Câu 1 - 199
Trước đèn xem chuyện Tây
Minh
Gẫm cười hai chữ nhân t́nh
éo le
Hỡi ai lẵng lặng mà nghe
Dữ răn việc trước,
lành dà thân sau
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh là câu trau
ḿnh
Có người ở quận Đông
Thành
Tu nhân tích đức sớm sinh con
hiền
Đặt tên là Lục Vân Tiên
Tuổi vừa hai tám, nghề chuyên
học hành
Theo thầy nấu sử sôi kinh
Tháng ngày bao quản sân Tŕnh lao đao
Văn đà khởi phụng đằng
giao
Vơ thêm ba lược sáu thao ai b́
Xẩy nghe mở
hội khoa thi
Vân Tiên vào tạ tôn sư
xin về:
"Bấy lâu cửa
Thánh dựa kề
Đă tươi khí tượng
lại xuê tinh thần
Nay đà gặp hội
long vân
Ai ai mà chẳng lập
thân buổi này.
Chi lăm bắn nhạn
ven mây
Danh tôi đặng
rạng, tiếng thầy bay xa
Làm trai trong cơi người
ta
Trước lo báo
bổ, sau là hiển vang"
Tôn sư bàn luận tai nàn
Gẫm trong số hệ
khoa tràng c̣n xa
Máy trời chẳng dám
nói ra
Xui thầy thương
tớ xót xa trong ḷng
Sau dầu tỏ nỗi
đục trong
Phải toan một phép
để pḥng hộ thân
Rày con xuống chốn
phong trần
Thầy cho hai đạo
phù thần đem theo
Chẳng may mà gặp
lúc nghèo
Xuống sông cũng
vững, lên đèo cũng an
Tôn sư trở lại
hậu đàng
Vân Tiên ngơ ngẩn
ḷng càng sanh nghi
Chẳng hay ḿnh mắc
việc chi
Tôn sư người
dạy khoa kỳ c̣n xa
Hay là bối rối
việc nhà
Hay là đức bạc
hay là tài sơ
Bấy lâu ra sức công
thư
Hội này chẳng
gặp c̣n chờ hội nao
Nên hư chẳng
biết làm sao
Chi bằng hỏi
lại lẽ nào cho minh
Đặng cho rơ nỗi
sự t́nh
Ngơ sau ngàn dặm
đăng tŕnh mới an
Tôn sư ngồi hăy
thở than
Ngó ra trước án
thấy chàng trở vô
Hỏi rằng: Vạn
lư trường đồ
Sao chưa cất gánh
trở vô việc ǵ
Hay là con hăy hồ nghi
Thầy bàn một
việc khoa kỳ ban trưa
Vân Tiên nghe nói liền
thưa
Tiểu sinh chưa
biết nắng mưa thế nào
Song đường
tuổi hạc đă cao
Xin thầy nói lại âm
hao con tường
Tôn sư nghe nói thêm thương
Dắt tay ra chốn
tiền đường coi trăng
Nhân cơ tàng sự
dặn rằng:
Việc người chẳng khác
việc trăng lên trời
Tuy là soi khắp nơi nơi
Khi mờ, khi tỏ, khi vơi,
khi đầy
Sau con cũng tỏ
lẽ này
Lựa là trước
phải hỏi thầy làm chi
Số con hai chữ khoa
kỳ
Khôi tinh đă rạng,
tử vi thêm ḷa
Hiềm v́ ngựa
chạy đằng xa
Thỏ vừa ló bóng,
gà đà gáy tan
Bao giờ cho tới
bắc phang
Gặp chuột ra đàng,
con mới nên danh
Sau dầu đặng
chữ hiển vinh
Mấy lời thầy
dạy tiền tŕnh chẳng sai
Trong cơ bĩ cực
thái lai
Giữ ḿnh cho vẹn
việc ai chớ sờn
Vân Tiên vội vă tạ
ơn
Trăm năm dốc
giữ keo sơn một lời.
