Lục Vân Tiên

Nguyễn Đ́nh Chiểu (1822 - 1888)

 

Câu 1800 - 2080

Trời đà tối mịt, lạc chừng gần xa
Một ḿnh lạc nẻo, vào ra
Lần theo đàng núi, phút đà tam canh
Một ḿnh trong chốn non xanh
Biết ai mà hỏi lộ tŕnh trở ra


Đoạn này tới thứ Nguyệt Nga
Ở đây tính đă hơn ba năm rồi
Đêm khuya chong ngọn đèn ngồi
Chẳng hay trong dạ bồi hồi việc chi
Quan âm thuở trước nói chi

Éo le phỉnh thiếp ḷng ghi nhớ hoài
Đă đành đá nát vàng phai
Cũng nguyẳn xuống chốn dạ đài gặp nhau
Khôn trông mồng bảy đêm thâu
Khôn trông bầy quạ đội cầu đưa sao

Phải chi hỏi đặng Nam Tào
Đêm nay cho đến đêm nào gặp nhau
Nguyệt Nga gượng giăi cơn sầu
Xảy nghe nhạc ngựa ở đâu tới nhà
Kêu rằng: Ai ở trong nhà?

Đường về quan ải chỉ ra cho cùng
Nguyệt Nga ngồi sợ hăi hùng
Vân Tiên xuống ngựa thẳng xông bước vào
Lăo bà lật đật hỏi chào
Ở đâu mà tới rừng cao một ḿnh?


Vân Tiên mới nói sự t́nh
Tôi là quốc trạng triều đ́nh sai ra
Đem binh dẹp giặc Ô-qua
Lạc đường đến hỏi thăm nhà bà đây
Lăo bà nghe nói sợ thay

Xin ông chớ chấp tôi nay mụ già
Vân Tiên ngồi ngắm Nguyệt Nga
Lại xem bức tượng ḷng đà sinh nghi
Hỏi rằng: Bức ấy tượng chi
Khen ai vẽ dung nghi giống ḿnh

Đầu đuôi chưa rơ sự t́nh
Lăo bà khá nói tính danh cho tường
Lăo bà chẳng dám lời gian
Tượng này vốn thiệt chồng nàng ngồi đây
Tiên rằng: Nàng xách lại đây

Nói trong tên họ tượng này ta nghe
Nguyệt Nga ḷng rất kiêng dè
Mặt thời giống mặt, c̣n e lạ người
Ngồi che tay áo hổ ngươi
Vân Tiên thấy vậy mỉm cười một khi


Rằng: Sao nàng chẳng nói đi
Hay là ta hỏi động chi chăng là
Nguyệt Nga khép nép thưa qua:
Người trong bức tượng tên là Vân Tiên
Chàng đà về chốn cửu tuyền

Thiếp làm trọn đạo, lánh miền gió trăng
Vân Tiên nghe nói hỏi phăn
Chồng là tên ấy, vợ rằng tên chi?
Nàng bàn tỏ thiệt một khi
Vân Tiên vội vă xuống qú ṿng tay:

Thưa rằng: Nay gặp nàng đây
Xin đền ba lạy, sẽ bày nguồn cơn
Để lời thệ hải minh sơn
Mang ơn trước phải đền ơn cho rồi
Vân Tiên vốn thiệt là tôi

Gặp nhau nay đă phỉ rồi ước mơ
Nguyệt Nga bảng lảng bơ lơ
Nửa tin rằng bạn, nửa ngờ rằng ai
Thưa rằng: Đă thiệt là ngài
Khúc nôi xin cứ đầu bài quân ra


Vân Tiên dẫn tích xưa ra
Nguyệt Nga khi ấy khóc ̣a như mưa
Ân t́nh càng kể càng ưa
Mảng c̣n bịn rịn trời vừa sáng ngay
Xảy nghe quân ó vang vầy

Bốn bề rừng bụi khắp bày can qua
Vân Tiên lên ngựa trở ra
Thấy cờ đề chữ hiệu là Hớn Minh
Hớn Minh khi ấy dừng binh
Anh em mừng rỡ tỏ t́nh cùng nhau

