|
Câu 400 - 599
Thể Loan đứng trước lê
đ́nh liễm dung
Thưa rằng: Quân tử phó công
Xin thương bồ liễu chữ ṭng ngây
thơ
Tấm ḷng thương nhớ gió mưa
Đường xa ngàn dặm xin đưa một
lời
Ngày nay thánh chúa trị đời
Nguyền cho linh phụng gặp nơi ngô
đồng
Quản bao chút phận má hồng
Pḥng khuê ṿ vơ đợi trông khôn lường
Chàng dầu cung quế, xuyên dương
Thiếp xin hai chữ tào khương cho
bằng
Xin đừng tham đó bỏ đăng
Chơi lê quân lựu, chơi trăng quên đèn.
Tiên rằng: Như lửa mới nhen
Dễ trông một bếp mà chen mấy ḷ
May duyên rủi nợ dễ phô
Chớ nghi Ngô Khởi, hăy lo Măi Thần
Thể Loan vội vă lùi chân
Vân Tiên từ biệt trông chừng Trường
An
Xa xa vừa mấy dặm đường
Gặp Vương Tử Trực vầy đoàn
đều đi.
Trải qua thủy tú sơn kỳ
Phỉ ḷng cá nhảy gặp th́ rồng bay
Người hay lại gặp kiểng hay
Khác nào tiên tử chơi rầy Bồng Lai
Cùng nhau tả chút t́nh hoài
Năm ba chén rượu một vài câu thơ
Công danh ai chẳng ước mơ
Ba tầng cửa Vơ một giờ nhảy qua
Cùng nhau bàn bạc gần xa
Chữ tài chữ mệnh xưa ḥa ghét nhau
Trực rằng: Rồng xuống vực sâu
Mặc dầu giỡn sóng mặc dầu chơi
mây
Tiên rằng: Hồng hộc đều bay
E khi mỏi cánh lạc bầy về sau
Mảng c̣n tṛ chuyện với nhau
Trông chừng kinh địa đă hầu
tới nơi.
Chênh lệch vừa xé mặt trời
Hai người t́m quán nghỉ ngơi đợi
kỳ
Phút đầy gặp bạn cố tri
Đều bày tên họ một khi đăng tường.
Một người ở quận Phan-Dương
Tên Hâm họ Trịnh tầm thường nghề
văn
Một người ở phủ Dương-Xuân
Họ Bùi tên Kiệm tác chừng đôi mươi.
Hai người kại gặp hai người
Đều vào một quán vui cười ngả nghiêng,
Kiệm rằng: Nghe tiếng anh Tiên
Nay đà thấy mặt phỉ nguyền ước
ao.
Hâm rằng: Chưa biết thấp cao
Làm thơ mới rơ bậc nào tài năng
Bèn kêu ông quán nói rằng:
Khá toan sắm sửa đồ ăn cho bề
Quán rằng: Thịt cá ê hề
Khô lân, chả phụng bộn bề thiếu
đâu.
Ḱa là thuốc lá ướp ngâu
Trà ve tuyết điểm, rượu
bầu cúc hương
Để khi đăi khách giàu sang
Đăi người văn vật, đăi tranh anh hùng.
Bĩ bàng trà rượu đă xong
Bốn người ngồi lại một ṿng làm
thơ
Kiệm, Hâm c̣n hăy ngẩn ngơ
Phút thơ Tiên, Trực, một giờ đều
xong.
Kiệm, Hâm xem thấy lạ lùng
Gẫm nghi Tiên, Trực viết tùng cổ thi
Chẳng hay ông quán cười chi
Vỗ tay xuống chiếu một khi cười dài.
Tiên rằng: Ông quán cười ai?
Quán rằng: Cười kẻ bất tài đồ
thơ
Cười người Tôn Tẫn không
lừa
Trước đà thấy máy, chẳng ngừa Bàng
Quyên.
Trực rằng: Lời nói hữu duyên
Thế trông Kinh sử có tuyền cùng chăng?
Quán rằng: Kinh sử đă từng
Coi rồi lại khiến ḷng hằng xót xa
Hỏi thời ta phải nói ra
V́ chưng hay ghét cũng là hay thương
Tiên rằng: Trong đục chưa tường
Chẳng hay thương ghét ghét thương lẽ
nào?
Quán rằng: Ghét việc tầm phào
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.
Ghét đời Kiệt, Trụ, mê dâm
Để dân đến nỗi sa hầm sảy hang.
Ghét đời U, Lệ đa đoan
Khiến dân luống chịu lầm than muôn
phần.
Ghét đời Ngũ Bá phân vân
Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn
Ghét đời Thúc Quư phân băc
Sớm đầu, tối đánh, lằng
nhằng rối dân.
Thương là thương đức thánh nhân
Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuông
Thương thầy Nhan Tử dở dang
Ba mươi mốt tuổi, tách đàng công danh.
