|
1275.
Khách du bỗng có một người,
Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương.
Vốn người huyện Tích châu Thường,
Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm tri .
Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi,
.
1280. Thiếp hồng tìm đến hương khuê
gửi vào .
Trướng tô giáp mặt hoa đào,
Vẻ nào chẳng mặn nét nào chǎng ưa ?
Hải đường mơn mởn cành tơ,
Ngày xuân càng gió càng mưa càng nồng.
.
1285. Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng,
Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chǎng?
Lạ gì thanh khí lẽ hằng,
Một dây một buộc ai giằng cho ra .
Sớm đào tối mận lân la,
.
1290. Trước còn trăng gió sau ra đá vàng.
Dịp đâu may mắn lạ dường,
Lại vừa gặp khoảng xuân đường
lại quê .
Sinh càng một tỉnh mười mê,
Ngày xuân lắm lúc đi về với xuân.
.
1295. Khi gió gác khi trăng sân,
Bầu tiên chuốc rượu câu thần nối
thơ .
Khi hương sớm khi trà trưa,
Bàn vây điểm nước đường tơ
họa đàn.
Miệt mài trong cuộc truy hoan,
.
1300. Càng quen thuộc nết càng dan díu tình.
Lạ cho cái sóng khuynh thành,
Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi .
Thúc sinh quen thói bốc rời,
Trǎm nghìn đổ một trận cười như
không.
.
1305. Mụ càng tô lục chuốt hồng,
Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê .
Dưới trǎng quyên đã gọi hè,
Đầu tường lửa lựu lập loè
đâm bông.
Buồng the phải buổi thong dong,
1310. Thang lan rủ bức trướng hồng
tẩm hoa .
Rõ màu trong ngọc trắng ngà !
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.
Sinh càng tỏ nét càng khen,
Ngụ tình tay thảo một thiên luật
đường.
.
1315. Nàng rằng: Vâng biết ý chàng.
Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu .
Hay hèn lẽ cũng nối điêu,
Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang.
Lòng còn gửi áng mây Vàng.
.
1320. Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay .
Rằng: Sao nói lạ lùng thay !
Cành kia chẳng phải cỗi này mà ra ?
Nàng càng ủ đột thu ba,
Đoạn trường lúc ấy nghĩ mà
buồn tênh:
.
1325. Thiếp như hoa đã lìa cành,
chàng như con bướm lượn vành mà chơi
.
Chúa xuân đành đã có nơi,
Vắn ngày thôi chớ dài lời làm chi .
Sinh rǎng: Từ thuở tương tri,
.
1330. tấm riêng riêng những nặng vì nước
non.
Trăm năm tính cuộc vuông tròn,
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông.
Nàng rằng: Muôn đội ơn lòng.
Chút e bên thú bên tòng dễ đâu .
.
1335. Bình Khang nấn ná bấy lâu,
Yêu hoa yêu được một màu điểm
trang.
Rồi ra lạt phấn phai hương,
Lòng kia giữ được thường thường
mãi chăng ?
Vả trong thềm quế cung trăng,
.
1340. chủ trương đành đã chị
Hằng ở trong.
Bấy lâu khǎng khít dải đồng,
Thêm người người cũng chia lòng riêng tây
.
Vẻ chi chút phận bèo mây,
Làm cho bể ái khi đầy khi vơi .
.
1345. Trăm điều ngang ngửa vì tôi,
Thân sau ai chịu tội trời ấy cho ?
Như chàng có vững tay co,
Mười phần cũng đắp điếm
cho một vài .
Thế trong dầu lớn hơn ngoài,
.
1350. trươc hàm sư tử gửi người
đằng la .
Cúi đầu luồn xuống mái nhà,
Giấm chua lại tội băng ba lửa nồng.
ở trên còn có nhà thông,
Lượng trên trong xuống biết lòng có thương?
.
1355. Sá chi liễu ngõ hoa tường?
Lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh.
Lại càng dơ dáng dại hình,
Đành thân phận thiếp ngại danh giá chàng.
Thương sao cho vẹn thì thương.
1360. Tính sao cho vẹn mọi đường xin vâng.
Sinh rằng: Hay nói đè chừng !