Minh rằng: Tẩu tẩu ở đâu
Cho em ra mắt chị dâu thế nào
Vân Tiên đem Hớn Minh vào
Nguyệt Nga đứng dậy miệng chào có duyên
Minh rằng: Tưởng chị ở Phiên

Quyết đem binh mă sang miền Ô-qua
Mừng rày sum họp một nhà
Giặc đà an giặc, khải ca hồi trào
Tiên rằng: Nàng tính thế nào?
Nàng rằng: Anh hăy về trào tâu lên


Ngỏ nhờ lượng cả bề trên
Lệnh tha tội trước mới nên về nhà
Trạng nguyên từ giă lăo bà
Dặn ḍ gửi lại Nguyệt Nga ít ngày
Tôi về đem bức tượng này

Tâu cho khỏi tội, rước ngay về nhà
Tiên, Minh lên ngựa trở ra
Đem binh trở lại trào ca đề huề
Sở vương nghe trạng nguyên về
Sai quân tiếp rước vào kề bên ngai

Sở vương bước xuống kim giai
Tay bưng chén rượu thưởng tài trạng nguyên
Phán rằng: Trẫm sợ nước Phiên
Có người Cố Đột phép tiên lạ lùng
Nay đà trừ Cốt Đột xong

Thật trời sinh trạng giúp trong nước nhà
Phải chi sớm có trạng ra
Làm chi nên nỗi Nguyệt Nga cống Hồ
Lệnh truyền mở yến trà đô
Rày mừng trừ đặng giặc Ô-qua rồi


Trạng nguyên quỳ tấu trước ngôi
Nguyệt Nga các việc khúc nôi rơ ràng
Sở vương nghe tấu ngỡ ngàng
Phán rằng: Trẫm tưởng rằng nàng ở Phiên
Chẳng ngờ nàng với trạng nguyên

Cùng nhau trước có nhân duyên thuở đầu
Thái sư trước bệ quỳ tâu
Ô-qua dấy động qua mâu cũng v́
Trá hôn oán ấy gây nên
Nguyệt Nga nàng thiệt tội th́ khi quân

Trạng Nguyên mặt đỏ phừng phừng
Bèn đem bức tượng quỳ dưng làm bằng
Sở vương xem tượng phán rằng:
Nguyệt Nga trinh tiết ví bằng người xưa
Thái sư trước chẳng lo lừa

Thiếu chưa dân thứ phải đưa tới nàng
Dầu cho nhật nguyệt rơ ràng
Khôn soi chậu úp cũng mang tiếng đời
Ngay gian sao cũng có trời
Việc này v́ trẫm nghe lời nên oan


Trạng nguyên tâu trước trào đàng
Thái sư trữ dưỡng tôi gian trong nhà
Trịnh Hâm là kẻ gian tà
Hại tôi buổi trước cũng đà ghe phen
Sở vương phán trước bệ tiền

Những ngờ tướng ngỏ tôi hiền mà thôi
Vậy cũng đạo chúa nghĩa tôi
Thái sư muốn cướp ngôi chín trùng
Hán xưa có gă Đổng công
Nuôi ḍng Lă Bố cướp ḍng nhà Lưu

Đời xưa tôi nịnh biết bao
Thái sư nay cũng khác nào đời xưa
Thấy người trung chính chẳng ưa
Rắp ranh kế độc, lập lừa mưu sâu
Trịnh Hâm tội đáng chém đầu

Ấy là mới hết người sau gian tà
Sở vương phán trước trào ca
Thái sư cách chức về nhà làm dân
Trịnh Hâm là đứa bạo thần
Giao cho quốc trạng xử phân pháp h́nh


Nguyệt Nga là gái tiết trinh
Sắc phong quận chúa hiển vinh rỡ ràng
Kiều công xưa mắc tội oan
Trẫm cho phục chức làm quan Đông-thành
Trạng nguyên dẹp giặc đă b́nh

Kiểu vàng tán bạc hiển vinh về nhà
Băi chầu chư tướng trở ra
Trạng nguyên mời hết đều qua dinh ngồi
Họ Vương, họ Hớn, họ Bùi
Cùng nhau uống rượu đều vui, đều cười

Trạng nguyên mới hỏi một lời
Trịnh Hâm tội ấy các người tính sao
Truyền quân dẫn Trịnh Hâm vào
Mặt nh́n khắp hết, miệng chào các anh
Minh rằng: Ai mượn kêu anh

