|
Câu 600 - 799
Khoa này chẳng gặp ta nguyền khoa
sau
Thấy nhau khó nỗi giúp nhau
Một vừng mây bạc, dàu dàu khá thương
Vân Tiên cất gánh lên đường
Trịnh Hâm ngó lại đôi hàng lụy sa.
Đi vừa một dặm xa xa
Phút đâu ông quán bôn ba theo cùng
Quán rằng: Thương đấng anh hùng
Đưa ba hườn thuốc để pḥng hộ
thân
Chẳng may gặp lúc gian truân
Đương đi quá đói thuốc thần cũng
no
Tiên rằng: Cúi đợi ơn trên
Tấm ḷng ngài ngại hăy lo xa gần
Ta ? ? cũng bâng khuâng
Thấy vầy nên mới tị trần đến
đây
Non xanh nước bích vui vầy
Khi đêm rượu cúc, khi ngày trà lan
Dấn thân vào chốn an nhàn
Thoát ṿng danh lợi, lánh đàng thị phi
Nói rồi quày quả ra đi
Vân Tiên xem thấy càng nghi trong ḷng
Trông chừng dặm cũ thẳng xông
Nghĩ đ̣i cơn lại năo nùng đ̣i cơn
Nên hư chút phận chi sờn
Nhớ câu dưỡng dục, lo ơn sinh thành
Mang câu bất hiếu đă đành
Nghĩ ḿnh mà thẹn cho ḿnh làm con
Trọn đời một tấm ḷng son
Chí lăm trả nợ nước non cho rồi
Nào hay nước chảy hoa trôi
Nào hay phận bạc như vôi thế này
Một ḿnh ngơ ngẩn đường mây
Khác nào chiếc nhạn lạc bầy kêu sương
Đến nay lâm việc mới tường
Hèn chi thày dạy khoa trường c̣n xa
Tiểu đồng thấy vậy thưa qua
Gẫm đây chi đến quê nhà c̣n lâu
Thầy sao chẳng ngớt cơn sầu
Ḿnh đă đi mỏi, ḍng châu thêm nhuần
E khi mang bệnh nửa chừng
Trong non khó liệu, giữa rừng khôn toan.
Tiên rằng: Khô héo lá gan
Ôi thôi con mắt đă mang lấy sầu
Mịt mù nào thấy chi đâu
Chân đi đă mỏi, ḿnh đau như dần
Có thân phải khổ v́ thân
Than ôi! Thân biết mấy lần chẳng may.
Đồng rằng: Trời đất có hay
Ra đi chưa đặng mấy ngày lại đau
Một ḿnh nhắm trước xem sau
650.Xanh xanh bờ cơi, dàu dàu cỏ cây
Vốn không làng xóm chi đây
Xin lần tới đó t́m thấy thuốc thang.
Vừa may gặp khách qua đàng
Người người đều chỉ vào làng Đồng
Văn
Dắt nhau khi ấy hỏi phăng
Gặp thầy làm thuốc hiệu rằng Thầy
Ngang
Ngang rằng: Khá tạm nghỉ an
Rạng ngày coi mạch đầu thang mới
đành
Gặp ta bệnh ấy ắt lành
Bạc tiền trong gói sẵn dàng bao nhiêu?
Đồng rằng: Tiền bạc chẳng nhiều:
Xin thầy nghĩ lượng đặng điều
thuốc thang,
May mà bệnh ấy đặng an
Bạc c̣n hai lượng trao sang cho thày
Ngang rằng: Ta ở chốn này
Ba đời nối nghiệp làm thày vừa ba
Sách chi cũng đũ trong nhà
Nội kinh đă sẵn, ngoại khoa thêm
mầu
Trước xem Y học làm đầu
Sau coi Thọ thế, thứ cầu Đông y
Gẫm trong Ngân hải tinh vi
Cùng là Cang Mục, thua ǵ Thanh Nang
Gẫm trong Tập nghiệm lương phang
Cùng là Ngự toản trải đàng Hồi
xuân
Vị chi sẵn đặt quân thân
Thuốc thời bào chế mười phần nỏ
nan
Mạch thời đọc phú Lư san
Đặt vào tay bệnh đàng tử sinh.
Lục quân, tứ vật thanh danh
Thập toàn, bát vị, sẵn dành nội thương
Lại thông bát trận tân phương
Lâm nhằm ngoại cảm đầu thang ngũ
sài
Đồng rằng: Thầy thiệt có tài
Xin vào coi mạch luật bài thuốc chi.
