|
Câu 200 - 399
Ḷng chê cũng phải mặt ngơ
sao đành
Vân Tiên khó nỗi làm thinh
Chữ ân đă buộc, chữ t́nh lây đây
Than rằng: Đó khéo trêu đây
Ơn kia đă mấy của này rất sang
Gặp nhau đang lúc giữa đàng
Một lời cũng nhớ, ngàn vàng chẳng
phai.
Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài
Nào ai chịu lấy của ai làm ǵ.
Thưa rằng: Chút phận nữ nhi
Vốn chưa biết lẽ, có khi mích ḷng
Ai dè những đấng anh hùng
Thấy trâm thôi lại thẹn cùng cây trâm
Riêng than: Trâm hỡi là trâm
Vô duyên chi bấy, ai cầm mà mơ
Đưa trâm chàng đă làm ngơ
Thiếp xin đưa một bài thơ giă từ.
Vân Tiên ngó lại rằng: ừ
Làm thơ cho kịp chừ chừ chờ lâu
Nguyệt Nga ứng tiếng xin hầu
Xuống tay liền tả tám câu năm
vần
Thơ rồi này thiếp xin dâng
Ngửa trông lượng rộng văn nhân thể
nào.
Vân Tiên xem thấy ngạt ngào
Ai dè sức gái tài cao bực này
Đă mau mà lại thêm hay
Chẳng phen Tạ Nữ, cũng tày Từ Phi
Thơ ngâm dũ xuất dũ kỳ
Cho hay tài kém ǵ tài trai
Như vầy ai nhẫn thua ai
Vân Tiên họa lại một bài trao
ra
Xem thơ biết ư xa
Mai ḥa vận điệu, điệu ḥa vận mai
Có câu xúc cảnh hứng hoài
Đường xa ṿi vọi, dặm dài vơi vơi
Ai ai cũng ở trong trời
Gặp nhau ta đă cạn lời th́ thôi.
Vân Tiên từ giă phản hồi
Nguyệt Nga than thở: "T́nh ơi là t́nh!"
Nghĩ ḿnh mà ngán cho ḿnh
Nỗi ân chưa trả, nỗi t́nh lại vương.
Nặng nề hai chữ uyên ương
Dây sầu ai khéo vấn vương vào ḷng
Vái cùng Nguyệt Lăo hỡi ông
Trăm năm cho vẹn chữ ṭng mới an.
Hữu t́nh chi bấy Ngưu Lang
Tấm ḷng Chức Nữ v́ chàng mà nghiêng.
Thôi thôi em hỡi Kim Liên
Đẩy xe cho chị qua miền Hà-Khê
Trải qua dấu thỏ đàng dê
Chim kêu vượn hú, tứ bề nước non
Vái trời cho đặng vuông tṛn
Trăm năm cho vẹn ḷng son với chàng
Phút đâu đă tới phủ đàng
Kiều công xem thấy ḷng càng sinh nghi
Hỏi rằng: Nào trẻ tùy nhi
Cớ sao nên nỗi ra đi một ḿnh?
Nguyệt Nga thưa việc tiền tŕnh
Kiều công tưởng nỗi sự t́nh chẳng
vui.
Nguyệt Nga dạ hăy ngùi ngùi
Nghĩ đ̣i cơn lại sụt sùi ḍi cơn
Lao đao phận trẻ chi sờn
No nao trả đặng công ơn chi chàng.
Kiều công nghe nói liền can
Dạy rằng: Con hăy nghỉ an ḿnh vàng
Khi nào cha rănh việc quan
Cho quân quan đó mời chàng sang đây
Sao sao chẳng kíp thi chầy
Cha nguyền trả đặng ơn này th́ thôi
Hữu đường con khá tạm lui
Làm khuây dạ trẻ cho vui ḷng già.