Trước đà đem thói chẳng lành thời thôi 
Kéo ra chém quách cho rồi
Để chi gai mắt, đứng ngồi căm gan
Trực rằng: Minh nóng nói ngang
Giết ruồi đâu xứng gươm vàng làm chi


Xưa nay mấy đứa vô ngh́
Dẫu cho có sống làm ǵ nên thân
Hâm rằng: Nhờ lượng cố nhân
Vốn tôi mới dại một lần xin dung
Trạng rằng: Hễ đấng anh hùng

Nào ai có giết đứa cùng làm chi
Thôi thôi ta cũng rộng suy
Truyền quân mở trói đuổi đi cho rồi
Hâm mừng khỏi thác rất vui
Vội vàng cúi lạy chân lui ra về

C̣n ngươi Bùi Kiệm máu dê
Ngồi chề bề mặt như sề thịt trâu
Hớn Minh, Tử Trực vào tâu
Xin đưa Quốc trạng kịp chầu vinh qui
Một ngươi Bùi Kiệm chẳng đi

Trong ḷng hổ thẹn cũng v́ máu dê
Trạng nguyên xe giá chỉnh tề
Sai quân hộ vệ rước về Nguyệt Nga
Bạc vàng đem tạ lăo bà
Nguyệt Nga từ tạ thẳng qua Đông-thành


Vơng điều, gươm bạc, lọng xanh
Trạng nguyên, Tử Trực, Hớn Minh lên đàng
Trịnh Hâm về tới Hàn Giang
Sóng thần nổi dậy thuyền chàng ch́m ngay.
Trịnh Hâm bị cá nuốt vây

Thiệt trời báo ứng lẽ này rất ưng
Thấy vầy nên dửng dừng dưng
Làm người ai, nấy th́ đừng bất nhân
Tiểu đồng trước giữ mộ phần
Ngày qua tháng lại đă gần ba năm

Của đi khuyến giáo mấy năm
Tính đem hài cốt về thăm quê nhà
Hiềm chưa thuê đặng người ta
C̣n đương thơ thẩn vào ra Đại Đề
Trạng nguyên khi ấy đi về

Truyền quân bày tiệc lo bề tế riêng
Tiểu đồng hồn bậu có thiêng
Thỏa t́nh thày tớ ḷng thiềng ngày nay
Đọc văn nhớ tới chau mày
Đôi hàng lụy ngọc tuôn ngay ṛng ṛng

Người ngay trời phật động ḷng
Phút đâu ngó thấy tiểu đồng đến coi
Trạng nguyên c̣n hăy sụt sùi
Ngó lên bài vị lại xui ḷng phiền
Tiểu đồng nhắm ngửa, nh́n nghiêng


Ông này sao giống Vân Tiên cũng kỳ
Ông nào mất xuống âm ty
Ông nào c̣n sống nay th́ làm quan?
Trạng nguyên khi ấy hỏi chàng
Phải người đồng tử mắc nàn chốn ni

Mấy năm tớ mới gặp thầy
Cúng nhau kể nỗi đắng cay từ ngằn
Ai dà c̣n thấy bổn quan
Ba năm ǵn giữ mồ hoang đă rồi
Trạng nguyên khi ấy mừng vui

Tớ thầy sum họp tại nơi Đại Đề
Đoạn thôi xe giở ra về
Tuần du phút đă gần kề Hàn Giang
Vơ công từ xuống suối vàng
Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang đeo sầu

Mẹ con những mảng lo âu
Nghe Vân Tiên sống gặp chầu công danh
Cùng ta xưa có ân t́nh
Phải ra đón rước lộ tŕnh họa may
Loan rằng: Ḿnh ở chẳng hay


E ngựi c̣n nhớ những ngày trong hanh
Trang rằng: Con có hồng nhan
Cho chàng thấy mặt thời chàng ắt ưa
Ví dầu c̣n nhớ tích xưa
Mẹ con ta lại đổ thừa Vơ công

Cùng nhau bàn luận đă xong
Soi gương đánh phấn ra pḥng rước duyên
Nay đà tới thứ Trạng nguyên
Hàn giang đă tới, bỗng liền đóng quân
Bạc vàng châu báu áo quần

