|
Câu 1400 - 1599.
Canh chày chẳng ngủ những thao thức hoài
Thất t́nh trâm nọ biếng cài
Dựa mành bỏ xơa tóc dài ngồi lo
Chiêu Quân xưa cũng cống Hồ
Bởi người Diên Thọ họa đồ gây
nên
Hanh Ngươn sau cũng chẳng yên
V́ người Lư Kỷ cựu hiềm c̣n
ghi
Hai nàng chẳng đă phải đi
Một v́ ngay chúa, một v́ thảo cha
Chiêu Quân nhảy xuống giang hà
Thương vua nhà Hán, nàng đà quyên sinh
Hạnh Ngươn nhảy xuống Tŕ-linh
Thương người Lương Ngọc duyên lành
phôi pha
Đến nay phận bạc là ta
Nguyện cùng bức tượng trót đà chung thân
1415.T́nh phu phụ nghĩa quần thần
Nghĩa xa cũng trọn, ơn gần cũng
nên
Nghĩa t́nh nặng cả hai bên
Nếu ngay cùng chúa lại quên ơn chồng
Sao sao một thác thời xong
Lấy ḿnh báo chúa, lấy ḷng sự phu
Kiều công nương gối đang lo
Nghe con than thở mấy câu thêm phiền
Kêu vào ngồi dựa trướng tiền
Lấy lời dạy dỗ cho tuyền thân danh
Chẳng qua là việc triều đ́nh
Nào cho có muốn ép t́nh con chi
Nàng rằng: Con kể chi con
Bơ vơ chút phận, mất c̣n quản bao
Thương cha tuổi tác đă cao
E khi ấm lạnh buổi nào biết đâu
Tuổi già bóng xế nhành dâu
Sớm xem tối xét, ai hầu cho cha
Công rằng: Chi xá việc nhà
Hăy an dạ trẻ mà qua nước người
Hôm nay đă tới mồng mười
Khá toan sắm sửa hai mươi tống hành
Nàng rằng: Việc ấy đă đành
C̣n lo hai chữ ân t́nh chưa xong
Con xin sang lạy Lục ông
Làm chay bảy bữa trọn cùng Vân Tiên
Ngơ cho nhân nghĩa vẹn tuyền
Pḥng sau xuống chốn huỳnh tuyền gặp
nhau
Kiều công biết nghĩ trước sau
Dạy đem tiền bạc cấp hầu
đưa đi
Lục ông ra rước một khi
Nguyệt Nga vào đặt lễ nghi sẵn sàng
Ngày lành giờ ngọ đăng đàn
Ăn chay nằm đất cho chàng Vân Tiên
Mở ra bức tượng treo lên
Trong nhà cho tới láng giềng đều thương
Nguyệt Nga cất tiếng khóc than
Vân Tiên anh hỡi suối vàng có hay
Bảy ngày rồi việc làm chay
Bàn đem tiền bạc tạ rày Lục ông
1455.Trông chồng mà chẳng thấy chồng
Đă đành một chữ má hồng vô duyên
Rày vua gả thiềp về Phiên
Quyết ḷng xuống chốn cửu tuyền
thấy nhau
Chẳng chi cũng gọi là dâu
1460.Muốn lo việc nước, phải âu
việc nhà
Một ngày một bước một xa
Của này để lại cho cha dưỡng già.
