|
Nỗi
nàng tai nạn đã đầy,
2740. Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy mới
thương.
Từ ngày muôn dặm phù tang,
Nửa năm ở đất Liêu dương
lại nhà.
Vội sang vườn Thúy dò la,
Nhìn phong cảnh cũ nay đà khác xưa.
2745. Đầy vườn cỏ mọc lau thưa,
Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời.
Trước sau nào thấy bóng người,
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
Xập xè én liệng lầu không,
2750. Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày.
Cuối tường gai góc mọc đầy,
Đi về này những lối này năm xưa.
Chung quanh lặng ngắt như tờ,
Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?
2755. Láng giềng có kẻ sang chơi,
Lân la sẽ hỏi một hai sự tình.
Hỏi ông ông mắc tụng đình,
Hỏi nàng nàng đã bán mình chuộc cha.
Hỏi nhà nhà đã dời xa,
2760. Hỏi chàng Vương với cùng là Thúy Vân.
Đều là sa sút khó khăn,
May thuê viết mướn kiếm ăn lần
hồi.
Điều đâu sét đánh lưng trời,
Thoắt nghe chàng thoắt rụng rời xiết
bao!
2765. Vội han di trú nơi cao,
Đánh đường chàng mới tìm vào tận
nơi.
Nhà tranh vách đất tả tơi,
Lau treo rèm nát trúc cài phên thưa.
Một sân đất cỏ dầm mưa,
2770. Càng ngao ngán nỗi càng ngơ ngẩn
đường!
Đánh liều lên tiếng ngoài tường,
Chàng Vương nghe tiếng vội vàng chạy ra.
Dắt tay vội rước vào nhà,
Mái sau viên ngoại ông bà ra ngay.
2775. Khóc than kể hết niềm tây:
Chàng ôi biết nỗi nước này cho chưa?
Kiều nhi phận mỏng như tờ,
Một lời đã lỗi tóc tơ với chàng!
Gặp cơn gia biến lạ dường,
2780. Bán mình nó phải tìm đường cứu
cha.
Dùng dằng khi bước chân ra,
Cực trǎm nghìn nỗi dặn ba bốn lần.
Trót lời hẹn với lang quân,
Mượn con em nó Thúy Vân thay lời.
2785. Gọi là trả chút nghĩa người,
Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên!
Kiếp này duyên đã phụ duyên,
Dạ đài còn biết sẽ đền lai sinh.
Mấy lời ký chú đinh ninh,
2790. Ghi lòng để dạ cất mình ra đi.
Phận sao bạc bấy Kiều nhi!
Chàng Kim về đó con thì đi đâu?
Ông bà càng nói càng đau,
Chàng càng nghe nói càng dàu như dưa.
2795. Vật mình vẫy gió tuôn mưa,
Dầm dề giọt ngọc thẫn thờ
hồn mai!
Đau đòi đoạn ngất đòi thôi,
Tỉnh ra lại khóc khóc rồi lại mê.
Thấy chàng đau nỗi biệt ly,
2800. Nhẫn ngừng ông mới vỗ về
giải khuyên:
Bây giờ ván đã đóng thuyền,
Đã đành phận bạc khôn đền tình
chung!
Quá thương chút nghĩa đèo bòng,
Nghìn vàng thân ấy dễ hòng bỏ sao?
2805. Dỗ dành khuyên giải trăm chiều,
Lửa phiền càng dập càng khêu mối
phiền.
Thề xưa giở đến kim hoàn,
Của xưa lại giở đến đàn
với hương.
Sinh càng trông thấy càng thương.
2810. Gan càng tức tối ruột càng xót xa.
Rằng: Tôi trót quá chân ra,
Để cho đến nỗi trôi hoa dạt bèo.
Cùng nhau thề thốt đã nhiều,
Những điều vàng đá phải điều
nói không!
2815. Chưa chăn gối cũng vợ chồng,
Lòng nào mà nỡ dứt lòng cho đang?
Bao nhiêu của mấy ngày đàng,
Còn tôi tôi một gặp nàng mới thôi!