Thương ông Gia Cát tài lành
Gặp cơn Hán mạt đă đành phôi pha
Thương thầy Đổng Tử cao xa
Chí đà có chí, ngôi mà không ngôi
Thương người Nguyên lượng ngùi
ngùi
Lỡ bề giúp nước, lại lui về cày
Thương ông Hàn Dũ chẳng may
Sớm dâng lời biểu tối đầy đi
xa
Thương thầy Liêm, Lạc đă ra
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân
Xem qua kinh sử mấy lần
Nửa phần lại ghét nửa phần lại thương.
Trực rằng: Chùa rách phật vàng
Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân
Thương dân sao chẳng lập thân
Để khi nắng hạ toan phần làm ma
Quán rằng: Nghiêu Thuấn thủa xưa
Khó khăn Sào Phủ, khôn ngừa Hứa Do
Di, Tề chẳng khứng giúp Châu
Một ḿnh một núi ai hầu chi ai
Ông Y, ông Phó ôm tài
Kẻ cày người cuốc đoái hoài chi đâu
Thái Công xưa một cần câu
Hôm mai sông Vị mặc dầu vui chơi
Nghiêm Lăng đă mấy đua bơi
Cày mây cầu nguyệt tả tơi ao cầu
Trần Đoàn chẳng phút lo âu
Gió trăng một túi, công hầu chiêm bao
Người nay có khác xưa nào
Muốn ra ai cấm, muốn vào ai ngăn
Hâm rằng: Lăo quán nói nhăng
Dẫu cho trải việc cũng thằng bán cơm
Gối rơm theo phận gối rơm
Có đâu ở thảo mà chồm lên cao.
Quán rằng: Sấm chớp mưa rào
Ếnh nằm đáy giếng thấy bao năm
trời
Sông trong cá lội thảnh thơi
Xem hai con mắt sáng ngời như châu
Uổng thay đàn gảy tai trâu
Nước xao đầu vịt nghĩ lâu
nực cười.
Tiên rằng: Ông quán chớ cười
Đây là nhờ đặng bảy người Trước
lâm
Cùng nhau kết bạn đồng tâm
Khi cờ, khi rượu, khi cầm, khi thi
Công danh phú quư màng chi
Sao bằng thong thả thả mặc khi vui ḷng
Rừng như biển thánh mênh mông
540.Dễ ai lặn lội cho cùng vậy vay
Quán rằng: Đó biết ư đây
Lời kia đă cạn lời này thưởng cho.
Kiệm, Hân là đứa so đo
Thấy Tiên dường ấy thêm lo trong ḷng
Khoa này Tiên ắt đầu công
Hâm dầu có đậu cũng không ra ǵ.
Mảng c̣n bàn bạc thị phi
Xảy nghe trống điểm một khi nhập trường
Kẻ ḥm, người tráp đầy đường
Lao xao đoàn bảy, chàng ràng lũ ba.
Vân Tiên vừa bước chân ra
Bỗng đâu xẩy gặp tin nhà gửi thư
Khai phong mới tỏ sự cơ
Ḿnh gieo xuống đất dật dờ
hồn hoa.
Hai hàng lụy ngọc nhỏ sa
Trời Nam đất Bắc xót xa đoạn tràng
Anh em ai nấy đều thương
Trời ơi! Há nỡ lấp đường công
danh
Những lăm công toại thành danh
Nào hay từ mẫu u minh sớm rời
Gắng nào trong quán yên nơi
Tớ thầy than thở liệu lời qui lai
Tiểu đồng thở vắn than dài
Trời ơi trời nỡ phụ tài người
ngay
Trực rằng: Đă đến nỗi này
Tiểu đồng bậu hăy làm khuây chớ
phiền
Sớm hôm thang thuốc giữ ǵn
Chờ ta vài bữa ra tràng sẽ hay
Bây giờ kíp rước thợ may
Sắm đồ tang phục nội ngày cho xong
Dây rơm mũ bạc áo thùng
Cứ theo trong sách Văn công mà làm.
Tiên rằng; Con Bắc mẹ Nam
Nước non ṿi vọi đă cam lỗi ngh́
Trong ḿnh không cánh không vi
Lấy chi lướt dặm, lấy chi tách đàng
Nhập tràng phút lại gặp tang
Ngẩn ngơ người ở, ngỡ ngàng
kẻ đi.
Việc trong trời đất biết chi
Sao dời, vật đổi c̣n ǵ mà trông
Hai hàng lụy ngọc ṛng ṛng
Tưởng bao nhiêu lại đau ḷng bấy nhiêu
Cánh buồm bao quản gió xiêu
Ngàn trùng biển rộng, chín chiều ruột
đau.
