|
Câu 1600 - 1799
Sớm đưa Doăn Phủ, tối
ngừa Trần Quân
Hán xưa Lữ hậu thanh xuân
C̣n vua Cao tổ mấy dừng Dị Ky
Đường xưa Vơ hậu thiệt ǵ
Di Tông khi trẻ, Tam Tư lúc già
Cứ trong sách vở nói ra
Một đời sung sướng cũng qua một
đời
Ai ai cũng ở trong đời
Chính chuyên, trắc nết chết thời cũng
ma
Người ta chẳng lấy người ta
Người ta đâu lấy những là tượng
nhân
Cho nên tiếc phận hồng nhan
Học đ̣i Như ư vẽ chàng Văn Quâ
Nguyệt Nga biết đứa tiểu nhân
Làm thinh toan chước thoát thân cho rồi
Bùi ông ngon ngọt trau dồi
Dỗ nàng cho đặng sánh đôi con ḿnh
Làm người chấp nhất sao đành
Hễ là lịch sự, có kinh có quyền
Tới đây duyên đă bén duyên
Trăng thanh gió mát cắm thuyền đợi ai
Nhớ câu: Xuân bất tái lai
Ngày nay hoa nở, e mai hoa tàn
Làm chi thiệt phận hồng nhan
Năm canh gối phụng màn loan lạnh lùng
Vọng phu xưa cũng trông chồng
Ngày xanh ṃn mỏi má hồng phôi pha
Thôi thôi khuyên chớ thở ra
Vầy cùng con lăo một nhà cho xuôi
Nguyệt Nga giả dạng mừng vui
Thưa rằng:Người có công nuôi bấy
chầy
Tôi xin dám gửi lời này
Hăy tua chậm chậm sẽ vầy nhân duyên
Tôi xin lạy tạ Vân Tiên
Làm chay bảy bữa cho tuyền thủy chung
Cha con nghe nói mừng thầm
Dọn nhà sửa chỗ động pḥng cho xuê
Chiếu hoa gối sách bốn bề
Cỗ đồ bát bửu chỉnh tề chưng
ra
Xẩy vừa tới lúc canh ba
Nguyệt Nga lấy bút đề vài câu thơ
Dán trên vách phấn một tờ
Vai mang bức tượng kịp giờ ra đi
Hai bên bờ bụi rậm ŕ
Đêm khuya vắng vẻ gặp khi trăng lờ
Lạ chừng đường sá bơ vơ
Có bầy đom đóm sáng nhờ đi theo
Qua truông rồi lại lên đèo
Dế kêu giăng giỏi, sương gieo lạnh lùng
Giầy sành đạp sỏi thẳng xông
Vừa may trời đă vừng đông ló đầu
Nguyệt Nga đi đặng hồi lâu
T́m nơi bàn thạch ngơ hầu nghỉ chân
Người ngay trời phật cũng vưng
Lăo bà chống gậy trong rừng bước ra
Hỏi rằng: Nàng phải Nguyệt Nga
Khá tua gắng gượng về nhà cùng ta
Khi đêm nằm thất Phật bà
Người đà mách bảo nên đà tới
đây
Nguyệt Nga bán tín bán nghi
Đành liều nhắm mắt theo đi về nhà
Bước vào thấy những đàn bà
Làm nghề bô vải lụa là mà thôi
Nguyệt Nga đành dạ ở rồi
Từ đây mới hết nổi trôi chốn nào
Hỏi thăm qua chốn Ô sào
Quan san mấy dặm đi vào tới nơi
Đoạn này tới thứ ra đời
Vân Tiên thuở ấy ở nơi chùa chiền
Nửa đêm nằm thấy ông tiên
Đem cho linh dược mắt liền sáng ra
Kể từ nhuốm bệnh đường xa
Tháng ngày thấm thoát kể đà sáu năm
Tuổi cha rầy đă năm lăm
Chạnh ḷng nhớ tới đầm đầm châu
sa
Vân Tiên trở lại quê nhà