Nỗi thương nói chẳng hết lời,
2820. Tạ từ sinh mới sụt sùi trở ra.
Vội về sửa chốn vườn hoa,
Rước mời viên ngoại ông bà cùng sang.
Thần hôn chǎm chút lễ thường,
Dưỡng thân thay tấm lòng nàng ngày xưa.
2825. Đinh ninh mài lệ chép thơ,
Cắt người tìm tõi đưa tờ nhắn
nhe.
Biết bao công mướn của thuê,
Lâm thanh mấy độ đi về dặm khơi.
Người một nơi hỏi một nơi,
2830. Mênh mông nào biết bể trời nơi nao?
Sinh càng thảm thiết khát khao,
Như nung gan sắt như bào lòng son.
Ruột tằm ngày một héo don,
Tuyết sương ngày một hao mòn hình ve.
2835. Thẩn thờ lúc tỉnh lúc mê,
Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao.
Xuân huyên lo sợ biết bao,
Quá ra khi đến thế nào mà hay!
Vội vàng sắm sửa chọn ngày,
2840. Duyên Vân sớm đã se dây cho chàng.
Người yểu điệu kẻ vǎn chương,
Trai tài gái sắc xuân đương vừa thì,
Tuy rằng vui chữ vu quy,
Vui nào đã cất sầu kia được nào!
2845. Khi ăn ở lúc ra vào,
Càng âu duyên mới càng dào tình xưa .
Nỗi nàng nhớ đến bao giờ,
Tuôn châu đòi trận vò tơ trăm vòng.
Có khi vắng vẻ thư phòng,
2850. Đốt lò hương giở phím đồng
ngày xưa .
Bẻ bai rủ rỉ tiếng tơ,
Trầm bay nhạt khói gió đưa lay rèm.
Dường như bên nóc trước thềm,
Tiếng kiều đồng vọng bóng xiêm mơ
màng,
2855. Bởi lòng tạc đá ghi vàng,
Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây
.
Những là phiền muộn đêm ngày,
Xuân thu biết đã đổi thay mấy lần?
Chế khoa gặp hội trường văn .
2860. Vương, Kim cùng chiếm bảng xuân
một ngày .
Cửa trời rộng mở đường mây,
Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần.
Chàng Vương nhớ đến xa gần,
Sang nhà Chung lão tạ ân chu tuyền.
2865. Tình xưa ân trả nghĩa đền,
Gia thân lại mới kết duyên Châu Trần.
Kim từ nhẹ bước thanh vân,
Nỗi nàng càng nghĩ xa gần càng thương .
ấy ai dặn ngọc thề vàng,
2870. Bây giờ kim mã ngọc đường
với ai ?
Ngọn bèo chân sóng lạc loài,
Nghĩ mình vinh hiển thương người lưu
ly .
Vâng ra ngoại nhậm Lâm truy,
Quan san nghìn dặm thê nhi một đoàn.
2875. Cầm đường ngày tháng thanh nhàn,
Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao
.
Phòng xuân trướng rủ hoa đào,
Nàng Vân nằm bỗng chiêm bao thấy nàng.
Tỉnh ra mới rỉ cùng chàng,
2880. Nghe lời chàng cũng hai đường tin
nghi .
Họ Lâm thanh với Lâm truy,
Khác nhau một chữ hoặc khi có lầm.
Trong cơ thanh khí tương tầm,
ở đây hoặc có giai âm chăng là?
2885. Thǎng đường chàng mới hỏi tra,
Họ Đô có kẻ lại già thưa lên:
Sự này đã ngoại mười niên,
Tôi đà biết mặt biết tên rành rành.
Tú bà cùng Mã Giám sinh,
2890. Đi mua người ở Bắc kinh đưa
về.
Thúy Kiều tài sắc ai bì,
Có nghề đàn lại đủ nghề văn
thơ .
Kiên trinh chẳng phải gan vừa,
Liều mình thế ấy phải lừa thế kia
.
2895. Phong trần chịu đã ê chề,
Tơ duyên sau lại xe về Thúc lang .
Phải tay vợ cả phũ phàng,
Bắt về Vô tích toan đường bẻ hoa .
