Những bài cùng tác giả
Nếu bây giờ có ai hỏi tôi thích cái gì
nhất ở những cái Tết ngày xưa, thì có lẽ tôi sẽ phải trả lời rằng : ở Hà
Nội, tôi chỉ thích nhất là đốt pháo, và nhìn xác pháo đỏ hồng hè phố sáng
hôm mồng một Tết, khi mở cửa ra đường, rồi được nhìn ngắm những chậu quất,
cành đào, chậu cúc, và được thức khuya như người lớn để "canh" nồi bánh
chưng. Còn ở Thái Hà Ấp, tôi chỉ thích nhất cái khung cảnh nhà quê và những
món ăn đặc biệt do các bác tôi làm theo truyền thống của họ bên ngoại.
Nhắc
lại những cái Tết ngày xưa, nhất là nói đến những món ăn ngày Tết, tôi không
khỏi nghĩ đến những món “đặc sản” mà họ bên ngoại tôi thường làm vào dịp
này ở Thái Hà Ấp.
Ngày ấy, hàng năm cứ đến ngày mồng 2
Tết, chúng tôi lại được theo mẹ tôi xuống ấp mừng tuổi bà và ăn Tết với họ
hàng bên ngoại. Hai chữ “xuống ấp” mà chúng tôi quen dùng ở trong nhà, nghe
có vẻ hơi quá thân mật, thực ra chỉ vì Thái Hà Ấp ở về phía nam, cách Hà Nội
khoảng 4, 5 km, trên đường tàu điện vào Hà Đông, và đây là nơi bà ngoại, và
các bác, các cậu mợ tôi ở. Xưa kia, hồi còn con gái, mẹ tôi cũng đã từng
sống ở đây. Do đó, chúng tôi vẫn thường coi Thái Hà Ấp như là quê ngoại của
mình, mặc dầu quê ngoại thật của chúng tôi lại ở mãi tận Hưng Yên.
Người Hà Nội mặc dầu quen thuộc với cái
tên Thái Hà Ấp, nhưng có lẽ hồi ấy cũng không mấy ai lui tới đây, trừ những
người dân sở tại. Vào những năm 40, còn đương thời Pháp thuộc, có mấy ai
nghĩ đến xuống đây để thăm gò Đống Đa, hay đền Trung Liệt đâu, mặc dầu những
di tích lịch sử này nằm ngay sát bên đường tàu điện Hà Nội - Hà Đông, ở ngay
chỗ trạm tàu điện đỗ, và mặc dầu đã có cả một bài hát rất oai hùng về gò
Đống Đa mà một dạo bầy trẻ chúng tôi hay thích hát.
Thái Hà Ấp ở lui vào phía trong, lại càng được ít người
vào thăm viếng hơn, trước hết vì người ta cũng hơi ngại, vì đây dù sao cũng
là một cơ ngơi của tư nhân, mà lại không phải bất cứ tư nhân nào ! Ngoài ra,
còn có một lý do khách quan khác, hiển nhiên hơn, đó là vào cái thời trước
những năm 45-46, nghĩa là trước Cách mạng tháng Tám, người dân ta nói chung,
từ thành thị đến thôn quê, đều chưa quen đi đây đi đó, chưa quen ra khỏi
nhà, khỏi ngõ, khỏi xóm làng của mình nửa bước, dù là để tiêu dao, giải trí,
hoặc để chiêm bái, học hỏi, nói tóm lại, còn rất thiếu óc tò mò, tìm hiểu,
lại càng không biết đến khái niệm “du lịch” là gì cả, một phần do giáo dục,
tập quán, song một phần cũng do không có điều kiện vật chất và thì giờ, để
nghĩ tới cái nhu cầu đó.
Thời bấy giờ, người ta chỉ biết Thái Hà
Ấp là giang sơn của Hoàng Cao Khải, trước kia làm Tổng đốc Hải Dương, Hưng
Yên, sau làm đến chức Khâm sai đại thần, kinh lược xứ Bắc kỳ. Hoàng Cao Khải
chính là người đã giẹp được “giặc Bãi Sậy”, tức nghĩa quân của ông Nguyễn
Thiện Thuật ở Hưng Yên, nhờ đó mà được vua phong cho chức “Sơn-Hưng-Tuyên
Tổng Đốc, Thái tử thiếu bảo, Duyên Mậu Quận Công... ”, và ban cho phần đất
này để lập ấp. Đó là khoảng năm 1890.