Tây lầu trống điểm sang ba
Nguyệt Nga c̣n hăy xót xa phận ḿnh
Dời chân ra chốn hoa đ́nh
Xem trăng rồi lại chạnh t́nh cố nhơn
Than rằng: Lưu thụy cao sơn
Ngày nào nghe đặng tiếng đàn tri âm
Chữ t́nh càng tưởng càng thâm
Muốn pha khó lợt, muốn dầm khôn phai
Vơi vơi đất rộng trời dài
Hỡi ai nỡ để cho ai đeo phiền
Trở vào bèn lấy bút nghiên
Đặt bàn hương án chúc nguyền thần linh
Làu làu một tấm ḷng thành
Họa ra một bức tượng h́nh Vân Tiên.
Than rằng: Ngàn dặm sơn xuyên
Chữ ân để dạ, chữ duyên nhuốm
sầu.
Truyện nàng sau hăy c̣n lâu
Truyện chàng xin kể thứ đầu chép
ra
Vân Tiên từ cách Nguyệt Nga
Giữa đường lại gặp người
ra kinh kỳ
Xa xem mặt mũi đen ś
Ḿnh cao đồ sộ dị kỳ rất hung
Nhớ câu b́nh thủy tương phùng
Anh hùng lại gặp anh hùng một khi.
Chẳng hay danh tính là chi
Một ḿnh mang gói ra đi chuyện ǵ?
Đáp rằng ta cũng xuống thi
Hớn Minh tính tự, Ô-mi quê nhà.
Vân Tiên biết lẽ chính tà
Hễ người dị tướng ắt là tài
cao
Chữ rằng bằng hữu chi giao
T́nh kia đă gặp lẽ nào làm khuây?
Nên rừng há dễ một cây
Muốn cho có đó cùng đây luôn vần.
Kia nơi vơ miếu hầu gần
Đôi ta vào đó nghỉ chân một hồi.
Cùng nhau bày tỏ tên rồi
Hai chàng từ tạ đều lui ra đường
Hớn Minh đi trước tựu trường
Vân Tiên c̣n hăy hồi hương thăm nhà.
Mừng rằng: Nay con thấy ta
Cha già những tưởng, mẹ già những trông
Bấy lâu đèn sách gia công
Con đà nên chữ tang bồng cùng chăng?
Vân Tiên quỳ lạy thưa rằng:
Chẳng hơn người cổ cũng bằng người
câm (kim)
Dám xin cha mẹ yên tâm
Đặng con trả nợ thanh khâm cho rồi
Mẹ cha thấy nói thêm vui
Lại lo non nước xa xôi ngh́n trùng
Cho theo một gă tiểu đồng
Viết một bức dặn cùng Vân Tiên
Xưa đà định chữ lương duyên
Cùng quan hưu trí ở miền Hàn Giang
Con người là Vơ Thệ Loan
Tuổi vừa hai bảy dung nhan mặn mà
Chữ rằng Hồ Việt nhất gia
Con đi tới đó trao qua thư này
Con dầu bước đặng thanh mây
Dưới chân đă sẵn một dây tơ
hồng
Song thân dạy bảo vừa xong
Vân Tiên cùng gă tiểu đồng dời chân
Ra đi tách dặm băng chừng
Gió Nam rày đă đưa xuân qua hè
Lại xem dặm liễu đường ḥe
Tin ong ngơ ngác, tiếng ve vang dầy.
Vui xem nước nọ non này
Nước sao sóng dợn, non vầy đà cao
Màn trời gấm trải biết bao
Trên nhành chim nói, dưới ao cá cười
Quận thành nhắm kiểng coi người
Kiểng xinh như vẽ, người tươi như
giồi
Hàn-Giang phút đă tới nơi
Vân Tiên ra mắt một hồi tŕnh thư.
Vơ công lấy đọc bây giờ
Mừng duyên cầm sắt mối tơ đặng
liền
Liếc coi tường mạo Vân Tiên
Khá khen họ Lục phước hiền sinh con
Mày tằm, mắt phụng, môi son,
Mười phân cốt cách vuông tṛn mười phân
Những e kẻ Tấn người Tần
Nào hay chữ ngẫu đặng gần
chữ giai
Nhắm đà đẹp đẽ ḥa hai
Ḱa dâu nam giản, nọ trai đông sàng
Công rằng: Ngăi tế mới sang
Muốn lo việc nước hăy toan việc nhà.