Lòng đây lòng đấy chưa từng hay
saỏ
Đường xa chớ ngại Ngô Lào,
Trǎm điều hãy cứ trông vào một ta .
1365. Đã gần chi có điều xa ?
Đá vàng đã quyết phong ba cũng liều .
Cùng nhau cǎn vặn đến điều,
Chỉ non thề bể nặng gieo đến
lời .
Nỉ non đêm ngắn tình dài,
1370. Ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm gương.
Mượn điều trúc viện thừa lương,
Rước về hãy tạm giấu nàng một nơi
.
Chiến hòa sắp sẵn hai bài,
Cậy tay thầy thợ mượn người dò
la .
1375. Bắn tin đến mặt Tú bà,
Thua cơ mụ cũng cầu hòa dám sao .
Rõ ràng của dẫn tay trao,
Hoàn lương một thiếp thân vào cửa công.
Công tư đôi lẽ đều xong,
1380. Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai .
Một nhà sum họp trúc mai,
Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông.
Hương càng đượm lửa càng nồng,
Càng sôi vẻ ngọc càng lồng màu sen.
.
.
1385. Nửa nǎm hơi tiếng vừa quen,
Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng.
Giậu thu vừa nảy giò sương,
Gối yên đã thấy xuân đường đến
nơi .
Phong lôi nổi trận bời bời,
.
.
1390. Nặng lòng e ấp tính bài phân chia .
Quyết ngay biện bạch một bề,
Dạy cho má phấn lại về lầu xanh.
Thấy lời nghiêm huấn rành rành,
Đánh liều sinh mới lấy tình nài kêu .
.
.
1395. Rằng: Con biết tội đã nhiều,
Đẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam.
Trót vì tay đã nhúng chàm,
Dại rồi còn biết khôn làm sao đây .
Cùng nhau vả tiếng một ngày,
.
.
1400. ôm cầm ai nỡ dứt dây cho đành.
Lượng trên quyết chẳng thương tình,
Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi .
Thấy lời sắt đá tri tri,
Sốt gan ông mới cáo quì cửa công.
.
.
1405. Đất bằng nổi sóng đùng đùng,
Phủ đường sai lá phiếu hồng thôi
tra .
Cùng nhau theo gót sai nha,
Song song vào trước sân hoa lạy quì.
Trông lên mặt sắt đen sì,
1410.Lập nghiêm trước đã ra uy nặng
lời:
Gã kia dại nết chơi bời,
Mà con người thế là người đong
đưa .
Tuồng chi hoa thải hương thừa,
Mượn màu son phấn đánh lừa con đen.
1415. Suy trong tình trạng nguyên đơn,
Bề nào thì cũng chưa yên bề nào .
Phép công chiếu án luận vào .
Có hai đường ấy muốn sao mặc mình.
Một là cứ phép gia hình,
1420. Một là lại cứ lầu xanh phó về.
Nàng rằng: đã quyết một bề !
Nhện này vương lấy tơ kia mấy
lần.
Đục trong thân cũng là thân.
Yếu thơ vâng chịu trước sân lôi đình
!
1425. Dạy rằng: Cứ phép gia hình !
Ba cây chập lại một cành mẫu đơn.
Phận đành chi dám kêu oan,
Đào hoen quẹn má liễu tan tác mày .
Một sân lầm cát đã đầy,
1430. Gương lờ nước thủy mai
gầy vóc sương.
Nghĩ tình chàng Thúc mà thương,
Nẻo xa trông thấy lòng càng xót xa .
Khóc rằng: Oan khốc vì ta !
Có nghe lời trước chẳng đà lụy sau
.
1435. Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu .
Để ai trǎng tủi hoa sầu vì ai .
Phủ đường nghe thoảng vào tai,
Động lòng lại gạn đến lời riêng
tây .
Sụt sùi chàng mới thưa ngay,
1440. Đầu đuôi kể lại sự ngày
cầu thân:
Nàng đà tính hết xa gần,
Từ xưa nàng đã biết thân có rày .
Tại tôi hứng lấy một tay,
Để nàng cho đến nỗi này vì tôi .
1445. Nghe lời nói cũng thương lời,
Dẹp uy mới dạy cho bài giải vi .