Lạy rồi nước mắt nhỏ sa
Ngùi ngùi từ giă bước ra trở về
Các quan xe giá bộn bề
Năm mươi thể nữ hầu kề
chân tay
Hai mươi nay đă đến ngày
Các quan bảo hộ đưa ngay xuống
thuyền
Nguyệt Nga vội khiến Kim Liên
Lên mời thân phụ xuống thuyền xem qua
Công rằng: Dạ đă xót xa
Con đừng dùn thẳng cho cha thảm sầu
Nàng rằng: Nước non cao sâu
Từ đây xa cách khôn hầu thấy cha
Thân con về đất Ô-qua
Đă đành một nỗi làm ma đất người
Hai phương Nam Bắc cách vời
Con xin gửi lại một lời làm khuây
Hiu hiu gió thổi ngọn cây
Ấy là hồn trẻ về rày thăm cha
Kiều công lụy ngọc nhỏ sa
Các quan ai nấy đều thương
Chẳng qua việc ở quân vương
Cho nên phụ tử hai đường xa xuôi
Buồm trương thuyền vội tách vời
Các quan đưa đón ngùi ngùi đứng trông
Mười ngày đă tới ải Đồng
Mênh mông biển rộng đùng đùng sóng xao
Đêm nay chẳng biết đêm nào
Bóng trăng vặc vặc, bóng sao mờ mờ
Trời trên lặng lẽ như tờ
Nguyệt Nga nhớ nỗi tóc tơ chẳng
tṛn
Than rằng: Nọ nước ḱa non
Cảnh thời thấy đó, người c̣n
về đâu
Quân hầu đều ngủ đă lâu
Lui ra một bức rèm châu một ḿnh
Vắng người có bóng trăng thanh
Trăm năm xin gửi chút t́nh lại đây
Vân Tiên anh hỡi có hay
Thiếp nguyền một tấm ḷng ngay với chàng
Than rồi lấy tượng vai mang
Nhằm ḍng nước chảy vội vàng nhảy
ngay
Kim Liên thức dậy hoảng thay
Cùng quân thạ nữ một bầy đều lo
Cùng nhau đều chẳng dám hô
Thầm toan mưu kế chẳng lo lậu t́nh
Việc này là việc triều đ́nh
Đốc quan hay đặng ắt ḿnh thác oan
Muốn cho cẩn nhiệm trăm đàng
Kim Liên thế lấy làm nàng Nguyệt Nga
Trá hôn về nước Ô qua
Ai mà vạch lá, ai mà t́m sâu
Tính rồi xong xả chước mầu
Phút đâu thuyền đă đến đầu
ải quan
Đốc quan xe giá sửa sang
Kiệu trương long phụng, rước nàng
về Phiên
Ai hay t́ tất Kim Liên
Đặng làm hoàng hậu nước Phiên trọn
đời
Nguyệt Nga nhảy xuống giữa vời
1Sóng thần đưa đẩy vào nơi băi rày
Bóng trăng vừa khuất ngọn cây
Nguyệt Nga hồn hăy chơi rày âm cung
Xiết bao sương tuyết đêm đông
Ḿnh nằm giữa băi lạnh lùng ai hay
Quan âm thương gái thảo ngay
Bèn đem làng lại để rày vườn hoa
Dăn rằng: Nàng hỡi Nguyệt Nga
T́m nơi nương náu cho qua tháng ngày
Đôi ba năm nữa gần đây
Vợ chồng sau sẽ xum vầy một nơi
Nguyệt Nga giây phút tỉnh hơi
Định hồn mới nghĩ mấy lời
chiêm bao
Thiệt hư chưa biết làm sao
Bây giờ biết kiếm nơi nào gửi thân
Một ḿnh luống những bâng khuâng
Phút đâu trời đă rạng hừng vừng
đông
Một ḿnh mang bức tượng chồng
Xẩy đâu lại gặp Bùi ông dạo vườn
Ông rằng: Nàng ở hà phương
Việc chi mà tới trong vườn hoa ta
Nàng rằng: Trận gió hôm qua
Ch́m thuyền nên nỗi ḿnh ra thế này
Tối tăm sẩy bước tới đây
Xin soi xét tới thơ ngây lạc đường
Bùi ông đứng ngắm tướng nàng
Chẳng tranh đài các cũng hàng trâm anh
Đầu đuôi han hỏi sự t́nh
Nàng bàn lời thiệt việc ḿnh bày qua
Bùi ông mừng rước về nhà
Thay đổi xiêm áo nuôi mà làm con
Rằng: Ta sinh đặng chồi non
Tên là Bùi Kiệm hăy c̣n ở kinh
Trong nhà không gái hậu sinh
Ngày nay lại gặp minh linh phước
trời
Nguyệt Nga ở đă an nơi
Đêm đêm nghĩ lượng sự đời
gần xa
Một lo về nước Ô-qua
E vua bắt tội cha già rất oan
Hai lo phận gái hồng nhan
Sợ khi bảo dưỡng mưu toan lẽ
ǵ
Nguyệt Nga luống những sầu bi
Xẩy đâu Bùi Kiệm tới khi về nhà
Từ ngày thấy mặt Nguyệt Nga.
Đêm đêm trằn trọc pḥng hoa mấy
lần
Thấy nàng thờ bức tượng nhân
Nghiệm trong t́nh ư dần lân hỏi liền
Tượng này sao giống Vân Tiên
Bấy lâu thờ có linh thiêng điều ǵ?