Trạng nguyên đem tạ đáp ân ngư tiều
Ngư tiều nay đặng danh biêu
Ơn ra một buổi của nhiều trăm xe
Trạng nguyên chưa kịp trở về
Thấy Quỳnh Trang đă đừng kề trong quân

Trang rằng: Tưởng chữ hôn nhân
Mẹ con tôi đến lễ mừng Trạng nguyên
Vơ công đă xuống huỳnh tuyền
Xin thương lấy chút thuyền quyên phận này
Trạng rằng: Bưng nước bát đầy


Đổ ngay xuống đất hớt rày sao xong
Oan gia nợ ấy trả xong
Thiếu chi nên nỗi mà mong tới đ̣i
Hớn Minh, Tử Trực đứng coi
Cười rằng: Hoa khéo làm mồi trêu ong

Khen cho ḷng chẳng thẹn ḷng
C̣n mang mặt đến đèo ḅng nỗi chi
Ca ca sao chẳng chịu đi
Về cho tẩu tẩu để khi xách giày
Mẹ con đương thẹn thùng thay

Vội vàng cúi lạy chân quày bước ra
Trở về chưa kịp tới nhà 
Thấy hai ông cọp chạy ra đón đường
Thảy đều bắt mẹ con nàng
Đem vào lại bỏ trong hang Thương-ṭng

Bốn bề đá lấp bịt bùng
Mẹ con than khóc khôn trông ra rồi
Trời kia quả báo mấy hồi
Tiếc công trang điểm phấn giồi bấy lâu
Làm người cho biết ngăi sâu


Gặp cơn hoạn nạn cùng nhau cho tṛn
Đừng đừng theo thói mẹ con
Thác đà mất kiếp, tiếng c̣n bia danh
Trạng nguyên về tới Đông-thành
Lục ông trước đă xây dinh đầu làng

Bày ra sáu lễ sẵn sàng
Các quan đi họ cưới nàng Nguyệt Nga
Sui gia đă xứng xui gia
Rày mừng hai họ một nhà thành thân
Trăm năm biắt mấy tinh thần

Sinh con sau nối gót lân đời đời


Chú thích:

1.Phản hồi bổn quân: trở về toán quân của ḿnh

2.Dạ đài: lâu đài đêm, đêm có nghĩa là tối tăm, chỉ nơi tối tăm của người chết. "Dạ đài" cũng như "tuyền đài" (đài suối vàng, tức là lâu đài dưới đất), nghĩa chính là "cái mả", mà nghĩa bóng là nói cơi âm, cơi chết.

3.Mồng bảy đêm thâu (thu): đêm mồng bảy tháng bảy mùa thu. Bầy quạ đội cầu đưa sao: sao chỉ hai sao Khiên ngưu và Chức nữ. (Xem chú thích ở các câu 245, 246 và 1248). Nguyệt Nga nói, ḿnh với Vân Tiên, khôn mong gặp nhau như Chức nữ gặp Ngư 1248).

4.Nam Tào: theo thần thoại. Nam Tào và Bắc Đẩu là hai vị thần giữ sổ sinh tử của trần gian.

5.Dung nghi: dáng điệu

6.Tính danh: họ tên

7.Kiêng dè: dè dặt, thận trọng

8.Gió trăng: chỉ thói dâm tà xấu xa

9.Phăn: lần (phăn mối chỉ). Hỏi phăn: hỏi lần cho biết

10.Thệ hải minh sơn: thề bể hẹn non, tức là chỉ bể chỉ núi mà thề: lời nói của ḿnh bền vững như núi như bể.

11.Khúc nôi: hay khúc nhôi, những chi tiết của sự việc, lai lịch khúc chiết. Đầu bài: như nói câu chuyện. nói câu chuyện lai lịch thế nào, xin bàytỏ cho biết .

12.Quân ó vang vầy: quân thét vang lừng.

13.Can qua: mộc và mác, đồ binh khí. nói: quân gia kéo đến chung quanh rừng, la liệt những binh khí.