Thương thay chín chữ cù lao
Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu t́nh
Quán rằng: Trời đất th́nh ĺnh
Gió mưa đâu phút găy nhành thiên hương
Ai ai trông thấy cũng thương
Lỡ bề báo hiếu, lỡ đường
lập thân
Dẫu cho chước quỷ mưu thần
Phong trần ai cũng phong trần như ai
Éo le ai khéo đặt bày
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Đường đi một tháng chẳng gần
Khi qua khi lại mấy lần xông pha
Xảy đâu bạn tác vừa ra
Trực cùng Hâm, Kiệm xúm cùng đưa Tiên.
Hâm rằng: Anh chớ ưu phiền
Chú thích:
1.Lê đ́nh: sân có trồng cây lê
2. Tống t́nh: t́nh tiễn biệt
3.Liễm dung: nghiêm chỉnh dáng điệu
để tỏ ḷng kính trọng
4.Phó công: đi công việc, nói đang
việc,
5.Bồ liễu: tức cây thủy dương,
nó thuộc giống dương liễu, nên gọi
là bồ liễu hay bồ dương (nhiều người
giải là cỏ bồ và cây liễu là sai),
thể chất yếu ớt, ngày xưa ví với
phụ nữ.
6.Linh phụng: chim phượng khôn thiêng
7.Ngô đồng: một loại cây cao lớn
đẹp đẽ, thuyết cao cổ, chim phượng
thường đậu cây này. "Phượng hoàng
đậu cây ngô đồng" tượng trưng
người tài giỏi ở một địa
vị xứng đáng. Đây Thể Loan mong Lục Vân
Tiên lập được công danh xứng
được với tài của ḿnh.
8.Cung quế: cung trăng. Người xưa
bảo trên cung trăng có cây đan quế (quế
đỏ), và thường ví sự khi thi đỗ
như bẻ quế cung trăng. Xuyên dương:
bắn thủng lá dương liễu. Dưỡng
Do Cơ người nước Sở (đời
Xuân Thu), bắn rất giỏi, từng đứng
xa trăm bước bắn vào lá cây dương
liễu (lá nhỏ lắm) trăm phát trúng cả
trăm. Tích Xuyên dương này thường mượn
dùng để chỉ sự thi đỗ, v́ người
học giỏi như người bắn giỏi
vậy.
9.Tào khương: là bă rượi và cám
gạo, thức ăn xấu, người nghèo thường
dùng. Tống Hoằng đời Đông Hán, làm
chức Đại Tư Không, là người có uy
đức trong đám quần thần, vua Quang Vũ
muốn ông bỏ vợ để lấy chị gái
ḿnh là Hồi Dương công chúa, ông trả
lời rằng: "Tào khang chi thê, bất khả
hạ dường" (người vợ đă cùng
ăn ở kham khổ với ḿnh, không thể
ruồng rẫy được). Câu nói này
được người sau truyền tụng và
nhân gọi vợ là người "tào khang"
10.Đó, đăng: hai dụng cụ là bằng
tre nứa để bắt cá
11.Nhen: nhóm
12.Phô: nói ra, bày ra. nói: may th́ gặp duyên,
rủi th́ gặp nợ, tức như làm hay th́
gặp hay, làm dở th́ gặp dở, lẽ đó
bày ra rành rày
13.Ngô Khởi: người nước Vệ,
giỏi binh pháp, khi nước Tề đánh nước
Lỗ, Lỗ muốn dùng Khởi là tướng quân
chống Tề, nhưng có ư nghi ngại, v́ Tề
là nước quê của vợ Khởi, Khởi
nghe biết, bèn giết chết vợ để
tỏ ḿnh không vị ǵ nước Tề. Người
thời ấy bảo Khởi "giết vợ
để cầu làm tướng" (sát thê
cầu tướng) thật là con người
phụ bạc tàn ác .
14.Măi Thần: họ Chu, người đời
Hán, nhà nghèo mà ham học, vừa đi kiếm
củi vừa đọc sách nghêu ngao ở dọc
đường, vợ lấy làm xấu hổ, và
cũng không kham nổi cảnh nghèo khổ của
Măi Thần, bỏ đi lấy người khác,
sau Măi Thần hiển đạt vợ lại xin
về, Măi Thần lấy bát nước đổ
xuống đất, bảo vợ hốt đầy
lại được th́ sẽ xum họp, vợ
hổ thẹn thắt cổ chết. Ư nói câu này:
chớ ngờ tôi như Ngô Khởi và nàng cũng
nên nghĩ đến việc vợ Măi Thần .
15.Trường An: tên kinh đô đời nhà
Hán, về sau kinh đô nói chung
16.Vầy đoàn: họp thành đoàn
17.Thủy tú sơn kỳ: nước đẹp,
núi lạ, nói cảnh đẹp.