Nàng rằng: Làm phận nữ nhi
Một câu chánh tiết phải ghi vào ḷng
Trăm năm cho trọn đạo ṭng
Sống sao thác vậy, một chồng mà thôi
Kiệm rằng: Nàng nói sai rồi
Ai từng bán đắt mà ngồi chợ trưa
Làm người trong cơi gió mưa
Bảy mươi mấy mặt người xưa
thấy nào
Chúa xuân c̣n ở vườn đào
Ong qua bướm lại biết bao nhiêu lần
Chúa xuân ra khỏi vườn xuân
Hoa tàn nhụy rữa như rừng bỏ hoang
Ở đời ai cậy sang giàu
Ba xuân dẫu hết ngàn vàng khôn mua
Hay chi như văi ở chùa
Một căn cửa khép, bốn mùa lạnh tanh
Lênh đênh một chiếc thuyền t́nh
Mười hai bến nước gửi ḿnh vào
đâu
Ai từng mặc áo không bâu
Ăn cơm không đũa, ăn trầu không cau
Nàng sao chẳng nghĩ trước sau
Giữ ôm bức tượng bấy lâu thiệt ḿnh,
Nàng rằng: Tằng đọc sử kinh
Làm thân con gái chữ trinh làm đầu
Chẳng phen thói nước Trịnh đâu
Hẹn người tới giữa vườn dâu
tự t́nh
Kiệm rằng: Đă biết sử kinh
Sao không suy xét để nằm không
Hồ Dương xưa mới góa chồng
C̣n mơ nhan sắc Tống công cũng vừa
Hạ cơ lớn nhỏ đều ưa
Chú thích:
1.Chiêu Quân: Vương Tường tự là
Chiêu Quân, một cung nhân của Nguyễn đế
nhà Hán, sau bị gă cho vua Hung-Nô. Đi thuyền vào quá
nội địa Hung-Nô, Chiêu Quân nhảy xuống
sông Hắc-Hà tự tử. "Chiêu Quân cống
Hồ" một đề tài thường
được các nhà thơ văn xưa nay ca
ngợi thương tiắc.
2.Hạnh Ngươn (Nguyên): một nhân
vật trong truyện Nhị Độ Mai. Cũng như
Chiêu Quân, Hạnh Nguyên bị bắt đi cống
Hồ và cũng tự tử nhưng có người
cứu vớt.
3.Cựu hiềm: thù cũ
4.Ngay chúa: trung với vua. Thảo cha: hiếu
với cha. Nói một đằng Chiêu Quân, một
đằng Hạnh Nguyên theo mệnh cha, hai người
phải trọng đạo trung với đạo
hiắu mà đành đi hiến thân cho nước
Hồ.
5.Quyên sinh: vứt bỏ cái mạng sống,
tự tử
6.Chung thân: trọn đời, đến khi
chết
7.Nghĩa xa cũng trọn, ơn gần cũng nên:
nói nghĩa vua tôi cũng như ơn (t́nh) vợ
chồng cùng phải giử cho trọn vẹn .
8.Sự phu: thờ chồng. nói: chết đi
th́ mới có thể được cả hai
bề : báo chúa , thờ chồng .
9.Trướng tiền: trước màn
10.Thân danh: thân ḿnh và danh dự
11.ấm lạnh buổi nào biết đâu: nói
không biết lúc nào khoẻ lúc nào ốm .
47.Bóng xế nhành dâu: như nói bóng xế
về Tây. Sách Hoài Nam Tử nói: mặt trời
xế về Tây, gác bóng trên ngọn cây, gọi là
"tang du" (tang: cây dâu, du: một loài cây cao,
gỗ bền chắc, thường dùng chế khí
cụ). Người sau mượn dùng hai chữ
"tang du" này để chỉ phương Tây
hay ví với tuổi già.
12.Tống hành: tiễn người lên
đường.
13. Đăng đàn: lên đàn tế lễ.
14. Bức tượng: đây là bức tranh
truyền thần.
15.Cửu tuyền: chín suối, chỉ dưới
đất sâu, tức cơi chết, cũng như nói
"hoàng tuyền" (suối vàng).
16.Xe giá: xe dùng cho vua, gia đ́nh vua, hoặc các
bậc vương hầu. Đây Nguyệt Nga
được coi là vợ vua Phiên, nên các quan
đưa xe giá đến đón một cách
rộn rịp.
17.Thể nữ (con gái):con gái hầu trong cung
vua, tức cung nữ. Đây Nguyệt Nga đă coi là
hoàng hậu phi, nên con gái đưa đến
hầu nàng, cũng gọi là thể nữ.
18.Bảo hộ: giữ ǵn hộ vệ.
19.ải Đồng: cửa ải Đồng-Quan,
xem chú thích câu 1375
20.Tóc tơ: kết tóc xe tơ, tức t́nh nghĩa
vợ chồng.
21.Rèm châu: chính nghĩa là một thứ rèm
bện bằng ngọc châu, sau thường dùng
để chỉ chung những thứ rèm quí.
22.Lậu t́nh: tiết lộ t́nh h́nh để
cho người ngoài biết chuyện.
23.Đốc quan: chức quan đôn đốc
việc Nguyệt Nga đi cống Phiên.
24.Cẩn nhiệm: cẩn thận bí mật.