Ra đi vừa rạng
chân trời
Ngùi ngùi ngó lại
nhớ nơi học đường
Tiên rằng : Thiên các
nhất phương
Thầy đeo đoạn
thảm, tớ vương mối
sầu
Quản bao thân trẻ
dăi dầu
Mang đai Tử Lộ
quảy bầu Nhan Uyên
Bao giờ cá nước
gặp duyên
Đặng cho con thảo
phỉ nguyền tôi ngay
Kể từ tách dặm
đến nay
Mỏi mê tính đă
mấy ngày xông sương
Đoái nh́n phong cảnh
thêm thương
Vơi vơi dặm cũ,
nẻo đường c̣n xa
Chi bằng kiếm
chỗ lân gia
Trước là t́m
bạn sau là nghĩ chân
Việc chi than khóc tưng
bừng
Đều đem nhau
chạy vào rừng lên non
Tiên rằng : Bớ chú
cơng con
Việc chi nên nỗi bon
bon chạy hoài
Dân rằng: Tiểu
tử là ai
Hay là một lũ sơn
đài theo tao
Tiên rằng: cớ
sự làm sao
Hăy dừng gót lại
mà trao một lời
Dân nghe tiếng nói khoan
thai
Kêu nhau đứng
lại vài lời phân qua
Nhân rày có đảng
lâu la
Tên là Đỗ Dự,
hiệu là Phong Lai
Nhóm nhau ở chốn sơn
đài
Người đều
sợ nó có tài khôn đương
Bây giờ xuống cướp
thôn hương
Thấy con gái tốt qua
đường bắt đi
Xóm làng chẳng dám nói
chi
Cảm thương hai
gă nữ nhi mắc nàn.
Con ai vóc ngọc ḿnh
vàng
Má đào mày liễu
dung nhan lạnh lùng
E khi mắc đảng
hành hung
Uổng trang thục
nữ sánh cùng thất phu
Thôi thôi chẳng dám nói
lâu
Chạy đi cho khỏi
kẻo âu tới ḿnh
Vân Tiên nổi giận
lôi đ́nh
Hỏi thăm lũ nó
c̣n đ́nh nơi nao
Tôi xin ra sức anh hào
Cứu người cho
khỏi lao đao buổi này.
Dân rằng: Lũ nó c̣n
đây
Qua xem tướng
bậu thơ ngây đă đành
E khi họa hổ
bất thành
Khi không ḿnh lại xô
ḿnh xuống hang.
Vân Tiên ghé lại bên
đàng
Bẻ cây làm gậy
nhắm làng xông vô.
Kêu rằng: Bớ đảng
hung đồ
Chớ quen làm thói
hồ đồ hại dân
Phong Lai mặt đỏ
phừng phừng
Thằng nào lại dám
lẫy lừng vào đây.
Trước gây việc
dữ tại mày
Truyền quân bốn
phía phủ vây bịt bùng
Vân Tiên tả đột
hữu xung
Khác nào Triệu Tử
mở ṿng Đương dang
Lâu la bốn phía vỡ
tan
Đều quăng gươm
giáo t́m đàng chạy ngay
Phong Lai trở chẳng
kịp tay
Bị Tiên một
gậy thác rừng thân vong
Dẹp rồi lũ
kiến cḥm ong,
Hỏi: Ai than khóc ở
trong xe này?
Thưa rằng: tôi
thiệt người ngay
Sa cơ nên mới
lầm tay hung đồ
Trong xe chật hẹp
khôn phô
Cúi đầu tôi
lạy cứu cô tôi cùng
Vân Tiên nghe nói động
ḷng,
Đáp rằng: Ta đă
trừ ḍng lâu la
Khoan khoan ngồi đó
chớ ra
Nàng là phận gái ta là
phận trai
Tiểu thư con gái nhà
ai
Đi đâu đến
nỗi mang tai bất kỳ
Chẳng hay tên họ là
chi
Khuê môn phận gái
việc ǵ đến đây?
Trước sau chưa
hăn dạ này
Hai nàng ai tớ ai
thầy nói ra?
Thưa rằng: Tôi
Kiều Nguyệt Nga
C̣n con t́ tất tên là
Kim Liên.