Hớn Minh đưa khỏi năm ba dặm
đường
Tiên rằng: Ta lại hồi hương
Ơn nhau sau gặp khoa trường sẽ hay
Minh rằng: Em chẳng vốn may
Ngày xưa mắc phải án đày chốn đi
Dám đâu bày mặt ra thi
Đă đành hai chữ qui y chùa này
Tiên rằng: Phước gặp khoa này
Sao sao cũng tính sum vầy, cùng nhau
Mấy năm hẩm hút tương rau
Khó nghèo nỡ phụ, sang giàu đâu quên
Lúc hư c̣n có lúc nên
Khuyên người giữ dạ cho bền thảo
ngay
Hớn Minh trở lại am mây
Vân Tiên về một tháng chầy tới nơi
Lục ông nước mắt tuôn rơi
Ai dè con sống trên đời thấy cha
Xóm giềng cô bác gần xa
Đều mừng chạy tới chật nhà hỏi
thăm
Ông rằng: Kể đă mấy năm
Con mang tật bệnh ăn nằm nơi nào
Tiên rằng: Hoạn nạn xiết bao
Mẹ tôi phần mộ, nơi nào viếng an
Đặt bày lễ vật nghiêm trang
Đọc bài văn tế trước bàn minh sinh
Suối vàng hồn mẹ có linh
Chứng cho con trẻ ḷng thành ngày nay
Tưởng bề nguồn nước cội
cây
Công cao ngàn trượng, ngăi dày chín trăng
Suy trang nằm giá khóc măng
Hai mươi bốn thảo chẳng bằng
thời xưa
Vân Tiên nước mắt như mưa
Tế rồi hỏi việc khi xưa ở nhà
Ông rằng: Có nàng Nguyệt Nga
Bạc vàng mang giúp, cửa nhà đặng xuê.
Nhờ nàng nên mới ra bề
Chẳng chi khó đói bỏ quê đi rồi
Vân Tiên nghe nói hỡi ơi
Chạnh ḷng nghĩ lại một hồi giây lâu
Hỏi rằng nàng ấy ở đâu
Đặng con đến đó đáp câu ân t́nh
Lục ông thuật việc triều đ́nh
Đầu đuôi chuyện văn tỏ t́nh cùng Tiên
Kiều công rày ở Tây-xuyên
Cũng v́ mắc nịnh biếm quyền
đuổi ra
Tiên rằng: Cám nghĩa Nguyệt Nga
Tôi xin qua đó thăm cha nàng cùng
Tây-Xuyên ngàn dặm thẳng xông
Đến nơi ra mắt, Kiều công khóc liền
Nguyệt Nga rày ở Tây phiên
Biết sao cho đặng đoàn viên cùng chàng
Mấy thu Hồ Việt đôi phang
Cũng v́ máy tạo, én nhàn rẽ nhau
Thấy chàng dạ lại thêm đau
Đất trời bao nỡ chia bâu cho đành
Hẹp ḥi đặng chút nữ sinh
Trông cho chồi quế trổ nhành mẫu
đơn
Nói rồi lụy nhỏ đ̣i cơn
Cũng v́ một sự oán hờn nên gây
Thôi con ở lại bên này
Hôm mai thấy mặt cho khuây ḷng già
Vân Tiên từ đấy lân la
Ôn nhuần kinh sử chờ khoa ứng kỳ
Năm sau lệnh mở khoa thi
Vân Tiên vào tạ xin đi tựu trường
Trở về thưa với xuân đường
Kinh sư ngàn dặm một đường
thẳng ra
Vân Tiên dự trúng khôi khoa
Hẳn suy nhâm tí thiệt là năm nay
Nhớ lời thầy nói thật hay
Bắc phương gặp chuột con rày nên danh
Vân Tiên vào tạ triều đ́nh
Lệnh ban y măo hiển vinh về nhà
Xẩy nghe tin giặc Ô-qua
Phủ vây quan ải binh ba bốn ngàn
Sở vương phán trước ngai vàng