Rứt mình nàng phải trốn ra,
2900. Chẳng may lại gặp một nhà Bạc kia
.
Thoắt buôn về thoắt bán đi,
Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi!
Bỗng đâu lại gặp một người,
Hơn đời trí dũng nghiêng trời uy linh .
2905. Trong tay mười vạn tinh binh,
Kéo về đóng chật một thành Lâm truy .
Tóc tơ các tích mọi khi,
Oán thì trả oán ân thì trả ân .
Đã nên có nghĩa có nhân,
2910. Trước sau trọn vẹn xa gần
ngợi khen .
Chưa từng được họ được
tên,
Sự này hỏi Thúc sinh viên mới tường.
Nghe lời đô nói rõ ràng,
Tức thì đưa thiếp mời chàng Thúc sinh .
2915. Nỗi nàng hỏi hết phân minh,
Chồng con đâu tá tính danh là gì?
Thúc rằng: Gặp buổi loạn ly,
Trong quân tôi hỏi thiếu gì tóc tơ .
Đại vương tên Hải họ Từ,
2920. Đánh quen trǎm trận sức dư muôn ngườị
Gặp nàng khi ở châu Thai,
Lạ gì quốc sắc thiên tài phải duyên .
Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên,
Làm nên động địa kinh thiên đùng đùng.
2925. Đại quân đồn đóng cõi đông,
Về sau chẳng biết vân mồng làm sao .
Nghe tường ngành ngọn tiêu hao,
Lòng riêng chàng luống lao đao thẫn thờ.
Xót thay chiếc lá bơ vơ,
2930. Kiếp trần biết giũ bao giờ cho xong
?
Hoa trôi nước chảy xuôi dòng,
Xót thân chìm nỗi đau lòng hợp tan!
Lời xưa đã lỗi muôn vàn,
Mảnh hương còn đó phím đàn còn đây,
2935. Đàn cầm khéo ngẩn ngơ dây,
Lửa hương biết có kiếp này nữa thôi
?
Bình bồng còn chút xa xôi,
Đỉnh chung sao nỡ ǎn ngồi cho an !
Rắp mong treo ấn từ quan,
2940. Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng
pha .
Dấn mình trong án can qua,
Vào sinh ra tử họa là thấy nhau .
Nghĩ điều trời thẳm vực sâu,
Bóng chim tǎm cá biết đâu mà nhìn!
2945. Những là nấn ná đợi tin,
Nắng mưa biết đã mấy phen đổi
dờỉ
Nǎm mây bỗng thấy chiếu trời,
Khâm ban sắc chỉ đến nơi rành rành.
Kim thì cải nhậm Nam bình,
2950. Chàng Vương cũng cải nhậm thành Châu
dương.
Sắm xanh xe ngựa vội vàng,
Hai nhà cùng thuận một đường phó quan .
Xảy nghe thế giặc đã tan,
Sóng êm Phúc kiến lửa tàn Chiếc giang .
2955. Được tin Kim mới rủ Vương,
Tiện đường cùng lại tìm nàng sau xưa
.
Hàng Châu đến đó bây giờ,
Thật tin hỏi được tóc tơ rành rành.
Rằng: Ngày hôm nọ giao binh,
2960. Thất cơ Từ đã thu linh trận
tiền.
Nàng Kiều công cả chẳng đền,
Lệnh quan lại bắt ép duyên thổ tù.
Nàng đà gieo ngọc trầm châu,
Sông Tiền đường đó ấy mồ
hồng nhan!
2965. Thương ôi! không hợp mà tan,
Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng!
Chiêu hồn thiết vị lễ thường,
Giải oan lập một đàn tràng bên sông.
Ngọn triều non bạc trùng trùng,
2970. Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc
gieo.
Tình thâm bể thảm lạ điều,
Nào hồn tinh vệ biết theo chốn nào?
|
|
2741.
Phù tang: Phù trì đám tang, cũng nghĩa như
hộ tang.
2743. Vườn Thuý: Chính nghĩa là cái vườn
có hiên "Lãm Thuý" chỗ Kim Trọng trọ
học lúc trước. Nhưng ở đây
chỉ nơi hai người đi về tình
tự lúc trước.