Quê nhà ở quận Tây
Xuyên
Cha làm tri phủ ngồi
miền Hà-khê
Sai quân đem bức thư
về
Rước tôi qua đó
định bề nghi gia
Làm con đâu dám căi cha
Ví dầu ngàn dặm
đàng xa cũng đành
Chẳng qua là sự
bất b́nh
Hay vầy cũng
chẳng đăng tŕnh làm chi
Lâm nguy chẳng gặp
giải nguy
Tiết trăm năm cũng
bỏ đi một hồi
Trước xe quân
tử tạm ngồi
Ngơ chi tiện thiếp
lạy rồi sẽ thưa
Chút tôi liễu yếu
đào thơ
Giữa đường
lâm phải bụi dơ đă phần
Hà khê qua đó cũng
gần
Xin theo cùng thiếp đền
ân cho chàng
Gặp đây
đương lúc giữa đàng
Của tiền chẳng
có, bạc vàng cũng không
Tương câu báo đức
thù công
Lấy chi cho phỉ
tấm ḷng cùng ngươi.
Vân Tiên nghe nói liền cười
Làm ơn há dễ trông
người trả ơn
Nay đà rơ đặng
nguồn cơn
Nào ai tính thiệt so hơn
làm ǵ
Nhớ câu kiến ngăi
bất vi
Làm người thế
ấy cũng phi anh hùng
Đó mà biết chữ
thủy chung
Lựa là đây
phải theo cùng làm chi
Nguyệt Nga biết ư
chẳng đi
Hỏi qua tên họ
một khi cho tường.
Thưa rằng: Tiện
thiếp đi đường
Chẳng qua quân tử
quê hương nơi nào?
Phút nghe lời nói thanh
tao
Vân Tiên há nỡ ḷng
nào phôi pha
Đông Thành vốn
thiệt quê ta
Họ là Lục thị
tên là Vân Tiên.
Nguyệt Nga vốn đấng
thuyền quyên
Tai nghe lời nói tay
liền rút trâm
Thưa rằng: Nay
gặp tri âm
Xin đưa một
vật để cầm làm tin
Vân Tiên ngơ mặt
chẳng nh́n
Nguyệt Nga liếc
thấy càng th́n nết na
Vật chi một chút
gọi là
Thiếp thưa chưa
dứt chàng đà làm ngơ
Của này là của
vất vơ
Chú thích:
1.Truyện Tây Minh
không rơ lai lịch, hoặc một tiểu
thuyết cũ của Trung Quốc,
hoặc là tác giả bịa ra, đó c̣n
là một điều nghi vấn. Xét trong
sách Tính-lư, Tây Minh là một bài triết
là do Trương Tái nhà nho học đời
Tống soạn ra, luận về đạo
hiếu và đạo nhân, có lẽ
Nguyễn Đ́nh Chiểu mượn đầu
đề ấy mà đặt tên cho
truyện để nêu cao cái bản lĩnh
hiếu và nhân của Lục Vân Tiên, mà
tựu trong là phản ánh cái bản lĩnh
của ḿnh.
2. Dữ răn
việc trước, lành dà thân sau: câu
này ư nói là người nghe nên trông gương
nhân vật trong chuyện mà răn sợ
điều lành đạ hưởng phúc
yên về sau.
3.Trau ḿnh: sửa
ḿnh (tiếng miền Nam). Trau có nghĩa
là làm cho tốt hơn, đẹp hơn.
4.Đông Thành: tên
một huyện ở tỉnh An-huy, Trung
Quốc. Những địa danh trong
truyện Lục Vân Tiên không chắc
chắn là chỉ những địa điểm
ở Trung Quốc. Ở tỉnh An-giang
(Châu-đốc) xưa kia cũng có
Đông-Thành và con sông Đông-Thành.
5.Tu nhân tích đức:
sửa điều nhân, chứa điều
đức, nghĩa là làm cho ḷng thương
người, trí làm lành của ḿnh ngày
càng tăng thêm.
6.Nấu sử
sôi kinh: học kinh và sử nhiều
lần cho thật chín.
7.Sân tŕnh: sân nhà
họ Tŕnh (tức anh em Tŕnh Hiệu
hiệu Minh Đạo và Tŕnh Di hiệu Y
Xuyên, là hai nhà đại nho đời trước
thuật các sách nho giáo, dạy được
nhiều học tṛ hiền tài ở
thời bấy giờ). Người ta thường
nói cửa Khổng (Khổng Tử) sân
Tŕnh là chỉ những người theo
nèn nếp đạo nho hay những trường
học tậo đạo nho.