Chỉ sai quốc trạng dẹp loàn
bầy ong
Trạng nguyên tấu trước bệ rồng:
Xin dâng một tướng anh hùng đề binh
Có người họ Hớn tên Minh
Sức đương Hạng Vũ, mạnh ḱnh
Trương Phi
Ngàn xưa mắc án trốn đi
Phải về nương náu từ bi ẩn ḿnh
Chỉ sai tha tội Hớn Minh đ̣i về
Sắc phong phó tướng b́nh di
Tiên, Minh tương hội xiết ǵ mừng
vui
Nhất thinh phấn phát oai lôi
Tiên phong hậu tập trống hồi tấn
binh
Quan sơn ngàn dặm đăng tŕnh
Lănh cờ binh tặc phá thành Ô qua
Làm trai ơn nước nợ nhà
Thảo cha ngay chúa mới là tài danh
Phút đâu binh đáo quan thành
Ô-qua xem thấy xuất thành cự đang
Tướng phiên hai gă đường đường
Một chàng Hỏa Hổ, một chàng Thần Long
Lại thêm Cốt Đột nguyên nhung
Mắt hùm râu đỏ tướng hung lạ lùng
Hớn Minh ra sức tiên phong
Đánh cùng Hỏa Hổ, Thần Long một hồi
Hớn Minh đánh xuống một roi
Hai chàng đều bị một hồi mạng vong
Nguyên nhung Cốt Đột nổi xung
Hai tay xách búa đánh cùng Hớn Minh
Hớn Minh sức chẳng dám kinh
Thấy chàng hóa phép thoát ḿnh trở lui
Vân Tiên đầu đội kim khôi
Tay cầm siêu bạc, ḿnh ngồi ngựa ô
Một ḿnh nhắm trận xông vô
Thấy người Cốt Đột biến đồ
yêu ma
Vội vàng trở ngựa lui ra
Truyền đem máu chó đều thoa ngọn
cờ
Ba quân gươm giáo đẳu giơ
Yêu ma xem thấy một giờ vỡ tan
Sa cơ Cốt Đột chạy hoang
Vân Tiên giục ngựa băng ngàn đuổi theo
Đuổi qua khỏi đặng bảy đào
Khá thương Cốt Đột vận nghèo nài bao
Chạy qua ngang núi Ô-sào
Phút đâu con ngựa sa hào thương ôi
Vân Tiên chém Cốt Đột rồi
Đầu treo cổ ngựa phản hồi bổn quân
Ôi thôi bốn phía đều rừng
Chú thích:
3.Doăn Phủ: hai chữ này nghi có sách chép sai.
Hạ Cơ thông t́nh với Nghi Hành Phủ và
lấy Liên Doăn Tương Lăo, vậy hai chữ này
phải là Hành Phủ, v́ theo nghĩa của câu văn,
dưới đặt chữ Trần Quân (vua
Trần, tức Linh công), th́ trên nên đặt là
Hành Phủ, hai người cùng thông t́nh, mà
lại đồng thời .
4.Lữ hậu: Lă hậu (chữ Lă chính âm là
Lữ), tức Lă Trĩ, vợ Hán Cao Tổ (Lưu
Bang). Lă Hậu tư thông với Thẩm Dị Ky,
người này trước là quan hậu cận Lă
hậu, sau có công đánh giặc, được
phong tước hầu, khi Cao Tổ chết, Lă
hậu thường giấu giếm Dị Ky ở
nơi cung cấm và yêu đương tin dùng,
cử làm Thừa Tướng.
5.Vơ hậu: xem chú thích ở câu 800. Khi Vũ
hậu làm vua, tin dùng bọn gian nịnh và thông t́nh
với anh em Trương Xương Tông và Trương
Dịch Chi, hai người cùng đẹp trai, nguyên
trước cử vào hầu hạ trong cung, sau
được Vũ hậu yêu đương cho làm
quan chức ở triều.