Ngang rằng: Lục bộ đều suy
Bộ quan bên tả, mạch đi phù
hồng
Cứ trong Kinh lạc mà thông
Mạng môn tướng hỏa đă xông lên
đầu
Tam tiêu, tích nguyệt đă lâu
Muốn cho giáng hỏa phải đầu tư
âm
Huỳnh liên, Huỳnh bá, Huỳnh cầm
Gia vào cho bội nhiệt tâm mới b́nh
Ngoài thời cho điểm vạn linh
Trong thời cho uống hoàn t́nh mới xong
Khá trao hai lượng vàng ṛng
Bổ thêm vị thuốc để pḥng đầu
thang
Chẳng qua làm phúc cho chàng
Nào ai đ̣i cuộc, đ̣i đàn chi ai
Tiểu đồng những ngỡ thiệt tài
Vội vàng mở gói, chẳng nài tiền trao
Mười ngày chẳng bớt chút nào
Thêm đau trong dạ như bào như xoi
Đồng rằng: Vào đó thầy coi
Bệnh thời không giảm thầy đ̣i
tiền thêm.
Ngang rằng: Nằm thấy khi đêm
Tiên sư mách bảo một điềm chiêm bao
Quỉ thần người ở trên cao
E khi đường sá lẽ nào biết đâu
Tiểu đồng ngươi khá qua cầu
Cùng ông thày bói ở đầu Tây Viên
Tiạu đồng nghe nói đi liền
Gặp ông thầy bói đặt tiền mà coi
Bói rằng: Ta bói hẳn hoi
Bói hay đă dậy, ngươi coi đă
đầy
Ta đây nào phải các thày
Bá vơ, bá vất, nói nhây không nhằm
Ôn nhuần Châu Diệc mấy năm
Sáu mươi bốn quẻ, ba trăm dư hào
Huỳnh kim, Dă hạc sách cao
Lục nhâm, Lục giáp chỗ nào chẳng hay
Can chi đều ở trong tay
Đă thông trời đất, lại hay việc người
Đặt tiền quan mốt bốn mươi
Khay trầu, chén rượu cho tươi mới thành
Thày bèn gieo quẻ đặng linh
Chiêm tên tuổi ấy lộ tŕnh
mắc chi
Ứng vào rùa với cỏ thi
Rồi thày coi quẻ một khi mới tường
Đồng rằng: Người ở Đông phương
Nhân đi buôn bán giữa đường chẳng
an.
Con nhà họ Lục là chàng
Tuổi vừa hai tám, c̣n đàng thơ ngây.
Bói rằng: Đinh Măo năm nay
Hàn chi Giáp tí ngày rầy chẳng an
Mạng kim lại ở cung càn
Tuổi này là tuổi giàu sang trên đời
Cầu tài quẻ ấy xa vời
Khen người khéo nói những lời phỉnh
ta
Cầm tiền gieo xuống xem qua
Một giao, hai sách, lại ba Hào trùng
Trang thành là quẻ lục xung
Thấy hào phụ mẫu khắc cùng tử
tôn
Hóa ra làm kẻ du hồn
Lại thêm thế động khắc dồn
hào quan
Cứ trông quẻ ấy mà bàn
Tuổi này mới chịu mẫu tang trong ḿnh
Xui nên phát bịnh th́nh ĺnh
V́ chưng ma quỉ lộ tŕnh rất thiêng
Muốn cho bệnh ấy đặng yên
Phải t́m thày Pháp chữa chuyên ít ngày
Đồng rằng: Pháp ở đâu đây
Bói rằng: Cũng ở chốn này bước ra.