8.Khởi phụng
đằng giao: con phượng trỗi
dậy, con rồng bay cao, chỉ văn chương
xuất sắc lỗi lạc.
9.Ba lược
sắc thao: do chữ Hán Tam lược,
Lục thao, tên hai quyển sách nói về
cách dùng binh.
10.Xẩy nghe:
chợt nghe, sực nghe.
11.Tôn sư (si):
thầy học đáng kính trọng.
Chữ sư chính âm đọc là chữ
si, ta đọc chệnh ra sư.
12. Cửa thánh:
chỉ trường học đạo
thánh, cũng như cửa Khổng.
13. Khí tượng:
cái nghĩa cũ: cái khí thế, cái dáng
cách biểu hiện ra bên ngoài. -nghĩa
mới: hiện tượng của không
khí, như mưa gió, nóng lạnh v.v...
Đây dùng nghĩa cũ. Xuê: xinh tốt,
đẹp đẽ (tiếng miền Nam).
ư Vân Tiên nói: những đạo đức
và nghề văn nghề vơ mà thầy trau
giồi cho bản thân tôi nó đă dành
chứa ở phần tinh thần bên trong
và biểu lộ ra phần khí tượng
bên ngoài một cách tốt tươi.
14.Long Vân: rồng
mây. Kinh dịch có câu "Vân tùng long,
phong tùng hổ", nghĩa là mây theo
rồng, gió theo cọp, ư nói những
vật cùng khí cùng loại thường
cảm ứng và t́m đến với
nhau, như rồng hiện th́ mây kéo
lại, cọp gầm th́ gió sinh ra, người
sau nhân ư ấy dùng chữ long vân hay phong
vân (gió mây) để chỉ sự
gặp gỡ tốt đẹp trong
một cơ hội, như vua giỏi tôi
hiền gặp nhau, hay thi đỗ, công
danh thành đạt...
15. Lập thân: lo
cho thành người có sự nghiệp
giúp dân giúp nước.
16. Lăm: rắp
toan nhưng có ư quyắt tâm
17 Ven: bên,
quyết bắn nhạn bên mây, nghĩa là
muốn trổ tài để thỏa chí.
18. Tôi: đây có
nghĩa là học tṛ. Tác giả dùng
chữ tôi, tớ để chỉ học
tṛ trong câu: Thầy đeo đoạn
thảm tớ vương mối sầu.
19. Báo hổ: báo
đáp đền bù. Hiển vang: hiển
vinh. ư nói: Làm người vừa phải
lo đền ơn thầy học, ơn
cha mẹ vừa phải lo xây dựng công
danh sự nghiệp của ḿnh.
20. Tai nàn: tai
nạn.
21. Khoa tràng (trường):
chính nghĩa là trường thi, nơi thi
cử, mượn dùng là việc thi
cử hay kỳ thi cử. Đây nói: xét theo
số phận th́ c̣n lâu mới thi đỗ.
22.Máy trời: do
chữ Hán là "thiên cơ", cái
lẽ huyền diệu của trời.
23. Đục trong:
dịch chữ Hán thường: thanh
trọc, những thói hay dở ở đời.
Trong truyện
Lục Vân Tiên cũng như trong những
văn thơ khác, Nguyễn Đ́nh Chiểu
thường dùng hai chữ đục,
trong để h́nh dung một cách cụ
thể đạo đức nhân nghĩa
(trong) và bất nhân bất nghĩa (đục).
30. Phong trần:
gió bụi. Danh từ này có ba nghĩa: 1)
chỉ cơi đời rối ren hỗn
tạp; 2)chỉ cảnh lữ khách gian
khổ hay nói chung sự gian khổ ở
đời; 3)chỉ việc giặc giă
loạn lạc. ở đây dùng chỉ
cơi đời rối ren, phức tạp
và gian khổ.
31. Phù thần:
đạo bùa thiêng để hổ
mệnh.
32. Nghèo: hiểm
nghèo, nguy hiểm.
33. Hậu đàng:
(hậu đường): nhà sau.
34. Khoa kỳ:
kỳ thi cử. Đây nói thời kỳ thi
đỗ.