Khách quan mà nói, việc lập ấp của
Hoàng Cao Khải, thực ra cũng không phải là đơn giản. Trên thực tế, đó là cả
một cuộc “quy hoạch cải tạo” một vùng đất rộng lớn, đụng đến nhiều làng mạc
ở xung quanh (Khương Thượng, Mọc, Láng, v.v.), mà lại là nơi đất trũng, úng
ngập, trong đó được chia ra, nào là đất để xây cất, nào là đất để trồng
trọt, cả hai đều phải khai thác tối ưu để mang lại lợi tức. Những nhà nghiên
cứu về sử học cận đại sau này cho biết, Hoàng Cao Khải đã một mặt “chia lô”
đất xây dựng, và ngoài số con cháu, họ hàng thân thích ra, đã “thuyết phục”
một số quan to ở triều đình, và nhân vật có máu mặt thời bấy giờ, kể cả
những tư nhân người Pháp, mua đất để xây nhà ở đây, trong cùng cái cơ ngơi
này với mình ! Mặt khác, trên phần đất còn lại, dành cho việc cày cấy, trồng
trọt, Hoàng Cao Khải và nhất là bà vợ bé, bà Bông, đã cho đưa người từ dưới
quê mình ở Hưng Yên lên đây để thực hiện mọi công việc.
Năm 1933, khi Hoàng Cao Khải mất, thì
cả cái cơ ngơi đó thuộc về người con cả là Hoàng Trọng Phu, còn được gọi
là “Cụ Thiếu Hà Đông”, vì trước kia làm Tổng Đốc Hà Đông, sau cũng lại được
phong chức “Thái tử thiếu bảo” (người dạy dỗ con vua).
Nhìn từ bên ngoài, khách qua đường
không thể nào biết được những cơ ngơi ấy rộng lớn như thế nào, trong đó có
gì, và cơ ngơi nào thuộc về của ai, vì chúng nằm lấp ở đằng sau những hàng
rào cây rất cao và rất rậm rạp ở hai bên bờ hồ Mục Dục.
Trong khu vực “công cộng” của ấp, nơi
người ngoài được phép đi lại, có cả khu lăng tẩm của gia đình Hoàng Cao Khải
(được người trong ấp gọi là “Lăng cụ Quận”, song muốn vào tham quan nơi này,
cũng phải quen biết ai có chức phận gì ở đây mới vào được. Thực ra cũng ít
ai qua lại đây, ngay cả những người ở trong ấp, vì ở trong ấp không chỉ có
những dinh thự, biệt thự, và lăng tẩm của gia đình Hoàng Cao Khải, mà còn
một số nhà thường dân ở về phía bên kia hồ, nơi có những cánh đồng chạy đến
tận các làng Mọc, Láng, v.v.
Chính vì thế, mà khi sắp sửa tác chiến
ở Hà Nội, năm 1946, ông Phạm Văn Đồng và những người tuỳ tùng của ông vẫn
thường lui tới đây, ở nhờ ngôi biệt thự của gia đình người em họ tôi ở đây,
để vừa dễ liên lạc với bộ tham mưu lúc đó cũng đóng ở bên dinh của ông Hoàng
Trọng Phu ngay gần đấy, vừa để có thể rút ra ngoài hậu phương một cách dễ
dàng, khi cần thiết.
Ấp
Thái Hà cũng chính là nơi mà bà ngoại, và các bác, các cậu mợ tôi rời nơi
chôn rau cắt rốn của mình là làng Bông (Hưng Yên) lên đây lập nghiệp từ
những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20.
Nguyên họ ngoại tôi gốc gác người làng Bông (Khoái Châu,
Hưng Yên), cùng quê với “Bà Bông” vợ bé của Hoàng Cao Khải. Bà Bông là chị
em ruột với người vợ cả của ông ngoại tôi (bà ngoại chúng tôi chỉ là vợ
hai). Có giai thoại kể rằng : khi Hoàng Cao Khải đi đánh “giặc Bãi Sậy”, có
một lúc phải chạy trốn vào làng Bông, may mà chui được vào một đống rơm ở
nhà ông ngoại tôi mới thoát chết, và việc này cũng là nhờ người con gái, mà
sau này sẽ trở thành Bà Bông, người đã giấu Hoàng Cao Khải vào trong đống
rơm, và đã giúp đỡ ông trong lúc hoạn nạn. Tương truyền Bà Bông đẹp lắm. Năm
1947, tôi có dịp đi bộ từ bên Lý Nhân (Hà Nam) sang đây thăm bà ngoại tôi,
lần đầu tiên tôi được thấy quê ngoại thật của mình. Làng này thuộc loại giàu
có, ít ra có ruộng để cấy lúa, đường trong làng lát gạch hẳn hoi ; làng lại
ở ngay gần đê sông Hồng, dọc theo đê là những rặng nhãn quả sai, nặng chĩu
xuống đến đầu người, với tay lên lấy được, và ở đây đàn bà con gái quả là có
nhiều người đẹp.