Pháp hay dậy tiếng đồn xa
Tên là Đạo sĩ ở Trà Hương thôn
Tiểu đồng mới chạy bôn bôn
Hỏi thăm đạo sĩ Hương thôn
chốn nào
Chợ đông buôn bán lao xao
Người ta chỉ vào nhà ở chẳng xa,
Đồng đi một buổi tới nhà
Đạo sĩ xem thấy, ḷng mà mừng thay
Đồng rằng: Nghe tiếng thày đây
Trừ ma, ếm quỉ, phép thày rất hay
Pháp rằng: ấn đă cao tay
Lại thêm phù chú xưa nay ai b́
Qua sông cá thấy xếp vi
Vào rừng cọp thấy phải quỳ lạy
đưa
Pháp hay gió hú kêu mưa
Sai chim, khiến vượn, đuổi lừa,
vật trâu
Pháp hay miệng niệm một câu
Tóm thâu muôn vật vào bầu hồ linh
Phép hay sái đậu thành binh
Bện h́nh làm tướng phá thành Diêm Vương
Phép hay đạo hỏa phó thang
Ngồi gươm , đứng giáo khai đàng
thiên hoang
Có ba lượng bạc trao sang
Đặng thày sắm sửa lập chữa cho
Đồng rằng: Tôi chẳng so đo
Khuyên thày ra sức chớ lo kho giàu
Bấy lâu thày tớ theo nhau
Bạc dành hai lượng pḥng sau đi đàng
Chữa chuyên bệnh ấy đặng an
Rồi tôi sẽ lấy đem sang cho thầy
Pháp rằng: Về lấy sang đây
Cho thầy toan liệu lập đàn bày ra
Đồng rằng: Tôi đă lo xa
Cực v́ người bệnh ở nhà chẳng yên
Xin thày gắng sức chịu phiền
Ra công bùa chú chữa chuyên cách nào,
Pháp rằng: Có khó chi sao
Người nằm ta chữa rồi trao phù về
Đồng rằng: Tôi vốn thằng hề
Bệnh chi mà khiến chịu bề chữa chuyên?
Pháp rằng: Ta biết kinh quyền
Đau Nam chữa Bắc mà thuyên mới tài
Tiểu đồng nghe lọt vào tai
Ḷng mừng vội vă nằm dài chữa chuyên
Pháp bàn cất tiếng hét lên
Mời ông Bàn cổ tọa tiền chứng
miêng
Thỉnh ông Đại thánh Tề thiên
Chú thích:
1. Mây bạc: Định Nhân Kiệt đời
Đường, khi đi làm quan xa, thường hay
nhớ cha mẹ, một hôm lên núi Thái-Hàng trông
về quê hương, thấy đám mây trắng
bay lững lờ, ông bùi ngùi nói: "Nhà cha mẹ
ta ở dưới đám mây kia". Do đó, danh
từ "mây bạc". Do đó, danh từ
"mây bạc" (mây trắng) được dùng
để chỉ sự mong nhớ cha mẹ.
3. Bôn ba: nghĩa chính: làn sóng chảy mạnh
(chảy xiết); nghĩa bóng: chạy đuổi
theo vất vả làm một việc ǵ hoặc có
cầu cạnh điều ǵ
4. Câu này: nói ḷng này c̣n lo ngại, chưa
biết việc biến đổi như thế nào
.
5. Tị trần: tránh bụi, tức tránh
cuộc đời huyên náo, xấu xa.
6.Thị phi: phải trái, lời khen chê.
7. Quầy quả: vội vă.
8. Dưỡng dục sinh thành: công cha mẹ
sinh ra, nuôi lớn, dạy dỗ nên người.
9. Phận bạc: Phận mỏng. Tiếng
bạc ở đây không phải là trắng nhưng
khi dùng tiếng này th́ liên tưởng đến
bạc là trắng nên đem ví với vôi.
Truyện Kiều: "Phận sao bạc như vôi".
10. Đường mây: con đường ở
trên mây, tức đường công danh (được
lên địa vị cao, nên gọi là mây).
11. Lâm việc: tới khi vó việc (lâm là
tới)
12. Thêm nhuần: ướt thêm. Nói ḿnh đă
mỏi mệt mà lại thêm khóc măi.
13. Đă lấy mang sầu: nói mắt đă
bị bệnh.
14. Đồng Văn: ở tỉnh Biên-Ḥa,
huyện Phước-Chánh xưa có cái chợ Đồng-Văn.
15.Đầu thang: cho uống thuốc.
16.Điều:
1)điều ḥa: dùng thuốc thang được
đúng mức đúng phép.
2) điều trị: dùng thuốc thang để
chữa trị bệnh (điều trị bằng
thuốc thang). Hai nghĩa cùng được
cả.
17. Nội kinh: một pho sách thuốc cổ
nhất, dạy về nguyên lư căn bản và phép
châm cứu của Đông y .
18. Ngoại khoa: những sách thuốc dạy
chữa các bệnh ở thân thể bên ngoài.
19. Y học: tức Y học nhập môn, sách
thuốc của Ly Duyên đời Minh, những người
làm thuốc nước ta trước đây, thường
bắt đầu đọc sách này trước.
20.Thọ Thế: Thọ Thế Bảo Nguyên,
sách thuốc của Cung Đ́nh Hiển đời
Minh.