Rằng: Như hẳn có thế thì
Trǎng hoa song cũng thị phi biết điều
.
Sinh rằng: Chút phận bọt bèo,
1450. Theo đòi vả cũng ít nhiều bút nghiên.
Cười rằng: đã thế thì nên !
Mộc già hãy thử một thiên trình nghề.
Nàng vâng cất bút tay đề,
Tiên hoa trình trước án phê xem tường.
1455. Khen rằng: Giá đáng Thịnh đường
!
Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân !
Thật là tài tử giai nhân,
Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn?
Thôi đừng rước dữ cưu hờn,
1460. Làm chi lỡ nhịp cho đòn ngang cung.
Đã đưa đến trước cửa công,
Ngoài thì là lý song trong là tình.
Dâu con trong đạo gia đình,
Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong.
1465. Kíp truyền sắm sửa lễ công,
Kiệu hoa cất gió đuốc hồng điểm
sao .
Bày hàng cổ xúy xôn xao,
Song song đưa tới trướng đào sánh
đôi .
Thương vì hạnh trọng vì tài,
1470. Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba .
Huệ lan sực nức một nhà,
Từng cay đắng lại mặn mà hơn xưa
|
|
1275. Khách du: Khách
đi chơi, đi du lãm.
1276. Kỳ tâm: Tên của họ Thúc, theo truyện
Thanh tâm tài nhân thì Kỳ Tầm là tên tự
của Thúc sinh.
1277. Huyện Thích, Châu Thường: tức
huyện Vô Tích, phủ Thường Châu, thuộc
tỉnh Giang Tô (Trung Quốc).
1278. Nghiêm đường: Tức cha. Cha tính nghiêm
nghị, mẹ tính hiền từ, nên người
ta gọi cha là "nghiêm đường",
"nghiêm phụ", mẹ là "từ
mẫu", "từ thân".
1279. Thiếp hồng: Do chữ hồng tiên, thứ
thiếp hồng gửi thăm người đẹp.
Hương khuê: Phòng hương, phòng ở
của phụ nữ, tục xưa phụ nữ
hay dùng hương thơm, nên gọi là "hương
khuê".
1281. Trưởng tô: do chữ lưu tô trưởng,
thứ màn có tua kết bằng lông chim năm
sắc.
1287. Lẽ hằng: Lẽ thường như
thế.
1289. Đào mận: Nói bóng sắc đẹp
của người con gái.
1290. Đá vàng: Chỉ sự đồng tâm
gắn bó với nhau.
1296. Chuốc: So chữ Chước, rót rượu
mời nhau.
Nối thơ: Nối câu thơ, do chữ "liên
cú" một lối chơi của các tao nhân
mặc khách thời xưa, thường hai người,
hoặc nhiều người nối lời nhau làm
chung một bài thơ.
1297. Hương sớm, trà trưa: Xông hương
buổi sớm, uống trà buổi trưa.
1298. Bàn vây: Bàn cờ vây. Trung Quốc có hai
lối chơi cờ:
Vi kỳ: Cờ vây
Tượng kỳ: tức cờ tướng.
1299. Truy hoan: Theo đuổi sự vui chơi.
1301. Sóng khuynh thành: Chỉ cái liếc nhìn của
người đàn bà đẹp.
1303. Bốc rời: Tiền rời cứ bốc
từng nắm mà chi, không cần đếm là bao
nhiêu, ý nói vung phí không tiếc tiền.
1306. Hơi đồng: Tức mùi tiền bạc.
Thời xưa, tiền tiêu đúc bằng đồng,
nên nói "đồng" tức là tiền.
1308. Lửa lựu: Hoa lựu khi nó nở trông
đỏ chói như lửa chỉ cảnh mùa hè.
1312. ý nói Kiều có một thân thể đầy
đặn xinh đẹp.
1314. Luật Đường: Tức lối thơ
ngữ ngôn luật (luật nǎm chữ) hay
thất ngôn luật (luật bảy chữ),
mỗi bài tám câu, nǎm vần, theo đúng niêm
luật bằng trắc. Lối này có từ đời
Đường, nên gọi là luật Đường.