18.Cá nhảy, rồng bay: cá vượt Vũ-Môn
hóa rồng. Rồng bay lên mây làm mưa làm gió.
Chỉ sự trổ tài đua sức người
thư sinh.
19.Tiên tử: người tiên.
20.Bồng Lai: chỗ tiên ở. Theo thần
thoại, ba ḥn núi ở ngoài bể Bột (bể
phía Đông) gọi là Bồng Lai. Phương-trượng
và Doanh-châu, có các tiên ở và nhiều thuốc trường
sinh bất tử.
21.T́nh hoài: t́nh và ḷng, cũng như nói tâm t́nh
(Hoài là cái ôm ấp ở trong ḷng, chữ này sóng
đôi với chữ t́nh, thuộc nghĩa danh
từ chứ không thuộc nghĩa động
từ).
22 Cửa Vơ: Vũ-môn, tức Long-môn, Long-môn
là hai nhỏm núi đá đứng sững hai bên
bờ trên một khúc sông Hoàng-Hà (Trung-Quốc), như
h́nh cái cửa, cửa này nguyên trước
chật hẹp, khi ông Hạ Vũ trị thủy có
đục phá cho rộng thêm ra, nên gọi là Vũ-Môn
(cửa ông Vũ). Sách Tam Tần-kư nói: Long-Môn là
nơi dữ sóng, cá khó vượt qua, nếu vượt
qua được th́ sẽ hóa rồng, Sách
Thủy-Kinh nói: tiết tháng ba, cá chép vượt
qua được Long Môn hóa rồng; người
đời Đường bảo những sĩ
tử thi đỗ là "nhảy qua Long-Môn".
Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí th́ nước
ta cũng có Vũ-Môn, ở dăy núi Khai-Trướng
(Giăng-Màn) thuộc huyện Hương-Khê,
tỉnh Hà-Tĩnh, là một ḍng suối ba bậc,
tương truyền: mỗi năm đến tháng
tư, mưa to, có nước nguồn th́ cá chép
ngược ḍng "vượt Vũ-Môn để
hóa rồng", ca dao đă nói: "Tháng ba cá
đi ăn thề, tháng tư cá về, cá vượt
Vũ-Môn". Truyền thuyết này rất phổ
biến trong văn thơ, cũng như trong dân gian
.
23.Tài, mệnh ghét nhau: thuyết cũ cho
rằng người có tài th́ không có phận.
24.Giỡn sóng, chơi mây: Nói con rồng khi
ở vực sâu th́ giỡn sóng, khi lên trời cao
th́ chơi mây, mặc sức vẫy vùng. Hai câu này
đại : dù hiển đạt ra giúp nước
hay chưa hiển đạt c̣n ở nhà, tùy hoàn
cảnh mà thi thố chí ḿnh, chỉ cần có tài,
bất chấp số mệnh (muốn phản
lại thuyết tài mệnh ghét nhau ở trên )
25.Hồng hộc: chim hồng, chim hộc,
tức là vịt trời và ngỗng trời,
loại chim bay xa và bay cao.
26.Kinh địa: đất kinh đô.
27.Cố tri: người bạn quen biết
đă lâu nay, bạn cũ. ở đây nói xa nhau lâu
ngày nên quên mặt .
28.Tác chừng: tuổi chừng.
29. Cho bề: cho nhiều, như nghĩa
"bề bộn". Bề bề: nhiều
lắm, tục ngữ: "Ruộng bề bề không
bằng nghề trong tay " .
30.Khô lân: nem làm bằng thịt con kỳ lân,
một loài thú tưởng tượng.
31.Ướp ngâu: ướp hoa ngâu, thứ
hoa bé nhỏ như hạt kê, màu vàng rất thơm.
32.Ve: b́nh nhỏ
33.Tuyết điểm: không rơ nghĩa. Có
lẽ chè có lấm tấm trắng, hoặc phơn
phớt màu trắng.
34.Cúc hương: hương thơm mùi cúc.
35.Văn vật: có học tức văn hóa,
hay có nhiều nhân tài và chế độ hay, như
nói: người văn vật, đất văn
vật.
36.Bĩ bàng: đầy đủ, sung túc
(tiếng miền Nam)
37.Viết tùng cổ thi: viết theo thơ
cổ. nói "cóp" của người xưa
cổ.
38.Đồ thư tức đồ thư: sách
vở câu này nói: con người chẳng có tài ǵ
về sách vở (chẳng biết sách vở ǵ
cả, vô học). Có người giải: Đồ
thơ tức đồ thi: bôi thơ, nói không
biết làm thơ, như người bôi vẽ ra
giấy, nhưng theo văm phạm chữ Hán, chưa
thấy lối đặt như thế .