21. Đông y: Đông y bảo giám, do Hứa Tuấn
nước Triều Tiên thâu thái những lư
luận và phương pháp của các sách thuốc
Trung quốc mà soạn ra .
22. Ngân hải tinh vi: tên một sách thuốc nói
về chữa bệnh đau mắt của Tôn
Tử Mạc đời Đường. Ngân hải:
bể bạc, tức là con mắt.
23. Cang mục: tức Bản thảo cương
mục của Lư Th́ Trân đời Minh, sách nói
về tính chất các vị thuốc (dược tính)
.
24.Thanh nang: túi xanh. Hoa Đà đời Hán, có pho
sách ghi chép những bí quyết chữa bệnh, thường
đựng trong túi xanh, nên gọi là Thanh nang, nhưng
sách này khi Hoa Đà bị Tào Tháo giết, vợ Đà
ở nhà tức giận, đă đem đốt
đi mất.
25.Tập nghiệm lương phan: sách tập
hợp lại những phương thuốc hay
đă kinh nghiệm
26.Ngự toản, Hồi xuân:
- Ngự toản: tức sách Ngự toản y
tông kim giám đời Kiển long nhà Thanh, do ṭa Thái
y viện phụng mệnh vua thâu thái các sách
thuốc cổ kim và sưu tầm các sách cùng phương
thuốc bí truyền của dân gian mà soạn nên
(Ngự toản: vua làm, sách này không phải vua làm,
nhưng theo lối phong kiến, để tên sách
như thế, để tôn sùng và qui công cho vua).
- Hồi xuân: Vạn bệnh hồi xuân, sách
thuốc của Cung Đ́nh Hiển đời Minh, cũng
như Thọ thế bảo nguyên.
27.Vị: vị thuốc.
28. Quân thần: vua tôi. Các vị thuốc theo
tính chất và công dụng của nó, chia ra vị
và vua, vị là tôi, vị là người giúp
việc, vị là người liên lạc (quân,thần,
tá, sứ), một đơn thuốc cũng như
một tập thể, phải đủ thành
phần mới có công dụng.
29. Nỏ nan (nang): nói thuốc khô, không ẩm
ướt.
30. Lư san: bài phú Lư san nói về phép xem
mạch (Lư san mạch phú).
31. Lục quân, tứ vật: hai bài thuốc căn
bản để chữa khí và huyết. Thanh
danh: tên bài thuốc.
32.Thập toàn, bát vị: hai bài thuốc
bổ căn bản để chữa bệnh
nội thương, nghĩa là bổ tạng
phủ suy yếu.
33. Bát trận tân phương: Trương
Giới Tân hiệu Cảnh Nhạc, một danh y
đời Minh, có lập ra các phương
thuốc mới, chia là tám loại đội ngũ,
gọi là "Tân phương bát trận" (tám
trận phương mới). Chữ bát trận này
có nhắc lại "Bát trận đồ"
của Khổng Minh. Tác giả cho việc dùng
thuốc chữa bệnh cũng như dùng binh đánh
giặc .
34. Ngoại cảm: mắc bệnh v́ khí
hậu thời tiết ở ngoài, như gió, mưa,
nóng, lạnh, ẩm thấp. Lúc mới lâm
bệnh, nên cho uống thang "ngũ sài"
một thang thuốc trong Tân phương bát
trận có vị 'sát hồ" giải cảm.
35. Lục bộ: sáu bộ mạch. Đông y nghe
mạch ở chỗ cổ tay, chia bên trái và bên
phải, mỗi bên có ba bộ "thốn",
"quan", "xích", hai bên thành sáu bộ.
36. Bộ quan bên tả: có mạch gan, mật.
37. Phù hồng: mạch đi nổi và bốc
lên.
38. Kinh lạc: các đường truyền
dẫn khí huyết trong thân người, đường
dọc là kinh, đường ngang là lạc.
39. Mạng môn tướng hỏa: theo
thuyết Đông y thời trước, mạng môn là
một điểm ở giữa hai quả thận,
cấp dương khi (ôn độ) cho người
cả.
40.Tam tiêu: thượng tiêu ở khoảng
bụng trên, chủ về phổi, tim; trung tiêu
ở khoảng bụng giữa, chủ về t́,
vị; hạ tiêu ở khoảng bụng dưới,
chủ về gan, thận. Thích nhiệt: chứa
chất khí nóng.