Tiên rằng: Nhờ lượng nhạc gia
Đại khoa dầu đặng, tiểu khoa
lo ǵ
Công rằng: Con dốc xuống thi
Sao không kết bạn mà đi tựu trường
Gần đây có một họ Vương
Tên là Tứ Trực văn chương tốt
đời
Cha đà sang trẻ qua mời
Đặng con cùng gă thử chơi một bài
365. Thấp cao, cao thấp biết tài
Vầy sau trước (trúc) bạn cùng mai
mới màu.
Phút đầu Tử Trực tới hầu
Vơ công sẵn đặt một bầu rượu
ngon.
Công rằng: Này bớ hai con
Thơ hay làm đặng rượu ngon thưởng
liền
Muốn cho Trực sánh cùng Tiên
Lấy câu "b́nh thủy hữu duyên" làm
đề.
Song song hai gă giao kề
Lục, Vương hai họ đua nghề một
khi
Cho hay kỳ lại gặp kỳ
Bạch Hàm há dễ kém chi Như Hoành
Công rằng: Đơn quế hai nhành
Bảng vàng, thẻ bạc đă đành làm nêu
Như chuông chẳng đánh sao kêu
Ngọn đèn rạng tỏ trước khêu
bởi ḿnh
Thiệt trang lương đống đă
đành
Khá khen hai họ tài lành ḥa hai.
Trực rằng: Tiên vốn cao tài
Dám đâu én hộc sánh vai một bầy
T́nh cờ mà gặp nhau đây
Trực này xin nhượng Tiên rày làm anh
Nay đà nên nghĩa đệ huynh
Xin về mai sẽ thượng tŕnh cùng nhau.
Xảy đâu trăng đă đứng đầu
Vân Tiên vào chốn thư lầu nghỉ an.
Vơ công trở lại hậu đàng
Đêm khuya dạy bảo Thể Loan mọi lời
Ngày mai vừa rạng chân trời
Tiểu nhi trang điểm ra nơi lê đ́nh
Gọi là chút nghĩa tống t́nh
Pḥng sau cho khỏi bất b́nh cùng nhau,
Bóng trăng vừa lộ nhành dâu
Vân Tiên vào tạ dây lâu xuất hành.
Ra đi từ thuở b́nh minh
Chú thích:
1.Một lời cũng nhớ, ngàn vàng chẳng
phai: câu này đại là giữa đường
gặp nhau, nếu lấy t́nh nghĩa, th́ một
lời nói, cũng đủ ghi nhớ măi măi, dù
đem ngàn vàng nữa, cũng không làm phai lạt
được .
2.Ai dè...Thấy trâm...Hai câu này nói: dà đâu
gặp người anh hùng, cho sự nh́n cây trâm là
không chính đáng, nên có ngượng ngùng mà ngơ
mặt đ́ .
3.Chừ: giờ, bây giờ (tiếng miền
Nam). Chừ chừ: một loại
"tiếng đôi" mà tác giờ hay dùng trong
truyện để nhấn mạnh lời nói rơ thêm.
4.Hầu: xin vâng làm thơ hầu Vân Tiên
5.Xuống tay: do chữ Hán "hạ thủ',
nghĩa là bắt tay làm một việc ǵ. Đây nói
xuống tay làm thơ chép ra giấy.
6.Tám câu năm vần: theo qui tắc thơ Đường,
mỗi bài thể "luật" ngũ ngôn (năm
chữ) hay thất ngôn (bảy chữ) đều có
tám câu và năm vần.
7.Ngạt ngào: mùi thơm nức lên. Nói
lời và tứ thơ, sực nức như mùi hoa
thơm, nghĩa là hay lắm.
8.Tạ nữ: Tạ Đao Uốn, một
phụ nữ có thi tài đời Tần. Nàng có câu
thơ tả "tuyết" (ví bông tuyết như
những bông tơ liễu gặp gió tung lên)
được truyền tụng ở đời.