39.Tôn Tẫn, Bàng Quyên: hai tướng tài
thời Chiến quốc. Hai người cùng
học Quỉ Cốc tử, kết nghĩa với
nhau, nhưng về sau Bàng Quyên làm tướng nước
Ngụy, lập mưu cắt xương đầu
gối của Tôn Tẫn (có sách chép là cắt chân).
Không lừa: không chọn lọc, nói không biết
chọn bạn. Trước đà thấy máy: máy
là máy trời; nói Quỉ Cốc tử đă
bảo trước Tôn Tẫn nên pḥng ngừa Bàng
Quyên, nhưng Tôn Tẫn vẫn hững hờ không
lưu , nên bị Bàng Quyên lừa hại. Hai câu này
nói: chơi bạn nên để ư tới t́nh
bạn, kẻo xảy ra ta nạn như việc Tôn
Tẫn, Bàng Quyên .
40.Tuyền: toàn: trọn vẹn. nói những
việc trong kinh sử, có hay có dở, không thể
nào toàn được .
41.Tầm phào: không có nghĩa lư, vu vơ, hăo
huyền, tiếng thường dùng ở miền
Nam .
42.Kiệt, Trụ: Vua Kiệt đời
Hạ, vua Trụ đời Thương. Hai vua tàn
ác có tiếng, bị nhân dân oán ghét mà mất ngôi.
Mê dâm: mê là trong ḷng mê ám, dâm là việc tà dâm (càn
bậy)
43.U, Lệ: U vương và Lệ vương
hai vua đời nhà Chu, làm nhiều việc bạo
ngược vô đạo.
44.Đa đoan: nhiều mối, lôi thôi,
nhiều việc.
45.Ngũ Bá: năm vua Bá. Cuối đời nhà
Chu (đời Xuân thu), năm vua chư hầu
mạnh lớn, tức Tề Hoàn công. Tấn Văn
công, Tống Tương công, Trần Mục công,
Sở Trang vương, kế tiếp nhau nổi lên
làm bá chủ nhất thời, gọi là "Ngũ
bá". Ngũ bá đều dựa trên uy lực,
giả dối nhân nghĩa, kéo bè nước này
đánh nước kia, gây chiến tranh hại dân.
46.Thúc quí: đời suy loạn nói chung. Bài
phú "Bạch lộc động" của Chu Hi
đời Tống, trong có chữ "Thúc qui",
tuy tác giả dùng chỉ chung đời suy
loạn, nhưng cái thời gian xảy ra mà tác
giả thuật đó, vẫn là thời gian "Ngũ
quí", vậy 'Thúc quí" cũng có thể
giải là đời suy loạn "Ngũ quí"
được "Ngũ quí" tức "Ngũ
đại", năm triều đại khởi lên
cuối đời Đường , hồi ấy nước
Trung-Quốc bị chia cắt nghiêng đổ (phân
băng), dân rất khổ v́ chiến tranh liên miên.
47.Đầu: đầu hàng
48.Đức thánh nhân: Tức Khổng Tử, ông
đi khắp các nước Tống, Vệ,
Trần, Khuông, để t́m cách đạo hành
của ḿnh mà không được.
49.Nhan Tử: tức Nhan Uyên, học tṛ
Khổng Tử thông minh và hiếu học, đức
hạnh vào bậc nhất, nhưng chết sớm,
năm chết mới 32 tuổi (đây nói 31
tuổi, có lẽ chép nhầm), thày và bạn
rất thương tiếc.
50.Gia Cát: chữ này chính âm là Chư Cát
(họ hai chữ), Chư Cát Lượng tên tự
Khổng Minh, người đời Tam quốc, có
tài chính trị, nhất là binh pháp làm quân sư
cho Lưu Bị, chỉ muốn khôi phục cơ
nghiệp nhà Hán, nhưng khi Khổng Minh chết, nước
vẫn c̣n bị chia ba.
51.Hán mạt: cuối đời Hán, tức
đời Tam quốc (Thục, Ngụy , Ngô, ba nước
phân tranh)
52.Đổng Tử: Đổng Trọng Thư,
một nhà đại nho đời Hán, có tài đức
hơn người vua Hán cử làm Giang Đô tướng,
nhưng rồi lại giáng chức và có lần
bị bắt giam, sau ông cáo quan về.
53.Nguyên Lượng: Đào Tiêm, tên tự là
Nguyên Lượng một nhà cao ẩn đời
Tấn. Trước có làm quan Lệnh (tri
huyện), huyện Bành Trạch, v́ không chịu
quỵ lụy quan trên, ông treo ấn bỏ quan
về ở ẩn, có làm bài thơ "Quy khứ
lai từ" (Về đi thôi) để tỏ chí
ḿnh.