1317. Nối điêu: Nối đuôi con điêu.
"Điêu" là một loài chuột ở
rừng núi miền lạnh, đuôi to, lông dài
đến một tấc, màu vàng hoặc đen tía.
Đời Hán, theo quan chế, các quan hầu
cận vua đều đội thứ mũ có
cắm đuôi con điêu làm ngù. Đến đời
Tần, Triệu Vương Luân cướp ngôi
Huệ đế, phong quan tước cho bọn tôi
tớ, mỗi khi triệu hội, ngồi đẩy
những người đội mũ đuôi điêu,
nên người thời ấy đã chê giếu:
Điêu bất tức, cầu vĩ tục (đuôi
điêu không đủ, lấy đuôi chó nối vào).
Người sau nhân chữ cẩu vĩ tục
điêu (nối điêu) để chỉ sự
việc gì có tính chất học đòi. Chữ
"nối điêu" ở đây, là lời
Kiều tự khiêm về việc họa lại thơ
Thúc sinh.
1318. Nỗi quê: Nỗi lòng nhớ quê hương.
1319. Mây vàng: Nói ý nhớ nhà, do câu thơ cổ:
Tần Trung đa bạch vân. Thục trung đa hoàng
vân, cố tư gia giả vị chi cư hoàng vân
(đất Tần nhiều mây trắng, đất
Thục nhiều mây vàng, cho nên nhớ nhà gọi là
nhớ mây vàng).
1322. Cành kia, cỗi này: Chỉ Kiều và Tú bà. Thúc
sinh tưởng Kiều là con đẻ của Tú bà.
1323. Thu ba: Sóng mùa thu, chỉ con mắt (nói con
mắt trong suốt như suối mùa thu).
1327. Chúa xuân: Người chủ vường xuân,
chủ hoa xuân, đây chỉ Thúc sinh. Câu này ý nói:
Thúc Sinh ở nhà đã có vợ rồi.
1329. Tương tri: Hiểu biết nhau thông cảm
với nhau.
1330. Nước non: Sông núi tức lời thề
nguyền kết làm vợ chồng.
1334. Thú, tòng: Thú là "thú thiếp": lấy
vợ lẽ, chỉ bên Thúc sinh; tòng "tòng lương":
trở về lương, tức bỏ chỗ
lầu xanh để trở về, đi lấy
chồng, chỉ bên Kiều. Hai bên cùng gặp
nhiều khó khăn.
1335. Bình khang: Đời Đường, ở kinh
thành Trường an, gần cửa Bắc, có
một xóm gọi là Bình Khang cho kỹ nữ
ở, sau nhân dùng làm danh từ chỉ chung xóm
kỹ nữ.
1339. Thềm quế: Thềm điện quế. Dâu
đương tạp trở chép: Trên mặt trăng
có cây quế tiêu, cao năm trăm trượng, do
đó, khi tả mặt trăng, người ta thường
dùng chữ điện quế, cung quế.
1340. Chị Hằng: Chị Hằng Nga, người
chủ trương trong điện quế, nói bóng
vợ cả Thúc sinh.
1341. Giải đồng: Giải đồng tâm.
1342. Thêm người, người cũng... chữ
người chỉ Kiều, chữ người dưới
chỉ Thúc sinh.
1343. Bèo mây: Nói thân phận trôi nổi bất
định như bèo mặt nước, mây trên không.
1344. Bể ái: Bể ân ái, tức tình yêu vợ
chồng.
1347. Vững tay co: Cái tay co vững. Kiều nói:
Nếu chàng có cứng tay, tức có quyền
lực đối với vợ cả.
1349. Trong ngoài: Chỉ vợ cả và Thúc sinh. Theo
lễ giáo xưa: Nam t ự ngoại, nữ tự
nội: Đàn ông trong coi việc bên ngoài, đàn
bà trông coi việc trong nhà. ý Kiều nói: Nếu
thế lực vợ cả lớn hơn thế
lực chàng.