41. Giáng hỏa: dẹp hỏa (khí nóng)
xuống. Tư âm: làm cho âm (như các chất nước,
huyết, tân dịch...) sinh ra nhiều. Cổ phương
có bài "tư âm giang hóa" làm cho âm sinh
nhiều để dẹp hỏa xuống.
42. Huỳnh liên, huỳnh bá, huỳnh cầm:
ba vị thuốc mát để chữa nóng. Nói
phải dùng gấp bội ba vị này để
chữa nóng.
43. Vạn linh, hoàn tinh: hai phương
thuốc chữa đau mắt: vạn linh để
điểm vào mắt, hoàn t́nh để uống
cho sáng mắt.
44.Đàn: đặt đàn cho thầy thuốc:
chủ bệnh đưa trước một số
tiền, thầy thuốc cam đoan sẽ hoàn
lại nếu không chữa lành. Đ̣i cuộc đ̣i
đàn: đ̣i chủ bệnh phải đặt
cuộc đàn với thầy.
45.Thật tài: gốc chữ Hán, có nghĩa là
thực tài, có tài thực sự.
46.Cầu: nhờ làm một việc ǵ đó.
Qua cầu: đến nhờ giúp việc.
47.Bói hay đă dậy: dậy là nổi
tiếng.
48.Nói nhây: nói dai dẳng, nói dai như đỉa,
như rẻ rách.
49.Ôn nhuần: xem đi xem lại cho thấm.
Châu Diệc: Chu Dịch đọc chệnh. Kinh
dịch đời nhà Chu, sách triết học
rất cổ của Trung Quốc. Sách có tám
quẻ chính (bát quái), mỗi quẻ nguyên có ba hào
(ba vạch), sau chồng lên thành sáu hào. Tám quẻ
có sáu hào này, lại giao đổi với nhau, thành
64 quẻ, 384 hào. Thể hiện sự biến
chuyển của vũ trụ và xă hội loài người.
50.Huỳnh kim, Dă hạc: hai sách nói về
thuật bói toán.
51.Lục nhâm, Lục giáp: hai môn thuật
số bói toán. Lục nhâm có sách "Lục nhâm
đại toàn" nói về cách xem "nhâm".
Lục giáp có sách "Kỳ môn độn giáp"
nói về cách xem "độn".
52.Can, chi: can là thập can (mười can),
tức: giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ,
canh, tân, nhâm, quí; chi là thập nhị chi (mười
hai chi), tức: tí, sửu, dần, măo, th́n, tị,
ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi. Thập
can là mười dấu hiệu thuộc về
trời (thiên can) hợp với thập nhị chi là
mười dấu hiệu thuộc về đất
(địa chi) để chỉ ngày giờ tháng năm.
Ví dụ năm giáp tí, năm đầu tiên
của can chi, rồi lại đến ất
sửu... cứ như thế luân chuyển trong 60 năm
lại quay trở lại. Can chi c̣n phối hợp
với "ngũ hành": thủy, hỏa,
thổ, mộc, kim, theo tính chất của nó. Đây
nói: trong tay nắm vững qui luật can chi, tính toán
được ngày giờ và ngũ hành sinh
khắc, nên việc trời đất, việc người
đều tỏ cả.
53.Chiêm: bói xem.
54.Lộ tŕnh: khoảng đường đi;
trong lúc đi đường.
55.Rùa, thi: mai rùa và cỏ thi, hai thứ dùng
để bói toán.
56.Đinh Măo: năm vận hạn của Vân Tiên,
gặp ngày Giáp tư là ngày xung nên mắc bệnh
(nguyên tắc về bói toán ) .
57.Mạng kim: bản mệnh thuộc kim (vàng),
một trong ngũ hành. Cung càn (kiền, cung
thuộc quẻ (kiền, khảm, cấn, chấn,
tốn, li, khôn, đoái), thuộc về kim.
Mệnh kim ở cung là đắc địa (ở
được chỗ hay), nên số sẽ giàu
sang.
58.Cầu tài quẻ ấy xa vời: nói
quẻ này không phải ứng vào người
đi buôn bán (cầu tài).
59.Phỉnh : lừa dối. (theo nghĩa
miền Nam)
60.Giao, sách, trùng: cách bói Dă-bạc (bói
Dịch), cầm ba đồng tiền gieo xuống
cái đĩa, một đồng sấp là "sách",
ba đồng sấp là "trùng", ba đồng
cùng ngửa là "giao". Mỗi lần gieo
tiền sấp ngửa như thế, ghi làm một
hào, gieo đủ sáu lần là sáu hào thành một
quẻ, sẽ theo tính chất mỗi hào trong
một quẻ mà đoán sự việc. Quẻ bói
ở đây, lần thứ nhất gieo được
hào giao (ba ngửa), lần thứ hai hào sách,
lần thứ ba hào trùng...