54.Hàn Dũ: Người đời Đường,
đỗ tiến sĩ, làm đến chức
Lại Bộ Thị Lang. V́ làm biểu can vua Đường
đừng mê tín đạo Phật (vua rước
xương Phật vào trong cung để cúng
lễ), nên bị giáng chức và đầy đi
xa. Ông là người đạo đức văn
chương nổi tiếng, có nhiều tác
phẩm hay truyền lại, các học giả coi ông
như Thái Sơn (ngọn núi cao hơn các núi khác)
Bắc đẩu (cḥm sao sáng hơn các sao)
55.Liêm, lạc: Chu Đôn Di ở Liêm Khê và
học tṛ là hai anh em Trinh Hiệu, Trinh Di ở
Lạc Dương, ba người là nhà triết
học nổi tiếng đời Tống, có ra làm
quan nhưng không đắc dụng, lại trở
về dạy học.
56.Giáo dân: dạy dỗ chúng dân
57.Chùa rách Phật vàng: Tục ngữ "Chùa
đất phật vàng", chùa xấu mà bụng
tốt. nói nhân tài sinh ở chỗ nghèo hèn .
58.Kinh luân: khi làm tơ kéo từng mối ra mà
chia gọi là kinh, so các sợi mà hợp lại
gọi là luân; nghĩa bóng: sự sửa sang
xắp đặt khéo. Có tài kinh luân là có tài
tổ chức, tài trị nước.
59.Làm mưa: Kinh thư có câu: "Nhược
tuế đại hạn, dụng nhữ tác lâm vũ"
, nghĩa là như năm đại hạn, dùng người
là trận mưa rào, nói người hiền tài ra
cứu dân giúp nước, cũng như trận mưa
giải cơn hạn vậy. nói hai câu này: ông quán
thương dân khổ (nắng hạ) sao không ra giúp
dân (làm mưa) ?
60.Nghiêu, Thuấn: hai vua đời cổ
Trung-Quốc, có đức tính tốt chính hay, dân
nước được thái b́nh thịnh vượng,
làm tiêu biểu cho các vua hiền đời sau.
Thời ấy, Nghiêu, Thuấn đă có quan
niệm: nước là của chung nhân dân, và
trị nước phải người có tài đức,
nên đều không truyền ngôi cho con mà truyền
cho người hiền.
61.Sào phủ, Hứa Do: hai nhà hiền
triết thời vua Nghiêu, ở ẩn, cày ruộng
tự túc. Vua Nghiêu nhường ngôi cho Hứa Do.
Do không nhận trốn lên núi Cơ-Sơn. Sau vua
Nghiêu lại sai người đến mời ra làm
Cửu Châu Trưởng. Do không muốn nghe, cho
lời nói đó làm bẩn tai ḿnh, bèn xuống sông
Đĩnh-Thủy rửa tai. Vừa lúc ấy th́ Sào
Phủ cho trâu xuống uống nước, Hứa
Do kể chuyện cho bạn nghe, Sào Phủ liền
dắt trâu lên trên ḍng cho trâu uống, v́ sợ
uống nước ngay chỗ bẩn đó làm
bẩn miệng trâu. Câu này nói: giỏi như Nghiêu,
Thuấn thuở xưa cũng không thể đem
phu quí mà thay đổi hai nhà hiền triết.
62.Di Tề: Bá Di, Thúc Tề, hai con vua nước
Cô-Trúc, chư hầu nhà Thương. Bá Di là con
cả, Thúc Tề là con thứ ba, khi cha mất
dặn lập Thúc Tề lên ngôi, nhưng Thúc
Tề nhường ngôi Bá Di, v́ Bá Di là trưởng.
Bá Di không nghe, bảo phải theo mệnh cha,
rồi bỏ trốn đi. Thúc Tề cũng không
nhận ngôi mà bỏ đi, người trong nước
lập con trai thứ hai làm vua. Khi Vũ Vương
đánh Trụ (vua nhà Thương), Di, Tề
dằng cương ngựa mà can ngăn, bảo tôi
đánh vua là lỗi đạo (Vũ Vương là
chư hầu, Trụ là thiên tử). Sau Vũ Vương
thắng được Trụ, diệt nhà Thương
lập nên nhà Chu. Di, Tề không thèm ăn gạo
thóc của nhà Chu, lên ẩn núi Thủ-Dương,
kiếm rau vi mà ăn, rồi chết đói ở
đó.
63. Châu (nhà Chu): chữ này thường đọc
là Chu, nhưng chính âm là Châu, và chữ Do (Hứa
Do) ở câu trên cũng chính là âm Dâu, vậy
cả hai chữ đều nên đọc là theo âm
chính cho có vần.
64.Ai hầu chi ai: nói khổ.Ai hầu chi ai:
65.Y, phó: Y Doăn và Phó Duyệt, hai nhà hiền tướng
đời Thương, trước đều ôm tài
đi ở ẩn. Y Doăn cày ruộng kiếm ăn,
vua Thang ba lần mời ra làm tướng, măi ông
mới chịu ra, giúp Thang gây dựng cơ
nghiệp nhà Thương. Phó Duyệt là nghề
đắp tường thuê, vua Cao Tông nhà Ân
(tức nhà Thương) sai người đi
cầu về, lập làm tướng, có chính
sự hay, nước trị dân yên.