2748. Thôi Hộ đời Đường, nhân
tiết Thanh minh, đi đến nơi kỳ
ngộ, tìm người con gái đã gặp gỡ
năm trước thì chỉ thấy cửa đóng,
người đi đâu vắng, nhân đó mà làm
bài thơ, trong có câu: nhân diện bất tri hà
xứ khứ, đào hoa y cự tiểu đông
phong. Nghĩa là: mặt người không biết
đi đằng nào, hoa đào vẫn cười
với gió đông như cũ. Cây này dùng câu ý thơ
ấy để nói không thấy bóng dánh nàng
Kiều ở đâu, chỉ thấy hoa đào
vẫn cười với gió đông như năm
xưa mà thôi.
2757. Tụng đình: Sân kiện, nơi xử
kiện. ở đây dùng với nghĩa việc
chỉ kiện cáo.
.
2765. Di trú: Dời đi ở chỗ khác.
2779. Gia biến: Tai biến của gia đình.
2783. Lang quân: Tiếng dùng để chỉ người
chồng trẻ và chỉ những người trai
trẻ nói chung.
.
1788. Lai sinh: Kiếp sau. Câu này ý nói: nếu như
chết mà thiêng thì kiếp sau xin đền bù
lại.
.
2789. Ký chú đinh ninh: Ghi chú, dặn dò cặn
kẽ.
.
2801. Ván đã đóng thuyền: ý nói Thuý Kiều
bây giờ đã về tay người khác.
.
.
2807. Kim hoàn: Vòng vàng, vật Kim Trọng đưa
cho Thuý Kiều làm tin lúc mới gặp nhau (Câu 318:
Xuyến vàng đi chiếc, khǎn là một vuông).
.
2824. Dưỡng thân: Nuôi cha mẹ. Câu này ý nói:
Kim Trọng thay Kiều phụng dưỡng vợ
chồng Vương ông như cha mẹ mình.
2828. Lâm thanh: Mã Giám Sinh nói dối là quê ở
đó, nên Kim Trọng mới sai người đến
đây hỏi thǎm tin Kiều.
.
2859. Chế khoa: Khoa thi do ý vua mà mở ra, khác
với khoa thi thường lệ.
2860. Bảng xuân: Do chữ xuân bảng, bảng thi
về mùa xuân. Chiếm bảng xuân tức là thi
đỗ.
.
.
2861. Cửa trời: Do chữ thiên môn, tức là
cửa nhà vua.
Đường mây: Do chữ vân lộ hay thanh vân
lộ, ý nói đường công danh, sĩ
hoạn.
.
2862. Ngõ hạnh: Tức Hạnh Viên ở kinh đô
Tràng An. Đời nhà Đường các tân khoa
tiến sĩ được dự tiệc và xem
hoa ở đây.
.
Dặm phần: Do chữ phần du mà ra, ý nói quê
nhà. Xem chú thích 2235. Cây này tả cảnh vinh hoa
của Kim, Vương khi thi đỗ và về vinh
qui.
.
2864. Chu tuyền (hay chu toàn): Làm cho được
tròn vẹn. Câu này ý nói: Vương quan làm rể
họ Chung.
.
2870. Ngọc đường: Đời Tống Thái
Tồng, vua đề ở dinh Hàn Lâm ba chữ
Ngọc đường thự. Đời sau bèn dùng
những chữ Kim mã ngọc đường để
nói chung cảnh quan gia phú quý.
.
2873. Ngoại nhậm: Làm quan ở cõi ngoài (không
phải ở huyện nhà).
2874. Thê nhi: Vợ con.
.
2875. Phụ tử Tiện đời Xuân thu, làm
quan huyện, thường hay gảy đàn, người
sau bèn gọi đinh quan huyện là cầm
đường.
.
2876. Triệu Biên đời Tống, đi làm quan,
chỉ đem theo một con hạc và một cây
đàn, tổ ra người liêm khiết cao thượng.
.
.
2883. Thanh khí: Câu này ý nói: Thuý Vân, Thuý Kiều là
hai chị em ruột, cho nên dễ cảm thông
với nhau.
.