14.Tẩu tẩu: chị dâu, dùng theo tiếng bạch thoại Trung Quốc. Đây Hớn Minh coi Nguyệt Nga như chị dâu, nên xưng hô như thế. (Xem chú thích ở câu 1229)

15.Khải ca hồi trào: hát khúc ca thắng trận trở về triều.

16.Trào ca: triều đ́nh, triều ban.

17.Đề huề: dắt tay nhau cùng đi. Nghĩa bóng là thân thiện mà d́u dắt nhau.

18.Kim giai: thềm vàng

19.Trà đô: nơi đô thị có triều đ́nh.

20.Qua mâu: giáo mác. Dấy động qua mâu: dấy binh xâm phạm

21.Khi quân: dối vua, lừa vua. Tội khi quân là tội to thời xưa

22.Dân thứ: cũng như dân chúng. nói: thiếu ǵ con gái nhân dân mà lại phải dùng đến nàng.

23.Chậu úp: do chữ Hán "phú bồn", sách Bảo phác tử có câu "Tam quan bất chiếu phú bồn chi nội" , nghĩa là ánh tam quang (mặt trời, mặt trăng và các v́ sao) không soi vào được trong ḷng cái chậu úp. Người ta thường nói: "Phú bồn chi oan": cái oan chậu úp, là chỉ sự oan ức không giải bày được. nói hai câu này: dù sáng suốt như mặt trời mặt trăng mà không xét đến nỗi oan tối tăm th́ cũng mang tiếng xấu với đời .

24.Trữ dưỡng: chứa chấp và nuôi nấng.

25.Ghe phen: (tiếng miền Nam) nhiều phen, có phen.

26.Tướng ngỏ: ngỏ có nghĩa là trung, giải bày cả tấm ḷng thành thực với vua.

27.Chín trùng: do chữ "cửu trùng": chín trùng cửa. Sở-từ có câu: Quân chi môn dĩ cửu trùng", nghĩa là cửa nhà vua những chín trùng, nói vua ở một nơi sâu thẳm. Nhân thế người ta gọi nơi vua ở hay bản thân vua là "cửu trùng" . Đây nói: thái sư muốn cướp ngôi vua.

28.Đổng công: Đổng Trác. (Xem chú thích ở câu 1251)

29.Nhà Lưu: nhà họ Lưu, tức nhà Hán.

30.Bạo thần: kẻ bày tôi tàn ác

31.Xử phân pháp h́nh: Theo h́nh phép nhà nước mà trị tội.

32.Giết ruồi đâu xứng gươm vàng: nói người quân tử không thàm giết kẻ tiểu nhân, cũng như gươm vàng không đáng đem mà giết ruồi cho bẩn gươm. Câu này do câu ca dao: "Đạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi".

33.Vô ngh́: phi nghĩa, bạc ác.

34.Dung: tha cho

35.Chề bề: một từ ngữ h́nh dung cái bộ mặt ê chệ khi bị nhơ nhuốc.

36.Sề: một thứ rổ, đan bằng tre nứa, dùng đựng đồ vật. Sề thịt trâu: nói như cái rổ thịt trâu trông nhầy nhụa ê chệ .

37.Vinh qui: vẻ vang trở về. Thời xưa, những người thi đỗ tiến sĩ, được vua ban mũ áo, cờ biển cho vẻ vang mà trở về, và được nhân dân tổ chức cuộc đón rước long trọng. Kịp chầu vinh qui: kịp thời (buổi, lúc) vinh qui. Trước đây Vân Tiên thi đỗ xong, chưa được vinh qui, phải đi đánh giặc ngay, nên nay mới xin vua cho kịp thời trở về.

38.Rước về Nguyệt Nga: tức là rước Nguyệt Nga về. Câu này cũng như câu: "Vợ Tiên là chị Trực" ở phần trên, đảo ngữ g̣ ép để cho có vần.

39.Báo ứng: giả lại xứng đáng những việc ḿnh làm. Theo thuyết nhà Phật: làm điều thiện th́ gặp thiện, làm điều ác th́ gặp ác, đó là lẽ báo ứng. Rất ưng: rất phải, rất đúng.

40.Mộ phần: mồ mă, cũng như phần một.

41.Hài cốt: xương người chết. Tiểu đồng đi khuyên giáo được một số tiền, định thuê người đưa hài cốt chủ (người chết mà tiểu đồng nhận nhầm là Vân Tiên) về chôn ở quê nhà.