66. Thái Công: ông chính họ Khương, tên Thượng,
tên tự là Tử Nha, tổ tiên đời trước
có công được phong đất Lă, nên theo
đất phong cũng gọi là Lă Thượng.
Bậc đại hiền tài cuối đời Thương,
tuổi đă hơn tám mươi, thường
ngồi câu cá trên sông Vị. Văn Vương
(tổ nhà Chu) đi săn, gặp ông, rước
về, nói: "Ngô Thái Công vọng tử cửu hĩ",
nghĩa là cha tôi mong ông đă lâu (trước cha
Văn Vương thường mong có bậc thánh
nhân đến giúp nhà Chu, nay được Thái Công,
quả như điều mong muốn đó), nhân
gọi ông là Thái Công Vọng (sau chuyển ra Lă
Vọng), rồi lập làm Quân Sư, tôn làm Thái Công
(cha), làm Thượng Phụ (người kính
trọng ngang với cha). Thái Công đă giúp Văn
Vương và con là Vũ Vương lập nên
nghiệp lớn nhà Chu.
67.Nghiêm Lăng: Nghiêm Quang, tên tử là Tử
Lăng, một ẩn sĩ đời Hán, bạn
thân với Lưu Tú (ḍng dơi vua Hán), Khi Tú dẹp
được loạn Vương Măng (Măng cướp
ngôi nhà Hán), lên làm vua tức là Quang Vũ, Tử
Lăng đổi họ tên đi ẩn náu, Quang Vũ
sai người t́m kiếm măi mới thấy ông
mặc áo cừu ngồi câu cá trên một cái
đầm ở nước Tề. Quang Vũ
mời ra làm quan, mấy lần Tử Lăng đều
kiên quyết từ chối. Sau cùng, Quang Vũ
khẩn khoản măi, Tử Lăng có ra chuyện tṛ
với Quang Vũ mấy ngày (Tử Lăng nằm
cùng giường với vua, gác chân lên bụng vua)
rồi lại về, trọn đời cày
ruộng nơi Phú Xuân và câu cá ở bến sông
Đồng-Giang gần bên núi. Đă mấy đua bơi:
ư nói đă bao lâu vẫy vùng nơi sông núi ḿnh
ở .
68.Cày mây câu nguyệt: cày trong mây (trong núi), câu
dưới trăng. Nói cày ruộng câu cá với
cảnh mây trăng thanh cao ẩn dật. -Tả
tơ áo cầu: cầu (chữ này ta thường
đọc là "cừu", nhưng chính âm là
"cầu") là áo làm bằng da thú (như dê,
cừu, cáo...). nói Tử Lăng ngồi câu lâu năm,
áo cừu đă rách náo...).
69.Trần Đoàn: tên tư là Đồ Nam,
hiệu Hi Di, người đời Tống, ẩn
núi Hoa-Sơn, tinh môn học Dịch, tài đoán
số mệnh, tu luyện đạo tiên, không
ăn cơm gạo, giấc ngủ thường trăm
ngày chưa dậy. Vua Thái Tông nhà Tống mấy
lần mời ra làm quan, Trần Đoàn không nhận,
có bài tạ biểu lời lẻ rất kiên
quyết.
70.Công hầu chiêm bao: coi chừng công hầu
như giấc chiêm bao.
71.Ra vào: ra giúp nước hay đi ở
ẩn.
72.Ếch nắm dưới đáy giếng
thấy bao lăm trời: do chữ Hán "tỉnh
đế oa": ếch đáy giếng, và
"tọa tỉnh quan thiên": ngồi trong
giếng xem trời, dùng chỉ những người
kiến thức nhỏ hẹp. Hai câu này nói:
Trịnh Hâm là kẻ kiến thức hẹp ḥi, như
ếch ngồi đáy giếng, chỉ trông
thấy một khoảng trời nhỏ bé, c̣n
biết ǵ đến những trạng thái biến
động, sấm chớp mưa rào trên cái
bầu trời bao la rộng lớn kia .
73.Xem hai con mắt sáng ngời như châu:
mắt chỉ mắt cá, châu là ngọc châu
(ngọc trai), do câu chữ Hán "ngu mục
hỗn châu" : mắt cá lẫn ngọc châu (cái
giả tráo lộn với cái thực). Hai câu này
đại ư : người ở đời, tốt
xấu hay dở, thường mập mờ hay
lừa dối, cũng như cá lội trong nước,
hai mắt trông sáng như ngọc châu, nó chỉ là
cái mắt cá đó thôi. Đây chỉ Kiệm, Hâm
bề ngoài coi như vẻ người ăn
học, thế mà lại là kẻ dốt nát ngu
ngốc .