25.Trá hôn: giả mạo trong công việc cưới
gả, nghĩa là không đúng người đă
đính ước.
26.Long phụng: lọng che vẽ h́nh chim phượng.
27.Âm cung: âm phủ, cơi chết. nói Nguyệt
Nga c̣n mê mệt chưa tĩnh .
28.Quân âm: tức Quan Thế Âm, tên một
vị Phật, quan là nghe xem, thế âm là âm thanh
của người đời, vị Phật này thường
nghe xem những tiếng kêu khổ nạn của người
đời mà t́m đến chỗ giải cứu
cho, nên gọi như thế.
29.Định hồn: tỉnh lại, hồn
được yên định lại
30.Hà phương: phương nào, nơi nào?
31.Đài các: dinh thự và lầu gác, chỉ nơi
quan chức quyền quí. Trâm anh: cái gài tóc và cái
dải mũ, chỉ hạng người sang
cả.
32.Minh linh: một loại sâu (sau hóa bướm)
thường cuộn tổ ở lá lúa, lá rau mà
cắn hại. Kinh Thi có câu: "Minh linh hữu
tử, quả lơa phụ chi", nghĩa là minh linh
có con, ṭ ṿ cơng về nuôi, do đó, tục
gọi "con nuôi" là: "minh linh". Việt
nam cũng có câu: "Ṭ ṿ mà nuôi con
nhện...". Nhưng người xưa đă không
xét kỹ, ṭ ṿ bắt minh linh hay nhện đưa
về, là để làm thức ăn nuôi con nó,
chứ không phải để nuôi làm con.
33Nghĩ lượng: nghĩ ngợi suy tính.
34.Bảo dưỡng: giữ ǵn và nuôi
nấng. Nguyệt Nga sợ rằng: Bùi ông bảo
dưỡng ḿnh là có mưu toan ǵ chăng ?
35.Pḥng hoa: căn pḥng trang trí đẹp đẽ,
văn vẻ.
36Tượng nhân: h́nh người vẽ
37.Dần lân: lân la dần dần
38.Chánh tiết: điều trinh tiết
chủ yếu.
39.Bán đắt: tiếng miền Nam là đắt
hàng. nói: bán đắt hàng sao không bán ngay mà
lại ngồi chợ trưa nghĩa là có nhan
sắc như Nguyệt Nga, ai chả say mê, việc
chi mà ngồi đợi .
40.Bảy mươi mấy mặt người xưa
thấy nào: do câu thơ của Đỗ Phủ
đời Đường. Nhân sinh thất thập
cổ lai hy, nghĩa là đời người ta, xưa
nay ít ai sống được bảy mươi
tuổi.
41.Mười hai bến nước: có lẽ
là một thành ngữ chỉ con số cửa sông
hoặc cửa biển của nước ta
thời xưa. Bài thơ của Lê Quát đời
Trần có câu: "Hải môn thập nhi ngă hoàn sơn",
nghĩa là: một vùng mười hai cửa
biển, ta về núi ẩn". Đây nói số
phận đàn bà lênh đênh, không biết rơ
đâu là bờ bến.
42.Bâu: cổ áo. Câu này là một câu ca dao có
sẵn
43.Thói nước Trịnh: nước
Trịnh đời Xuân thu, có tiếng là một nước
nhiều thói phóng đăng, trai gái thường
tụ trên sông Trăn sông Vị, cùng nhau tặng
hoa thược dược mà đùa bỡn, c̣n
những chuyện trèo tường, đón ngơ,
hẹn nhau ngoài nội cỏ, th́ rất phổ
biến ở trong nước.
44.Vườn dâu: đời Xuân Thu c̣n có nước
Vệ cũng dâm tục như nước
Trịnh, trai gái thường hẹn ḥ nhau ở trên
sông Bộc hoặc trong vườn dâu.
45.Hồ Dương: theo Hậu Hán thư:
Hồ Dương công chúa, chị gái vua Hán Quang Vũ,
góa chồng được ít lâu muốn lấy
Tống Hoằng (Tống công) một đại
thần của Quang Vũ. Hoằng không chịu
lấy, quyết giữ trọn t́nh nghĩa với
người vợ "tào khang" của ḿnh (Xem
chú thích ở câu 410).
46.Hạ Cơ: một người đàn bà
đẹp nhưng đa dâm, là con gái Trịnh
Mục Công (đời Xuân thu), lấy Ngự Thúc,
quan nước Trần, Ngự Thúc chết, thông t́nh
với Trần Linh Công và các quan triều là
Khổng Ninh, Nghi Hành Phủ. Sau Sở diệt
Trần, lại lấy Liên Doăn Tương Lăo (Liên
Doăn là họ). Tương Lăo chết, lại
lấy Thân Công Vu Thần nước Sở
|