35. Đức
bạc: đức mỏng, không được
bao nhiêu.
36.Tài sơ: sơ
là thô sơ, ư nói không giỏi.
37.Công thư:
công: chuyên làm một việc ǵ, công thư:
chuyên vần vẳ sách vở.
38.Nên hư: do
chữ Hán "thành bại", nhưng
dùng nghĩa rộng hơn: cùng thông, bĩ
thái, hay dở, tốt xấu v.v... ở
đây dùng như nghĩa hay dở.
39. Minh: Rơ ràng.
40.Ngơ sau: ngơ
hầu sau lúc ấy.
41.Đăng tŕnh:
lên đường.
42.Án: Bàn đọc
sách.
43.Vạn lư trường
đồ: đường dài (xa) muôn
dặm.
44.Tiểu sinh:
học tṛ nhỏ tuổi, tiếng xưng
hô khiêm tốn.
45.Song đường:
cha mẹ, lấy ở chữ Hán "xuân
đường" và "huyên đường"
(chữ xuân ta quên đọc là thung, nhưng
chính là âm xuân). Người ta thường
gọi cha là "xuân đường"
(nhà xuân) và mẹ là huyên đường
(nhà huyên).
46.Tuổi hạc:
Hạc là loài chim sống lâu, tiêu biểu
tuổi già.
47.Âm hao: Tin
tức.
48.Tiền
đường: nhà trước, nhà trên.
49.Nhân cơ tàng
sự: nhân cơ hội coi trăng mà
ngụ ư việc người trong lời
nói bí ẩn để chỉ bảo Vân
Tiên.
50.Khôi tinh: sao
Thiên khôi. Theo thuật số tử vi, sao
Thiên khôi chủ về văn học, sao
Tử vi chủ về thân mệnh người
ta. Cả câu ư nói: sao văn rạng lên, văn
chương được nổi danh, nhưng
sao mệnh lại mờ đi vận
hạn gặp không may, đó là giải
nghĩa theo chữ "ḷa" là lu
mờ. Ḷa c̣n nghĩa là sáng chói, nên có
người giải: văn tài đă
rạng rỡ, th́ thân phận cũng cao
quí, nhưng xét đoạn văn, dưới
có câu: Thỏ vừa ló bóng, gà vừa
gáy tan (năm măo vừa học thành tài, năm
dậu đă bị hoạn nạn),
ngụ ư tài và mệnh tương
phản với nhau, th́ câu này cũng nên
giải theo ư nghĩa tương phản,
cái nọ tỏ th́ cái kia mờ, để
cho mạch văn được trên dưới
hô ứng với nhau.
52. Theo cách tính năm,
tính tuổi trong môn thuật số,
ngựa tiêu biểu năm "ngọ"
, thỏ năm "măo", gà năm
"dậu", chuột năm
"tí", ám chỉ năm "nhâm
tí". Ngựa chạy đường xa:
ư nói
Thân thế Vân
Tiên c̣n phải trải nhiều gian
khổ, như con người, như con
ngựa c̣n phải chạy hoài trên
khoảng đường xa.
53. Bắc phang (phương):
phương Bắc, tính theo thập can,
thuộc về "nhâm" và
"quí". Bắc phang gặp chuột:
tức "nhâm" gặp "tí", ám
chỉ năm "nhâm tí". Mấy câu
này cụ thể hóa "máy trời"
và việc coi trăng mà Vân Tiên chưa
hiểu rơ. Đại ư là: Vân Tiên tuổi
ngọ, cái tuổi c̣n nhiều vận
hạn, đến năm măo học thành
tài đi lập công danh, nhưng năm
dậu gặp tai nạn, phải đắ
năm nhâm tí mới công danh trọn
vẹn.
Đối chiếu
với tiểu sử Nguyễn Đ́nh
Chiểu th́ năm sinh nhằm năm nhâm
ngọ (1822, tuổi ngựa), năm thi
đỗ là quư măo (1843, Thỏ vừa ló
bóng), năm bị mù là kỷ dậu (1849
-gà đă gáy tan), đúng với sự
việc trong mấy câu này. Trong Lục Vân
Tiên, tác giả đă tự thuật thân
thế ḿnh.
54.Tiền tŕnh: bước
đường trước mắt,
tức là tương lai.