9.Từ phi: Từ Huệ phi vợ Đường
Duệ Tông, giỏi văn chương lên 8
tuổi đă biết làm văn, bà có bài
Tiểu-Sơn soạn theo thể Ly-Tao của
Khuất Nguyên, có so tài ḿnh với tài cổ nhân .
10.Dũ xuất dũ kỳ: càng phát ra càng
hay lạ.
11.Nhẫn: chịu. Vân Tiên thấy Nguyệt
Nga làm thơ hay, ư muốn nói trổ tài họa
lại, không chịu thua kém (chữ cổ) .
12.Mai: cây mơ, Điểu: chim. Mai điểu
là bức tranh thể hiện sự phân phối
hợp, đẹp đẽ của hoa với chim.
tác giả khen hai bài thơ xướng họa
rất xứng với nhau .
13.Xúc cảnh hứng hoài: xúc cảm trước
cảnh mà động ḷng thơ.
14.Vơi vơi: thăm thẳm (tác giả dùng
theo tiếng miền Nam, xem chú thích ở câu 88)
15.Phản hồi: trở lại, trở
về.
16.Uyên ương: một loài chim nước,
con đực gọi là uyên, con cái gọi là
ương, hai con không rời nhau, lúc nào cũng
đi thành đôi... H́nh ảnh vợ chồng ḥa
thuận thương yêu nhau. Đây nói t́nh yêu
Nguyệt Nga với Vân Tiên.
17. Nguyệt lăo: tức "Nguyệt hạ lăo
nhân", ông già dưới trăng, một vị
thần giữ việc xe duyên vợ chồng (ông tơ).
Người ta cũng gọi người làm
mối vợ chồng là Nguyệt lăo.
18.Vẹn chữ ṭng: vẹn đạo làm
vợ. Do chữ Hán tam ṭng; tại gia ṭng phụ,
xuất giá ṭng phu, phu tử ṭng tử (ở nhà
theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng
chết theo con) Đây nói chữ ṭng đối
với chồng.
19. Ngưu lang: tức Khiên ngưu lang, chàng chăn
trâu (chàng Ngưu). Chức nữ: nàng dệt
vải (ả Chức). Theo sách Kinh sở tuế
thời kỳ: Chức nữ là con trời (có sách
chép là cháu trời) ở bên Đông sông Ngân hà là
nghề dệt vải rất siêng năng. Trời
thương cảnh nàng cô độc gả cho Khiên
ngưu lang làm nghề chăn trâu ở bên Tây sông
Ngân Hà. Từ khi Chức nữ về với Ngưu
lang ham mê đường t́nh ái, chạnh mảng
việc canh cửi, Trời phạt, lại bắt
về bên Đông sông Ngân hà, mỗi năm chỉ
được qua sông gặp nhau một lần,
tức đêm mồng bảy tháng bảy âm
lịch (chữ Hán gọi là "thất
tịch"). Theo thiên văn của ta th́ Khiên ngưu,
Chức nữ là hai ngôi sao bên bờ sông Ngân hà,
mỗi ngôi một bên thường ở cách xa nhau
hoặc có khi thấy sao này mà không thấy sao kia,
chỉ có đêm mồng bảy mới thấy hai
sao gần nhau
20. Dấu thỏ đầng dê: những
đường lối khúc khuỷu khó đi (Đường
dê do chữ Hán dương trường":
đường ruột dê, nói đường
chật hẹp quanh co như ruột dê)
21. Phủ đàng: phủ đường, dinh
thự của tri phủ.
22. Tùy nhi: bọn theo hầu Nguyệt Nga
23. Chi sờn: Không sợ, không ngại
24. No nao: tiếng cổ miền Nam, chưa
biết lúc nào
25. Sao sao: Làm sao, làm thế nào (xem chú thích
ở câu 218).