1350. Hàm sư tử: Đời Tống, Trần Tháo,
hiệu Long Khâu cư sĩ, hay nói chuyện đạo
Phật, vợ là Liễu thị, tính dữ
tợn mà cả ghen, mỗi khi Tháo thết tiệc
tân khách, có ca kỹ, thì ở trong nhà, Liễu
thị lấy gậy đập vào vách, hò hét, khách
phải giải tán. Tồ Thức, Bạn Tháo,
viết mấy câu thơ đùa:
"Thuỳ tự Long Khâu cư sĩ hiền,
Đàm không thuyết hữu dạ bất miên,
Hốt văn Hà Đông sư tử hồng
Trụ trượng lạc thủ tấm mang nhiên".
Dịch nghĩa:
"Ai giỏi như Long Khâu cư sĩ
"Nói những thuyết không, thuyết có, đếm
không ngủ
"Bỗng nghe sử tử Hà Đông rống lên
"Tay rơi gậy chống, lòng bàng hoàng.
Đằng la: Những loài dây leo (chính nghĩa là
dây bim, dây tơ hồng) dây dùng như chữ cát
đằng dây bìm, ví với phận lẽ
mọn.
1352. Một số cố lão ở Nghệ - Tĩnh
thuộc hai chữ đầu câu này là Dấm vùi
hay Nhúm vùi. ý nói: lửa bếp vùi âm ỉ cháy
(chỉ thói ghen tuông) còn khó chịu hơn cả
lửa hồng.
1353. Nhà thông: Nhà thung, đọc chệch ra,
tức nhà xuân, do chữ xuân đường
chỉ bố Thúc sinh.
1355. Liễu ngõ, hoa tường: Nói ví gái lầu
xanh như liễu bên đường, hoa đầu
tường, ai vin ai hái cũng được.
1363. Ngô, Lào: Nước Ngô (Trung Quốc), nước
Lào (Ai Lao) tác giả dùng nghĩa bóng. ý nói: Đừng
nghĩ ngợi xa xôi, quanh quẩn làm gì.
1366. Phong ba: Sóng gió, chỉ sự bất trắc
xẩy ra.
1370. Non đoài: Núi ở phía tây.
1371. Trúc viện: Viện trúc, nơi nghỉ mát có
trồng trúc xung quanh.
Thừa lương: Hóng mát, nghỉ mát, Thúc sinh mượn
cớ là đưa Kiều đi hóng mát.
1373.Chiến, hoà: ở đây, chiến là dịa
chuyện kiện cáo, hoà là lựa cách điều
đình. Theo Kim vân Kiều truyện của Thanh
Tầm: Thúc sinh đưa Kiều về ở nhà
Hoa Dương, một tay hào phú xứ ấy,
rồi một mặt cậy Hoa Dương rêu rao
về tội mua con gái nhà lương thiện
về làm gái điếm, một mặt mượn
Bộ Tần đến đièu đình việc
chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh.
1376. Thua cơ: Thua mưu, thua mẹo của Thúc
sinh.
1378. Hoàn lương: Gái đĩ bỏ nghề cũ
trở về đời lương thiện.
1380. Trần ai: Bụi bậm chỉ cảnh
lầu xanh.
1381. Trúc, mai: Chỉ sự giao kết thân mật
của vợ chồng.
1383. Hương lửa: Chỉ tình duyên vợ
chồng.
1384. Ngọc sen: Hai câu tỏ ý "sum họp"
mai trúc đã về một nhà.
1386. Sân ngô: Sân có trồng cây ngô đồng. Ngô
đồng là một loài cây cao, cành lá xanh
biếc, nên thường gọi là bích ngô chen lá vàng
giữa chòm lá xanh biếc, tức trời đã
sang thu.
1387. Giậu thu: Giậu hoa mùa thu.
Giò sương: giò hoa chịu được sương,
ý chỉ hoa cúc.
1389. Phong lôi: gió, sấm, nói cơn giận nổi
lên dữ dội như gió, như sấm.
1390. Nặng lòng e ấp: Thúc ông trong lòng lấy làm
e sợ về việc để cho con gái lầu
xanh như thế, vì không những làm xấu thanh
danh nhà mình, mà đối với Hoạn thư cũng
sẽ có chuyện lôi thôi.
1391. Biện bạch: ở đây nghĩa là phán
bảo minh mạch, rành rọt.
1393. Nghiêm huấn: Lời dạy của bố.
1396. Sấm sét: Do chữ lôi đình, chỉ sự
ra uy, như quát mắng đánh đập.