6.Di Tông, Tam Tư: bốn chữ này ghi cũng
chép sai. Theo Đường sử. Vũ hậu thông t́nh
với Xương Tông và Dịch Chi, chứ không
với Tam Tư, tức Vũ Tam Tư, cháu gọi
Vũ hậu là cô.
7.Trắc nết: hư nết, xấu nết.
Câu này phỏng theo câu ca dao: "Chính chuyên
chết cũng ra ma, lẳng lơ chết cũng
đem ra ngoài đồng".
8.Như Ư : một nhân vật chính trong
một vở tuồng Tả Sự gặp gỡ
của Như Ư và Văn Quân. Như Ư giúp Văn
Quân, một chàng thanh niên tài giỏi, trốn tránh
được khỏi tay quân thù. Về sau hai người
lấy nhau .
9.Chấp nhất: câu nệ, khăng khăng
giữ một
10.Lịch sự: chính nghĩa là trải (thông
thạo) việc đời. Ta thường dùng
để chỉ những tác phong, cử chỉ,
ăn nói, ăn mặc có tính cách chững
chạc, trang nhă, chỉnh tề, đẹp đẽ.
11.Xuân bất tái lai: xuân không trở lại
lần nữa. nói: một tuổi một già đi
.
12.Vọng phu: trông chồng. Đây là một tích
cũ đă phổ biến ở Trung-quốc cũng
như ở Việt-nam. Hai câu này nói: tội ǵ mà
làm người vọng phu cho uổng một đời
người trẻ đẹp .
13.Thở ra: cũng như nói ra.
14.Tua: nên, phải. Do chữ Hán tu nói chệch
ra.
15.Thủy chung: trước sau như một.
16.Động pḥng: có hai nghĩa: 1) căn pḥng sâu
kín nói chung; 2) căn pḥng dành cho việc tân hôn
của đôi vợ chồng. Đây dùng nghĩa
thứ hai.
17.Gối sách: gối gấp như chồng sách.
18.Bát bửu: (Bát bảo): tám thứ vật
quí. Cỗ đồ bát bửu đây là các
thứ gươm, giáo, chùy, búa... làm bằng đồng,
bạc để bày trong nhà sách cho sang trọng.
19.Vách phấn: tường vôi
20.Trăng lờ: trăng tối, tức là không
có trăng, v́ đêm tối không trăng nên dưới
nói đi nhớ ánh sáng đom đóm.
21.Truông: vùng đất bỏ hoang, cây cỏ
mọc thành bụi thấp.
22.Bàn thạch: tảng đá lớn và
phẳng.
23.Vưng: bảo hộ, phủ tŕ.
24.Bô vải: bô do chữ bố và vải. Bô
vải như nói vải sồi.
25.Quan san: cửa ải và núi non. Chỉ
những nơi cách trở xa xôi.
26.Thứ ra đời: lớp chuyện kể
một nhân vật đang sống ẩn ḿnh nay
"ra đời" hoạt động. Đây nói
Lục Vân Tiên "ra đời"
27.Linh dược: thuốc màu nhiệm,
chỉ thuốc tiên.
28.Qui y: đi tu, quy là hướng theo, y là nương
tựa, nói đem cả thân thể, tâm chí hướng
tựa vào đạo Phật.
29.Hư, nên: như nói có khi cùng khốn nhưng
cũng có lúc vinh quang.
30.Phần mộ: mồ mả. Viếng an: do
chữ Hán vấn an, thăm viếng xem có
được b́nh an mạnh khoẻ không. ở
đây là đi viếng mộ.
31.Minh sinh: minh tinh, tức mảnh lụa hay
vải dài có viết họ tên, chức tước
của người chết để rước
đi lúc đưa ma. ở đây treo lên bàn
ở chỗ cúng.
32.Nguồn nước cội cây:
nguồn của nước, cội (gốc) của
cây. Đây dùng chỉ cha mẹ.
33.Chín trăng: chín tháng. nói mang thai chín tháng.