61.Trang: sắp đặt ra, tŕnh bày ra.
"Trang quẻ, trang lá số": tŕnh bày nội
dung cái quẻ, lá số.
62.Lục xung: sáu hào trong quẻ bói đều
xung khắc với nhau.
63.Phụ mẫu, tử tôn: theo sách bói Dă-hạc:
sáu hào trong quẻ bói, mỗi hào chủ về
một sự việc, nên có nhưng tên hào:
phụ mẫu (cha mẹ), huynh đệ (anh em), thê
tài (vợ và tiền của-gọi tắt là hào
"tài"), tử tôn (con cái), quan quỉ (quan
sự và quỉ thần-gọi tắt là hào
"quan"), trong đó lại có một hào đại
biểu cho bản thân gọi là "thế",
một hào đại biểu cho người hay
việc bên ngoài trực tiếp quan hệ đến
bản thân gọi là "ứng". Những hào
này, theo ngũ hành, có tính chất tương sinh
hay tương khắc nhau. ở đây, hào phụ
mẫu khắc hào tử tôn, ứng vào việc cha
mẹ gặp nạn mà con cháu đau thương.
64.Du hồn: tên quẻ bói (hồn đi chơi
vẩn vơ).
Quẻ bói hóa ra quẻ du hồn, chỉ việc Vân
Tiên bị long đong bệnh hoạn nơi
đường xa đất khách.
65.Thế động: hào"thế"
tức hào bản thân bị xung động. Hào
quan: tức hào "quan quỉ" gọi tắt,
quan chỉ chung những sự việc: thi cử, công
danh, văn thư, kiện tụng. Thế động
khắc hào quan, chỉ cuộc đời của ḿnh
bị biến chuyển mà công danh trắc trở.
66.Mẫu tang: tang mẹ.
67.Thày pháp: pháp sư, thày phù thủy.
68.Bôn bôn: bon bon.
69.ấn: phù phép của thày pháp để
bắt ma, trừ tà.
70.Phù chú: lá bùa và câu chú.
71.Hồ linh: bầu thiêng liêng.
72.Sái đậu thành binh: rảy hạt đậu
thành binh lính đi đánh trận được
73.Diêm vương: vua ở âm phủ. Hai câu này
nói: sai được âm binh bằng đậu,
bằng rơm xuống phá thành vua âm phủ.
74.Đạo hỏa phó thang: Dẫm chân lên
lửa cháy, dấn ḿnh vào nước sôi.
75.Ngồi gươm, đứng giáo: ngồi
trên gươm, đứng trên giáo. Khai đàng thiên
hoang: mở lối đi ở cơi trời xa
vắng chưa có ai tới.
76.So đo: có nghĩa là suy hơn tính
thiệt.
77.Hề: người theo hầu, như nói
"hề đồng": chú bé theo hầu.
78.Kinh quyền: hành sự theo lẽ thường
là kính, theo lẽ biến là quyền. Hai chữ này
thường dùng chung là một danh từ để
chỉ sự hành động biết tùy thời,
không cố chấp câu nệ.
79.Thuyên: bớt đau, khỏi bệnh.
81.Bàn cổ: theo truyền thuyết
Trung-quốc. Tọa niền chứng miêng (minh):
chứng tỏ trước bàn thờ
82.Đại thánh Tề thiên: tức Tôn Ngộ
Không, một nhân vật chính trong chuyện Tây Du Kư.
Ngộ Không nguyên là một con khỉ đá tinh quái,
đi cầu tiên học đạo, có nhiều phép
lạ, từng xuống thủy cung yêu sách Long vương,
và xuống âm cung xóa sổ Diêm vương,
Trời vời lên làm Bật Mă Ôn (chức coi
ngựa nhà Trời), Ngộ Không bất măn, làm náo
động thiên cung rồi bỏ về, mấy tướng
nhà Trời xuống bắt, đều bị
Ngộ Không đánh bại, Trời phải phong y là
Tề thiên đại thánh (thánh to bằng
trời). Sau Ngộ Không qui Phật, theo Đường
Tam Tạng sang Tây trúc lấy kinh. Nhân vật
Tề thiên đại thánh ngày này được
coi tượng trưng cho sức mạnh vô địch
của nhân dân .
|