Búa rìu: Do chữ phủ việt, chỉ dự gia hình,
ý cả câu: Dẫu đánh mắng hay giết
chết cũng xin chịu.
1397. Tay đã nhúng chàm: Cái tay đã nhúng vào chàm,
thì dù rút ra cũng bị nhuốm chàm xanh rồi.
1400. Đã lấy nhau thành vợ chồng thì
nỡ nào lại lìa bỏ, cũng như nỡ ôm
đàn cầm mà gẩy thì nỡ nào lại đứt
dây cho được.
1402. Bạc đen: Chưa thực rõ nghĩa. Có người
giải bạc đen là sống chết cũng
liều.
1404. Sốt gan: Nóng gan, như nói nóng tiết.
Cáo quỳ: Cáo là thưa trình, quì là quì gối,
tức quì gối mà đề đơn thưa trình.
Lệ xưa, ai vào quan thưa trình việc gì,
phải quì gối trước công đường
đầu đội lá đơn.
1405. Đất bằng nối sóng: Do chữ Bình
địa ba đào.
1406. Phủ đường: Dinh quan phủ, ở
đầy chỉ quan phủ.
Phiếu hồng: Tờ trát của quan.
Thôi tra: Đòi lên xét hỏi.
1408. Sân hoa: Sân phủ đường (chữ hoa
ở đây chỉ đặt cho đẹp
lời)
1409. Mặt sắt: Do chữ thiết diện,
mặt đen và cứng rắn như sắt, thường
mượn để chỉ một vị quan cương
trực, nghiêm nghị.
1415. Nguyên đơn: Đơn của người
nguyên cáo, tức Thúc ông (Thúc sinh và Kiều là
bị cáo).
1419. Gia hình: Gia hình có nghĩa là bắt phải
chịu tội, hình phạt, ở đây là
phạt trượng tức dùng trường
(gậy) mà đánh.
1422. ý Kiều nói: Đã quyết tình hoàn lương
rồi, không muốn lại lần nữa mắc vào
cảnh lầu xanh, như con nhện lại vướng
víu vào lưới tơ thêm một lần nữa.
1423. Đục, trong: ý nói: dù đục hay trong, dù
dở hay hay.
1424. Yếu thơ: Yếu ớt, thơ dại.
Lôi đình: Sấm sét, chỉ hình phạt.
1426. Ba cây: Do chữ tam mộc là thứ hình cụ
thể bằng gỗ thời xưa, tức già,
nữu giới (cái gông cổ, cái kẹp tay và cái
cùm chân). ở đây, chữ bạ cây, chỉ các
hình phạt dồn vào cái thân yếu ớt
của Kiều.
Mẫu đơn: Cành hoa đẹp ví nói Kiều.
1437. Phủ đường: chỉ vào quan phủ.
1440. Cầu thân: Cầu làm thân, nói việc định
lấy nhau.
1446. Giải vi: Cởi, gỡ vòng vây ra, đây ý nói
gỡ cho ra lối thoát để giải quyết
việc rắc rối này.
1452. Mộc già: Cái gông. Đầu đề bài thơ
là vịnh cái gông.
1455. Giá đáng Thình Đường: ý nói tương
đương với thơ Thịnh Đường.
Thịnh Đường: là giai đoạn phồn
thịnh nhất thơ của triều đại
nhà Đường, Trung Quốc;
1458. Châu Trần: ở châu Từ, về huyện
Phong, xưa kia có họ Châu và họ Trần, đời
đời làm thông gia với nhau, về sau người
ta dùng hai chữ Châu Trần để nói sự
lấy nhau đẹp đôi xứng lứa.
1459. Rước dữ cưu hờn: Mua rước
lây điều dữ và cưu mang lây sự
hờn giận.
1467. Cổ xuý: Cổ là những nhạc khí dùng
để đánh như chiêng, trống. Xuý là
những nhạc khí để thổi, như kèn sáo.
1468. Trường đào: Màn hoa đào, đây
tức là buồng cưới.
1470. Huệ lan: Hoa huệ, hoa lan, ngụ ý nói
cảnh sum họp.
|
|