42.Thiềng: do tiắng "thành" đọc chệch.

43.Bài vị: mảnh gỗ hay giấy có đề tên tuổi người chết để thờ cúng.

44.Từ ngằn: từ độ ấy đến nay.

45.Bổn quan: bản quan, cũng như bản chức, tiếng tự xưng hô của người làm quan thời trước. ở đây là tiếng của tiểu đồng xưng Vân Tiên.

46.Tuần du: đi chơi để xem xét. Chữ "tuần" nguyên trước chỉ nghĩa là đi mà xem xét, như nói "tuần du" "tuần thú" (sự đi xem xét các nước chư hầu của thiên tử thời xưa), sau lại dùng thêm nghĩa: đi qua lại mà xem xét, như nói "tuần tiễu" (về quân sự), "tuần cảnh" (về cảnh sát).

47.Hồng nhan: sắc đẹp.

48.Đổ thừa Vơ công: đổ cả việc hăm hại Vân Tiên cho Vơ công.

49.Ra pḥng rước duyên: pḥng là chờ, ḥng, nói Thể Loan trang điểm xong, ra nơi lộ tŕnh của Vân Tiên để ḥng đón rước mối duyên.

50.Biêu: do chữ "tiêu" là nêu đọc chệch đi. Có bản chép là "bêu", cũng do chữ "tiêu" mà ra, nhưng tác giả dùng tiếng miền Nam với nghĩa tốt của nó (nêu), chứ không dùng theo nghĩa xấu (bày ra một cách nhơ nhuốc) ở miền Bắc, như nói: bêu đầu, bêu xấu, bán bêu.

51.Huỳnh tuyền: hoàng tuyền (xem chú thích ở câu 1206)

52.Bưng bát nước đầy, Đổ ngay...: nói t́nh duyên đă dứt, không thể nối lại, cũng như bát nước đă đổ xuống đất, không thể hốt lại đầy được nữa. Dùng tích vợ Chu Măi Thần (xem chú thích ở câu 416) .

53.Oan gia: xem chú thích ở câu 1069. Vân Tiên cho việc ḿnh bị nhà Vơ công hăm hại là cái nợ oan gia, nên bảo rằng: oan gia nợ ấy tôi đă giả xong rồi, sao lại c̣n tới đ̣i hỏi?

54.Ca ca: anh (chữ này ta thường đọc là kha, nhưng chính âm là ca). Chịu đi: ưng thuận đi.

55.Tẩu tẩu: chỉ Nguyệt Nga. Hớn Minh và Tử Trực bảo Vân Tiên sao không ưng thuận, cho Thạ Loan về để xách giày cho Nguyệt Nga.

56.Thương-ṭng: cái hang mà Vơ công đă bỏ Vân Tiên trước đây

57.Quả báo: tiếng nhà Phật, chỉ cái kết quả đền lại, giả lại nhưng việc ḿnh đă làm (nói chung cả việc thiện lẫn việc ác)

58.Xấu c̣n bia danh: tiếng xấu c̣n lưu lại như tạc bia, để cho người đời chê cười mỉa mai

59.Sáu lễ: sáu lễ trong việc cưới xin thời xưa, tức: nạp thái (đưa lễ kén chọn), vấn danh (hỏi tên tuổi), nạp cát (đưa điềm tốt), nạp trương (đưa sính lễ), thỉnh kỳ (xin ngày cưới), thân nghinh (đón dâu).

60.Gót lân: do chữ Hán "lân chi" là chân con kỳ lân, một loài thú tượng trưng cho đức tính nhân hậu (người xưa bảo con kỳ lân không dẫm chân lên các sinh vật bé nhỏ và làn cỏ xanh tươi). Thơ "Lân chi" ở Kinh thi khen ngơi con cháu và họ hàng của Văn vương (vua tổ nhà Chu) là nhưng người sang cả mà có đức tốt, nhân lấy con lân ví với cha mẹ (Văn vương) và chân của nó ví với con cái. Do đó, người ta gọi người con hiền, con quí là "lân chi". Đây nói Vân Tiên lại sinh được con hay, lập nên công danh, nối dơi nghiệp cha lâu dài.