34.Nằm giá: Vương Tường đời
Tấn, khi mùa Đông, nước đóng thành băng,
mẹ già thèm ăn cá, ông ra nằm trên băng
để t́m kiếm, băng tan, hai con có chép
nhảy lên, ông bắt về dâng mẹ. Khóc măng:
Mạnh Tông người nước Ngô đời
Tam quốc, mẹ già thèm ăn măng, nhưng mùa
Đông không có, ông vào rừng tre khóc lóc cầu
khẩn, rồi được măng mọc
đưa về. Đây là hai sự tích trong sách
"Nhị thập tứ hiếu" của Quách
Cư Nghiệp (có sách là Quách Cư Kinh) đời
Nguyên.
35.Ra bề: ra bề thế.
36.Biếm quyền: hạ quyền xuống, giáng
chức quan. Nói Kiều công v́ bọn nịnh
thần mà bị tước quyền đuổi
về.
37.Đoàn viên: chỉ sự tụ họp sum
vầy của vợ chồng hay gia đ́nh, thân
thuộc.
38.Hồ Việt: danh từ này thường dùng
để chỉ sự xa cách nhau, mỗi người
một nơi, như hai nước Hồ Việt,
một ở tận phương Bắc, một
ở tận phương Nam.
39.én nhàn: én nhạn.
40.Chia bâu: chia rẽ, phân ly.
41.Nữ sinh: con gái, cũng như nói
"nữ nhi" (khác với "nữ sinh" là
học sinh con gái).
42.Ôn nhuần: ôn tập lại cho thấm
nhuần thêm.
43.ứng kỳ: theo kỳ thi mà đi thi.
44.Kinh sư: kinh đô.
45.Khôi khoa: đỗ đầu khoa, ở
đây là đỗ trạng nguyên.
46.Y măo (mạo): áo mũ của vua ban.
47.Hiển vinh về nhà: lệ thi thời xưa,
những người thi đỗ tiến sĩ, sau
khi đỗ, nhà vua có ban mũ, áo, cờ và
tấm biển khắc bốn chữ "Ân tứ
vinh qui", nghĩa là ơn vua cho được
vẻ vang trở về.
48.Quan ải: cửa ải nước nọ
sang nước kia.
49.Chỉ: lệnh của vua.
50.Quốc trạng: trạng nguyên của
cả nước.
51.Dẹp loàn: dẹp loạn
52.Đề binh: đem binh đi đánh giặc.
53.Ḱnh: đối địch lại (ḱnh
địch). Trương Phi: một danh tướng
đời Tam quốc, có sức mạnh, giỏi
đánh trận, kết nghĩa anh em với Lưu
Bị.
54.Từ bi: yêu đương và thương
xót người, tiêu biểu của đạo
Phật. Ở đây là cửa Phật
55.Tương hội: gặp nhau, sum họp cùng
nhau.
56.Nhất thinh (thanh) phấn phát oai lôi: lôi là
sấm, một tiếng truyền lệnh, oai hùng như
sấm, làm phấn khởi mọi người.
57.Tiên phong: toán quân xông trận ở mặt
nước. Hậu tập: toán quân tiếp ứng
và đánh bọc phía sau. Tấn binh: tiến binh
(chữ tiến chính âm là tấn). Nói các toán quân
tiên phong hậu tập nghe lệnh truyền
trống đánh, đều phấn khởi mà
tiến lên.
58.Binh tặc: dẹp giặc.
59.Binh đáo quan thành: binh đến trước
thành cửa quan.
60.Cự đang (đương): chống
địch lại.
61.Nguyên nhung: nguyên soái chỉ huy toàn quân.
62.Hóa phép: dùng phép yêu quái để đánh
trận. Hai câu này nói: Hớn Minh thấy Cốt Đột
hóa phủp, sức không địch được,
phải thoát ḿy nóy
63.Kim khôi: khôi là thứ mũ dùng khi ra
trận, đời cổ chế bằng da, đời
sau chế bằng sắt, và cũng chế bằng
đồng hay dát vàng gọi là kim khôi.
64.Phản hồi bổn quân: trở về toán
quân của ḿnh
|