55.Bĩ thái: 2 tên
quẻ trong kinh Dịch, bĩ tượng
trưng sự cùng khốn, thái tượng
trưng hanh thông, Bĩ cực thái lai: cái
cùng đến hết mức th́ cái thông
trở lại, hết khổ đến sướng.
56. Việc ai
chớ sờn: chớ sờn ḷng về
việc làm của người đời
(ám chỉ những việc lừa đảo,
bất nhân của Trịnh Hâm và Vơ công
sau này).
57.Keo sơn: hai
chất dẻo, dính dùng để gắn
đồ vật. Người ta thường
dùng để chỉ sự bẳn
chặt khăng khít trong t́nh bạn bè.
ở đây có nghĩa là gắn bó đinh
ninh.
58.Thiên các
nhất phương: mỗi người
một phương.
59.Tử lộ:
tên của Trọng Do, một hiền
triết đời Xuân thu, học tṛ
Khổng tử, nhà nghèo, thường
đội gạo thuê, lấy tiền nuôi
mẹ.
60.Nhan Uyên: Nhan
Hồi, tên tự là Tử Uyên, một
hiền triết đời Xuân thu, học
tṛ giỏi nhất của Khổng tử,
ông sống trong cảnh nghèo, (một
giỏ cơm hầm, một bầu nước
lă, ở nơi hang cùng ngơ hẻm) mà
vẫn vui vẻ, dốc ḷng học đạo.
Cả hai câu có ư nói: với những hành
lư thanh đạm của nhà nho, Vân Tiên
vui vẻ lên đường, không quản
ngại dăi dầu.
61.Cá nước:
Chỉ sự gặp gỡ mà tương
đắc với nhau, như cá với nước.
ở đây chỉ sự thi đỗ,
công danh thành đạt
62.Phỉ
nguyền: thỏa ḷng. Cả hai câu ư nói:
biết bao giờ cá nước gặp
duyên, công danh thành toại, để con người
trung hiếu sẽ làm rạng rỡ gia
đ́nh và thỏa chí giúp vua giúp nước.
63. Tách dặm:
rời bước trên dặm đường.
64.Xông sương:
xông pha sương gió.
65. Vơi vơi:
nghĩa chính của tiếng Bắc là
cạn bớt, cạn dần dần, hơi
vơi. ở đây, tác giả dùng theo
tiếng miền Nam, nghĩa là thăm
thẳm. ở câu 234 "Dặm dài vơi
vơi" câu 279 " vơi vơi đất
rộng trời dài" dưới đây
cũng như ở câu này, chữ "vơi
vơi" đẳu dùng với nghĩa
thăm thẳm, mênh mông. Dặm cũ:
tức dặm đường về nhà.
66.Lân gia: nhà hàng
xóm. Đây nói nhà ở gần đó.
67.Tiểu tử:
chú bé. Nhân dân thấy Vân Tiên ít tuổi
nên gọi là như thế.
68. Sơn dài:
bọn cướp ở núi. Có lẽ trên
quả núi mà bọn cướp ở có
cái đài, nên gọi là sơn đài.
69.Phân qua: bày
tỏ qua.
70. Thôn hương:
thôn làng.
71.Lạnh lùng:
tiếng miền Nam, ư nói dung nhan rất
đẹp.
72.Thục nữ:
người con gái có đức hạnh
tốt, đoan chính dịu dàng.
73. Thất phu:
kẻ tầm thường, đâu là
kẻ hèn mọn, thô bỉ.
74.Âu: tức ưu,
là lo. Chữ này là chính âm là ưu, ta
đọc chệch là ưu.
75.Lôi đ́nh:
sấm sét.
76.Đinh: dừng
lại.
77.Qua, bậu:
tiếng miền Nam "qua" là ta,
"bậu là "người", mày.
78. Họa hổ
bất thành: vẽ hổ không nên h́nh.
Đây nói: Vân Tiên muốn giúp người,
nhưng e rằng làm không nên việc,
lại gặp tai nạn.
79.Hồ đồ:
lờ mờ, không rơ ràng. Đây nói không nghĩa
lư chính đáng.
80.Bịt bùng: kín
mít.