Khi Hoàng Cao Khải được phong tước quận
công và được nhà vua ban cho đất này để lập ấp, bèn lấy Bà Bông về làm thứ
thất. Bà này liền đưa hết cả họ hàng và người làng mình lên đây để khai khẩn
ruộng đất, đào hồ, đào ao, xây dựng cả một cơ ngơi gồm nào dinh thự, biệt
thự, lăng tẩm, đình miếu, v.v.
Vào khoảng những năm 1920, thầy tôi lúc
bấy giờ làm ăn buôn bán phát đạt trên Hà Nội, một hôm nhân đi qua Thái Hà
Ấp, chợt gặp một cô gái, là mẹ tôi sau này, đang chèo thuyền thúng vớt rong
trên hồ Mục Dục. Thầy tôi hỏi chuyện, rồi nhờ người dạm hỏi và hai người lấy
nhau. Nhưng rồi cũng từ sau đó, bận công việc làm ăn trên Hà Nội, thầy tôi
hầu như không bao giờ xuống chơi dưới này nữa, và mỗi năm vào ngày mồng 2
Tết, chỉ có mẹ tôi và ba chị em chúng tôi xuống đây ăn Tết và mừng tuổi bà
ngoại thôi. Việc đó đã thành như một cái lệ.
Chúng
tôi lấy tàu điện ở Bờ Hồ. Bờ Hồ vào những ngày này trông quang đãng, sáng
sủa, khác hẳn với những ngày thường trong năm. Không khí như tươi vui hẳn
lên với những cành đào bày bán la liệt ở ngay bến tàu điện. Tiết trời vào
những ngày trong Tết ở Hà Nội bao giờ cũng hơi lành lạnh. Chúng tôi chạy
nhảy tung tăng trong những bộ quần áo mới. Tôi còn nhớ, cho tới tuổi lên 7,
lên 8, vẫn được mặc những chiếc áo gấm “cậu ấm”. Sau này, đến năm lên 9 trở
đi, tôi mới được đóng bộ quần áo tây. Tôi còn nhớ mãi bộ quần áo tây đầu
tiên bằng dạ nâu có đường kẻ dọc rất “cổ điển”, may ở nhà một ông thợ may
phố Hàng Bát Sứ. Lúc đó tôi mới chỉ được mặc quần soóc thôi, nên vẫn thấy
lạnh nổi cả da gà. Mùa xuân ở miền Bắc, đặc biệt ở Hà Nội, thường là như
thế. Chị tôi mặc một chiếc áo dài bằng vải len, cổ quàng một chiếc khăn len
theo kiểu rất điệu của các cô gái Hà thành thời bấy giờ.
Tàu điện đưa chúng tôi từ Bờ Hồ qua
những phố xá quen thuộc : Hàng Gai, Hàng Bông, Cửa Nam, Hàng Bột, Giám, Ô
Chợ Dừa, Nam Đồng, v.v. Bây giờ lâu rồi, tôi không còn nhớ hết những trạm
tàu điện đỗ trên con đường này, nhưng vẫn còn nhớ rõ tiếng bánh xe điện
nghiến trên đường sắt và rít lên ở những chỗ rẽ.
Chẳng mấy chốc đã đến trạm đỗ trước cửa
Thái Hà Ấp. Bước xuống khỏi toa xe điện, chúng tôi như thấy mình lạc vào một
thế giới khác. Trước mắt chúng tôi là đền Trung Liệt nằm trên gò Đống Đa.
Sau lưng là chùa Đồng Quang với cổng chùa mới quét vôi trắng tinh sạch sẽ,
với hàng chữ nho màu đen cũng mới được viết lại, người đi lễ ra vào tấp nập.