26. Tây lầu: tây lầu, lầu phía Tây.
Thời xưa trong cung vua hay nhà quan, nam giới thường
ở phía Đông (Đông cung thái tử) nữ giới
thường ở phía Tây (Tây cung thái hậu)
27. Hoa đ́nh: có hai nghĩa: 1.sân có trồng
hoa; 2. nhà xây ở giữa vườn để
ngồi mát chơi hoa
28. Cố nhân: người cũ, bạn cũ.
Cũng dùng chỉ "chồng cũ"
"vợ cũ"
29. Lưu thủy cao sơn: xem chú thích ở câu
193. Hai câu này ngụ nói: cái tâm t́nh lưu thủy
cao sơn của ḿnh, bao giờ được người
tri âm biết đến, bao giờ được
lại gặp nhau và hiểu nỗi ḷng nhau .
30. Làu làu: rất trong sạch
31. Sơn xuyên: núi sông,
32. Thứ: (tiếng miền Nam) lớp
tuồng, lớp truyện. Thứ đầu:
lớp truyện kỳ đầu, nói kỳ nói chép
truyện kỳ đầu,
33. Kinh kỳ: nói chung kinh đô và cả khu
đất kế cận chung quanh hàng ngh́n dặm.
Đây chỉ kinh đô, thủ đô.
34. Dị kỳ rất hung: nói tướng
mạo lạ lùng trông đáng sợ.
35. B́nh thủy tương phùng: bèo nước
gặp nhau, nói sự gặp gỡ ngẫu nhiên, như
bèo trôi theo nước, không định chỗ nào
.
36. Tính tự: họ và tên
37. Ô-mi: ở Trung-Quốc và ở nước
ta đều không có địa danh này nhưng
tỉnh An-Giang (Châu-Đốc) có cù lao Ô-Châu, có sông
Ô-Môn và có làng đánh cá Ô-Môn.
38. Bằng hữu chi giao: cái t́nh giao kết
giữa bạn bè với nhau
39. Vơ miếu: miếu thờ một vị
thần quan vơ
40. Tựu trường: đến nơi thi
41. Tang bồng: do chữ "tang hồ
bồng thỉ", là cung gỗ dâu, tên cỏ
bồng. Tục xưa, khi đẻ con trai th́ làm
cung bằng gỗ dâu, để ngụ ư người
con trai sau này phải giúp nước giúp đời.
Tang bồng tiêu biểu cho chí nam nhi .
42. Người câm (kim): người nay-
chữ "kim" chính âm là chữ "câm",
ở đây nên đọc đúng âm, cho có
vần với hai câu dưới.
43. Thanh khâm: áo cổ xanh, học tṛ
Trung-quốc ngày xưa mặc áo cổ xanh. Trả
nợ thanh khâm: trả nợ bút nghiên, tức là
đi thi đỗ đạt
44. Lương duyên: nhân duyên tốt lành
Hưu trí: làm việc công v́ tuổi già
sức yếu
45. Hàn-Giang: tên một con sông ở tỉnh Phúc
Kiến và tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc); ở
tỉnh Định Tường cũ (Nam Kỳ) cũng
có có sông Hàn Giang.
46. Hai bảy: 14 tuổi
47. Hồ Việt nhất gia: người
Hồ người Việt ở cùng một nhà. nói:
người xa thành người gần, t́nh sơ
thành t́nh thân. Đây chỉ t́nh thân hai gia đ́nh .
48. Thang mây: do chữ Hán là vân thê, chữ có
hai nghĩa:
1)Một khí cụ bằng gỗ, dưới như
h́nh cái xe, trên đặt hai cái thang thật dài,
khi chiến trận, dùng để nḥm vào trong thành
giặc, v́ nó cao như sát với mây, nên gọi là
thang mây;
2)Chỉ sự thi đỗ bước lên con
đường công danh, có địa vị cao.
49. Tơ hồng: do chữ Hán "xích
thắng", dây xe duyên.
50. Băng chừng: chừng đồng nghĩa
với dặm. Băng chừng c̣n có nghĩa là lướt
chân theo chừng dặm đường.
51. Non vầy: vầy là họp,như nghĩa
"sum vầy" (sum họp)
52. Giồi: trau giồi, như nghĩa dồi
phấn.
