1178. Thị hùng: Cậy sức mạnh mà ra oai
đánh đập người.
1189. Anh yến: Chỉ chung những người con
gái.
1181. Giếng khơi: Giếng sâu.
1182. Ǎn lời: Nuốt lời, tức không
giữ lời.
1184. Mặt ấy, mặt này: Mấy tiếng này,
Kiều xỉa xói vào mặt Sở Khanh mà nói,
đối đáp lại tiếng "mặt mày"
của Sở Khanh ở trên.
1186. Vô lương: Cũng như bất lương,
không lương thiện, không có lương tâm.
1191. Trong giá trắng ngần: Do câu tục ngữ:
Trong như giá, trắng như ngần, trong như bǎng
trắng như bạc (ngần là do chữ ngân).
1028. Khép mở, riêng chung: Chỉ giọng nói
tỉ tê, nửa khép nửa mở, mối tình
nỉ non, như riêng như chung, tức những mánh
khoé quyến rũ.
1210. Vành ngoài bảy chữ: Bảy cách đối
với khách ở bề ngoài để cho khách say
mê.
Vành trong tám nghề: Tám cách đối đãi trong
khi ǎn nằm với khách, đối với
mỗi hạng người, dùng một lối riêng
để làm vừa lòng họ.
1213. Khoé hanh: Khoé mắt; mắt sắc như lá
hạnh.
Khi khoé hạnh, khi nét ngài: ý nói khi mắt
liếc, khi mày đưa.
1216. Người soi: Người sành sỏi,
lịch lãm, biết ngón chơi.
1218. Nét nguyệt: Nét lông mày hình vành trǎng.
Vẻ hồng: Vẻ mặt hồng.
1220. Khắt khe: ở đây như nói éo le, quái ác.
1221. Các khuê: Do chữ khuê các.
1227. Trướng đào: Màn màu đỏ, phụ
nữ thường dùng.
1231. Lá gió cành chim: Lá đưa gió, cành đón
chim, chỉ sự đưa đón khách chơi.
1232. Tổng Ngọc: Người nước
Sở, đời chiến quốc, đẹp trai,
có những bài Cao đường phú, Thần
nữ phú, nói về chuyện mây mưa của
thần núi Vu Sơn...
Tràng Khanh: (Chính là chữ Trưởng nhưng thường
đọc là Trường hay Tràng): Tên tự
của Tư Mã Tương Như, người Hán,
yêu sắc đẹp của Trác Vǎn Quân,
gảy đàn cầm gợi tình, làm cho nàng đang
đêm bỏ nhà chốn theo mình.
Tống Ngọc và Tràng Khanh đều giỏi
từ phú, là hai người tài tử, do đó, câu
này ngụ ý khách đến chơi toàn những
hạng phong lưu quý phái.
1239. Mưa Sở mây Tần: Chỉ sự ái ân
trai gái.
1242. Gió tựa, hoa kề: ý nói những cảnh vui
thú ở chốn thanh lâu.
1242. Tuyết ngậm: Bóng trǎng tỏ soi khắp
bốn bề. Hai câu 1241-1242 tả bốn cảnh:
"gió, hoa, tuyết, trǎng" (phong, hoa,
tuyết nguyệt).
1246. Trong nguyệt: Trong bóng trǎng.
Dưới hoa: Dưới dàn hoa. Hai câu 1245-1246
tả bốn thú chơi: gẩy đàn, đánh
cờ, ngâm thơ, vẽ tranh, (cầm, kỳ, thi,
hoa).
1249. Gió trúc mưa mai: Mưa gió chỉ sự ái ân
(như nghĩa mưa gió dập vùi) trúc mai chỉ
sự bạn. Đây tiếp ý trên: Kiều
thờ ơ với tất cả những chuyện
mưa gió, trúc mai...
1250. Giùi mài: Như nói mòn mỏi, thui thủi. Cũng
có ý như là bị dập vùi.
1253. Bóng dâu: Bóng mặt trời xế trên ngọn
dâu. Sách Hoài nam nữ nói: Mặt trời xế
về phía phương Tây, gác bóng trên ngọn cây.
Người sau mượn chữ bóng dâu để
ví tuổi già.
1255. Dặm nghìn: Tức nghìn dặm.
1257. Sân hoè: Sân có trồng cây hoè. Vương
Hựu đời Tống tự tay trồng ba cây
hoè ở sân nhà và nói: "Con cháu ta sau này thế
nào cũng làm đến chức tam công"
(Thời xưa, ở phía trước sân chầu
nhà vua, chỗ ngồi của tam công, có trồng ba
cây hoè, nên Vương Đán làm đến tể
tướng. Nhân đó, người ta thường
nói sân hoè để chỉ những nhà có con cái
hiển đạt).
Đôi chút thơ ngây: Chỉ Thuý Vân và Vương
Quan.
1258. Trân cam: Những thức ǎn quý báu, ngon
ngọt. Hai câu này, ý Kiều nói: Cha mẹ mỗi
ngày một già, mà con cái trong nhà, thì sau khi nàng
đi iồi, chỉ còn hai em nhỏ dại,
lấy ai là người phụng dưỡng trân
cam thay mình.
1261. Chương Đài: theo sách Thái bình quảng ký:
Hàn hoành, đời Đường lấy một
danh kỳ là Liễu thị ở đường
phố Chương Đài, Trường An, sau đi
làm quan xa, để vợ ở lại đó ba nǎm,
không đón đi được,có gửi cho
Liễu thị bài từ rằng: Chương Đài
Liễu, Chương Đài Liễu, đã ưng
nhật thanh thanh kim tại phủ? Túng sử trường
điều tự cựu thuỳ, đã ưng phan
chiết tha nhân thủ! (Cây liễu Chương
Đài, cây liễn Chương Đài, ngày trước
xanh xanh, nay còn không? Cho dù cành dài vẫn buông
rủ như cũ, song có lẽ đã vin vào tay người
khác rồi!). Đây ý nói: Khi Kim Trọng đi Liêu
Dương hộ tang chú trở về, sẽ
hỏi người tình nhân cũ (là Thuý Kiều).
1262. Cành xuân: Cành xanh đẹp..
1263. Tình sâu: chỉ tình chị em, Nghĩa dày:
Chỉ nghĩa vợ chồng. ý Kiều mong Thuý Vân
lấy tình chị em thay mình, trả nghĩa cho Kim
Trọng.
1264. Hoa kia, cành này: "Hoa kia" chỉ Thúy Vân,
"cành này" chỉ Kim Trọng.
1266. Hương quan: Quê hương
Giấc hương quan: Giấc mộng về quê hương.
1267. Song ca: cũng như song the. Xem chú thích 240.
1268. Hoàng hôn: Về chiều tối, khi mặt
trời sắp lặn, có ánh vàng vàng, gọi là hoàng
hôn.
1269. Thỏ bạc, ác vàng: Như nói "thỏ
lặn, ác tà" tức ngày và đêm lần lượt
qua đi.
|
|