2884. Giai âm: Tin tốt.
.
2885. Thăng đường: Ra ngồi làm việc
ở công đường.
.
.
.
2893. Kiên trinh: Kiên quyết giữ gìn trinh tiết.
.
.
2894. Liều mình: Chỉ việc Thuý Kiều tự
vẫn lúc mới đến nhà Tú Bà.
Phải lừa chỉ việc sợ bị Sở
Khanh lừa đưa đi trốn.
.
2907. Tóc tơ: Kẽ tóc chân tơ, ý nói hỏi
rất tỷ mỷ.
..
2922. Thiên tài: Tài trời phú cho.
.
2924. Động địa kinh thiên: Sôi trời
nổi đất.
2926. Vân mồng: Tiếng cổ, nghĩa là tin
tức, manh mối.
2927. Tiên hao: Cùng nghĩa với tǎm hơi, tin
tức.
.
2937. Bình: Bèo, Bồng: Cỏ bồng. Hai vật này
thường hay trôi nổi theo nước và gió.
ở đây để chỉ tấm thân phiêu
bạt của Kiều.
.
.
2938. Đỉnh chung: Đỉnh: Cái vạc để
nấu thức ǎn. Chung: Cái chuông để đánh
báo hiệu giờ ǎn. Đỉnh chung ở
đây dùng để chỉ cảnh vinh hiển phú
quý.
2939. Treo ấn từ quan: Treo trả cái ấn
tại công đường mà bỏ về, không làm
quan nữa.
.
2944. Năm mấy: Do chữ Ngũ vân, ý nói tờ
chiếu có vẽ mây năm sắc; chiếu
trời là chiếu nhà vua.
.
.
.
2948. Khâm ban: Chữ khâm, nguyên có nghĩa là kính,
sau được dùng để chỉ nhà vua. Ví
dụ: như nói khâm sai, khâm định...
Sắc chí: Tờ sắc ban bố mệnh lệnh
của nhà vua.
.
.
2949. Cải nhậm: Đổi đi làm nơi khác.
Nam - bình: Tên huyện, thuộc tỉnh Phúc Kiến
(Trung Quốc), ở phía trên sông Tiền Đường
và Hàng Châu.
.
.
2950. Châu Dương: Tức Dương Châu, tên
phủ thuộc tỉnh Giang Tồ (Trung Quốc),
ở phía trên sông Tiền Đường và Hàng
Châu.
.
.
2952. Phó quan: Đi đến chỗ làm quan, đi
nhậm chức.
.
.
2954. Phúc Kiến, Chiết Giang: Hai tỉnh phía đông
nam Trung Quốc, nơi cát cứ cũ của
Từ Hải.
.
2957. Hàng Châu: Tên phủ, nay là thủ phủ
tỉnh Chiết Giang.
.
.
.
2960. Thất cơ: Để lỡ cơ mưu, làm
sai quân cơ, tức là bị mắc mưu địch.
Thu linh: thu khí thiêng, ý nói chết.
.
.
2962. Thổ tù: Người tù trưởng ở
địa phương, cùng như chữ Thổ
quan.
.
.
.
2963. Ngọc và châu: Thường được dùng
để chỉ cái đẹp, cái quý giá:
"Gieo ngọc trầm châu" ở đây
chỉ việc Thuý Kiều trầm mình.
.
.
.
2967. Chiêu hồn: Gọi hồn.
Thiết vị: Đặt bài vị viết tên
hiệu người chết mà thờ cúng.
Đàn tràng: Đàn làm lễ giải oan.
.
.
.
.
2970. Cánh hồng: Cánh chim hồng. Cũng hiểu là
phong thái nhẹ nhàng của cô gái đẹp.
.
.
.
2972. Tinh vệ: Tên một loài chim nhỏ, sống
ở bãi bể. Theo sách Thuật dị ký: Xưa
con gái vua Viêm đế chết đuối ở
biển, hồn hoá thành con chim tinh vệ, hàng ngày
ngậm đá ở núi Tây Sơn vứt xuống
biển để hòng lấp biển. ở đây
ví Thuý Kiều trầm mình nên mượn điểm
ấy
|
|