53. Cầm, sắt: hai thứ đàn người
ta thường gảy để ḥa nhịp với
nhau, tiêu biểu t́nh vợ chồng ḥa hợp. Duyên
cầm sắt: như nói duyên vợ chồng.
54. Tấn Tần: hai nước ở đời
Xuân Thu bên Trung-quốc. Kẻ Tấn người
Tần: mỗi người một xứ khác nhau.
55. Ngẫu: một đôi, một lứa. Giai:
tốt đẹp. "Chữ ngẫu gần
chữ giai" tức là hai chữ này ghép lại
với nhau, thành một danh từ "giai
ngẫu", một lối nói bóng trong văn chương
(Truyện Nhị độ Mai: "Chữ tư
để dưới chữ tương ngày
nay" , nói bóng danh từ "tương tư").
Vơ công nói: ai ngờ con ḿnh với Vân Tiên lại
kết thành "giai ngẫu", nghĩa là một
lứa đôi tốt đẹp").
56. Nam giản: ḍng suối (khe) phía Nam. Thơ
Thái Tần Kinh Thi tả người phụ nữ
cần lao thanh thiết, đi hái rau tần (một
thứ rau nước) ở ḍng suối phía Nam
đưa về làm lễ dâng cúng tổ tiên.
57. Đông sàng: giường bên Đông. Khích Giám
(có sách chép là Hi Giám) đời Tấn, sai người
nhà đến Vương Đạo kén rễ, các con
cháu họ Vương nghe tin, ai cũng làm ra vẻ
đứng đắn nghiêm chỉnh, chỉ có Vương
Hi Chi là nằm ưỡn bụng trên tấm giường
bên Đông mà ăn bánh ngọt một cách tự nhiên,
như không hay biết ǵ, Khích Giám là người
giỏi bèn gả con cho Hi Chi (sau Hi Chi thành một
nhà văn, và chữ viết rất tốt, có
"thiếp Lan Đ́nh" cùng một số bút tích
lưu truyền đời sau). Do đó, người
ta gọi là con rễ "đông sàng".
58. Ngăi (nghĩa) tế: con rễ có nghĩa.
59. Nhạc gia: gia đ́nh bố mẹ vợ.
60. Đại khoa: đại đăng khoa là thi
đỗ. Tiểu khoa: đăng khoa là cưới
vợ (cưới vợ cũng là một việc
mừng như thi đỗ).
61.Trúc, mai: hai thứ cây quư về đức
tính, cốt cách thanh cao. ưnói: về sau kết
bạn cùng nhau rất tốt .
62. B́nh thủy hữu duyên: bèo nước có
duyên. nói: gặp gỡ nên duyên, trong sự bèo nước
t́nh cờ (như bèo trôi theo nước không định
chỗ nào), cũng như "B́nh thủy tương
phùng .
63. Kỳ: người lạ thường nói
tài giỏi .
64. Bạch Hàm: Yến Bạch Hạm (chữ
này chính âm là hạm tác giả đặt âm hàm
cho dễ đọc). Như Hoành (hành): Binh Như Hành.
Hai nhân vật nổi tài thi sĩ trong truyện
"B́nh Sơn Lănh Yến".
65. Đơn (đan)quế: cây quế đỏ
(da đỏ). Đậu Vũ Quân đời
Tống, có năm con đều thi đỗ
hiển đạt người ta khen là năm nhành
đan quế. Đây nói Vân Tiên và Tử Trực là
hai người con tài giỏi của hai nhà họ
Lục và họ Vương.
66. Lương đống: rường
cột. Nói người tài cao đức cả giúp
được việc nước.
67. én hộc: chim én và chim hộc (ngỗng
trời), én là loài chim nhỏ, bay thấp, hộc và
loài chim to, bay cao.
Đây là Tử Trực tự khiêm, nói ḿnh tài kém,
không sánh được với Vân Tiên là người
tài cao.
68. Trăng đă đứng đầu:
nửa đêm
69. Thư lầu: thư lâu, lầu đọc
sách
70. Lê đ́nh: sân có trồng cây lê
71. Tống t́nh: t́nh tiễn biệt
|