81. Tả xung,
hữu xông: đánh vào bên trái, xông sang
bên phải. Tung hoành trong trận.
82.Triệu Tử:
chàng họ Triệu. Triệu Vân tên là
Tử Long, một tướng tài của Lưu
Bị đời Tam quốc, một ḿnh
phá ṿng vây của Tào Tháo ở trận Đương
Dương bảo vệ được A
Đẩu là con nhỏ của Lưu Bị.
83.Thân vong: thân
mạng mất đi, tức là chết,
nghĩa giống như chữ "mạng
vong". Đây nói là chết bỏ thân.
84.Khôn phô: phô là
bày ra. ư nói trong xe chật hẹp, không
để đứng lên để là
lễ chào được.
85.Mang tai bất
kỳ: th́nh ĺnh gặp tai nạn.
86.Khuê môn: (quê
môn) cửa pḥng con gái. Chữ khuê chính
là âm quê (chữ khuê là sao khuê cũng
thế). Khuê môn phận gái: việc
của con gái là chỗ buồng the, không
đi ra ngoài.
87. Chưa hăn
dạ này: tức dạ này chưa hăn, văn
đặt đảo ngược. Hán chưa
rơ (tiếng miền Nam). Đây Vân Tiên nói:
Ḷng này nghi hoặc, chưa rơ sự t́nh
thế nào?
88.T́ tất: đày
tớ gái.
89.Tây-xuyên: tên
một tỉnh xưa ở phía Tây
tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc), ở
tỉnh An Giang (Châu Đốc) nước ta
xưa cũng có quận Tây Xuyên.
90. Hà Khê: trong
nguyên từ điển Trung Quốc không
có địa danh này. ở tỉnh Hà Tiên
nước ta trước kia có những
huyện Hà Châu, Hà Âm, Hà Dương. Có
thể Nguyễn Đ́nh Chiểu đă
dựa vào những tên ấy đă đặt
ra tên Hà Khê chăng?
91. Nghi gia: chính nghĩa
là ḥa thuận cửa nhà (nói người
con gái khi về làm dâu). Đây chỉ
việc lập gia đ́nh, lấy
chồng.
92.Bất b́nh:
không thường, việc xảy ra trái ư
ḿnh.
93.Hay vầy:
biết như thế này (thường
dùng ở miền Nam).
94.Đăng tŕnh:
lên đường, cũng như thượng
tŕnh.
95.Quân tử: người
có tài đức hơn người. Trong
khi xưng hô giữa nam với nữ,
tiếng quân tử có nghĩa là
"chàng" như "Trách người
quân tử bạc t́nh" (Ca dao) "Đă
ḷng quân tử đa mang" (Truyện
Kiều)
96.Tiện
thiếp: người đàn bà hèn
mọn. Tiếng xưng hô khiêm tốn
của phụ nữ ngày xưa. Những
danh từ quân tử và tiện thiếp
chỉ thường dùng trong văn thư
cổ.
97.Chút tôi: cái tôi
nhỏ,cũng như tiếng chút thân,chút
phận, cách nói khiêm tốn.
98.Đă phần:
đă là phần của tôi.
99.Báo đức
công thù: đáp ơn đức, trả
công lao.
100.Kiến ngăi
(nghĩa)bất vi: thấy việc nghĩa
không làm. Sách Luận ngữ có câu:
"Kiến nghĩa bất vi, vô dũng
dă", nghĩa là thấy việc nghĩa
không làm, không phải là người
mạnh vậy.
101.Phi anh hùng:
chẳng phải anh hùng.
102.Thanh tao: trong
trẻo
103.Phôi pha:
nhạt đi, phai đi, kém vẻ đằm
thấm, nhạt nhẽo lănh đạm
104.Lục
thị: họ Lục
105.Thuyền
quyên: cái trạng thái tốt đẹp
dễ coi, nói chung cả người và
vật (như hoa, cây, trăng v.v...). Ta thường
dùng để chỉ người
"phụ nữ đẹp" hay người
"phụ nữ" nói chung
106.Tri âm:
hiểu biết tiếng đàn. Nghĩa
rộng là người biết ḿnh,
hiểu rơ ḿnh, người bạn chí
t́nh.
107.Th́n: tiếng
miền Nam cũng như giữ ǵn.
|