74.Đàn gảy tai trâu, nước xao đầu
vịt: do hai câu tục ngữ (xao là dội), ư
nói: người ngu dốt không hiểu lời nói
hay, như trâu không biết nghe đàn; người
ngoan cố không thu lẽ phải, như đầu
vịt truội lông không thấm được nước
.
75.Trước lâm: rừng trúc. Do điển
cũ: "Trúc lâm thất hiền": bảy người
hiền ở rừng trúc, tức Kê Khang, Nguyễn
Tịch, Nguyễn Hàm, Sơn Đào, Hướng Tú, Vương
Nhung, Lưu Linh) (cùng người đời
Tấn). Bảy ông này tính t́nh phóng đạt, thường
họp nhau chơi bời ở rừng trúc, đàm
luận học thuyết Lăo, Trang, uồng rượu
quên đời. Đây nói ông quán cũng là hạng
người ẩn dật như bảy ông Trúc lâm.
76.Khi cầm khi thi: cầm là đàn, thi là thơ.
77.Rừng nhu: rừng nho (chữ "nho" chính
là âm "nhu"). Rừng nho biển thánh: nói
đạo học cao rộng như Khổng tử.
78.So đo: tâm địa chật hẹp, tén mén.
79.Đầu công: thành công bực nhất.
80.Thị phi: những lời phải trái trong
khi bàn luận.
81.Chàng ràng: dàng dênh, dênh dang.
82.Khai phong: mở thứ ǵ bọc kín. ở
đây là mở thư.
83.Dật dờ: tâm hồn bị xúc động
mạnh nên chập chờn như nửa tỉnh
nửa mê.
84.Đoạn tràng: đứt ruột
85.Công toại danh thành: toại là nên, cũng
như nghĩa chữ thành. nói vừa nên sự
nghiệp vừa có danh vọng .
86.U minh: tối tăm (minh: mờ), đây
chỉ cơi chết.
87.Qui lai: Trở lại, quay về.
99. Dây lưng: bằng rơm. Mũ bạc: mũ
trắng. áo thùng: áo thụng, áo tộng tay.
88.Sách Văn Công: sách Gia Lễ của Chu Văn
Công tức Chu Hy đời Tống, dạy lễ
nghi về tang chế, cưới xin v.v...
89.Không cánh không vi: nói ḿnh không mọc
được cánh như chim, mọc được
vi (vẩy) như cá để bay thẳng hay bơi
thẳng về nhà một mạch cho nhanh chóng
90.Sao dời, vật đổi: do câu chữ Hán
"vật hoán di tinh": vật đổi sao
dời, nói cảnh đổi thay, thời tiết
cũng chuyển dời ("sao" là chỉ
thời tiết, người xưa thường tính
thời tiết theo cái ṿng chuyển vần của
28 v́ sao trên trời). Một thành ngữ chỉ
sự biến đổi nói chung.
91.Chín chiều ruột đau: do câu văn
của Tư-Mă Thiên: "Trường nhất
nhật nhi cửu hồi": ruột quặn chín
trong ṿng một ngày, nói người ta mỗi khi có
sự đau thương, ruột thường
bị quặn lại nhiều ṿng (chín ṿng chỉ
là nói nhiều ṿng thôi). Câu "Quặn đau chín
khúc" ở phần dưới đây (câu 1-182)
cũng nghĩa là quặn đau chín ṿng chứ không
phải chín đoạn ruột.
92.Chín chữ cù lao (cửu tự cù lao):
tức chín chữ: sinh (sinh đẻ ra), cúc (nuôi
nấng nói chung), phủ (vỗ về, vuốt ve),
xúc (giữ ǵn, xem xét), trưởng (chăm nuôi
cho lớn), dục (dây dỗ cho nên người),
cố (quay lại nh́n con, quyến luyến mỗi
khi đi ra), phục (đi ra rồi lại trở
lại, quấn quít không nỡ rời bỏ), phúc
(bế ẵm, ấp ủ) ở thơ Lục-Nga
Kinh Thi nói chín cái công lao khó nhọc của cha
mẹ nuôi con.
93.Ba năm nhũ bộ (tam thiên nhũ bộ):
ba năm bú mớm (cho bú sữa, mớm cơm)
94.Thiên hương: hương trời.
"Thiên hương" và "quốc
sắc" là những danh từ dùng để
chỉ người đàn bà có tài sắc, ở
đây không rơ nghĩa, có lẽ tác giả định
nói mẹ hiền của Lục Vân Tiên.
95.Phong trần: gió bụi, chỉ sự gian
khổ ở đời.
96.Bạn tác: bạn cùng lứa cùng tuổi.
|