Chúng tôi lòng vui như mở hội, chạy thẳng một mạch đến chân gò Đống Đa, trèo
lên trèo xuống mấy bậc đá dẫn lên đền Trung Liệt, rồi men theo gò Đống Đa đi
vào trong ấp phía bên trái. Đây là một trong hai lối vào nhà bà và các bác,
các cậu tôi. Vào lối này gần hơn và cũng đẹp hơn, lại được đi thuyền, điều
làm chúng tôi vô cùng thích thú, nên bao giờ chúng tôi cũng đi lối này, mặc
dầu đi thuyền vào mùa này không vui bằng vào mùa hạ có đầy sen nở ở trên hồ,
chúng tôi thích nghe tiếng cọ nhẹ của lá sen vào mạn thuyền. Còn lối kia, là
lối đi bộ, xa hơn, vì phải đi vòng một vòng lớn quanh hồ, về phía bên phải
gò Đống Đa.

Gò Đống Đa
Ngày ấy, mỗi lần đi ngang qua dưới chân gò Đống Đa, bao giờ
chúng tôi cũng có một cảm giác đặc biệt, cảm thấy một sự sùng kính xen lẫn
sợ sệt và mê tín. vốn là từ nhỏ, các anh chị tôi ở trong nhà vẫn thường kể
cho chúng tôi nghe, nào là sự tích vua Quang Trung diệt quân Thanh ở dây ra
sao, xác chất thành gò đống thế nào, rồi cái chết bi thảm của Sầm Nghi Đống,
viên tướng tàu, rồi đêm đêm người ta vẫn thường nghe thấy tiếng chiêng từ
trên gò ngân đi xa, v.v. Trong suốt những năm còn bé, mỗi lần đi ngang qua
đây, nhìn lên đỉnh gò, tôi vẫn thấy một chiếc chuông đồng lớn dã gỉ xanh,
nằm chơ vơ ở ngoài trời. Trong trí óc non thơ của tôi hồi ấy, tôi vẫn đinh
ninh rằng, nếu đào gò đất kia lên, tất sẽ tìm thấy những bộ xương trắng hếu
của quân Thanh đã chôn xác ở đây. Thực ra, sau này lớn lên, tôi mới được
biết rằng, chưa chắc gò Đống Đa này đã là của thật. Nghe đâu cái gò đích
thật, nơi chôn xác quân Thanh, nằm ở tít tận mé Nam Đồng kia, cách Thái Hà
Ấp cũng đến một, hai cây số.
Dẫu sao, ngày ấy, chúng tôi vẫn thấy gò Đống Đa sao mà cao
thế, to thế, và đền Trung Liệt nằm trên một số bâc đá, leo mãi không hết,
đứng từ trên nhìn xuống chúng tôi đã cho là cao lắm rồi. Gần đây, có dịp về
nước, đi ngang qua đây mấy bận bằng xe hơi, tôi thấy sao mà cái gò lịch sử
của mình nó nhỏ bé thế, và đền Trung Liệt trông như bị lún xuống, không ra
bề thế gì cả. Tôi tự hỏi không biết có phải vì cái con mắt của tuổi thơ vẫn
hay có xu hướng thổi phồng lên một cách vô tình bằng trí tượng của mình
không, nên nhìn mọi vật đều thấy to tát, hay chỉ vì ngày ấy chúng tpôi chưa
được đi đâu xa, chưa có được một cái nhìn so sánh, khách quan hơn. Tôi nghĩ
sau này có lẽ nên xây cao hẳn gò Đống Đa lên bằng một vât liệu bền vững, ít
ra cái vỏ ngoài, để cho nó khỏi bị xói mòn và mai một đi như núi Nùng khi
xưa.
Bước
qua cổng ấp, thẳng trước mặt chúng tôi và ở tít tận đằng xa, là “Dinh cụ
Quận”. Nhưng trước khi tới đó, chúng tôi còn phải đi qua một chỗ có cái đài
bằng đá hoa cương nhẵn bóng, màu thẫm, bệ hình tròn, cao độ 60cm, đường kính
độ dăm thước, có bậc để đi lên, ở giữa đài là một cây cột trụ đúc bằng gang,
có đường chỉ trang trí như một thức cột. Bao giờ chúng tôi cũng dừng lại để
trèo lên đây đùa nghịch một lúc, bắt mẹ chúng tôi phải chờ đợi. Nhưng đi mấy
bước nữa, đến gần dinh cụ Quận, thì chúng tôi chẳng còn dám ho hoe, nghịch
ngợm nữa. Không hiểu sao, cái không khí lạnh lẽo toát ra từ nơi này luôn
luôn làm cho chúng tôi hãi sợ, có lẽ vì hình ảnh cái chiêng và cái trống nằm
ở hai đầu hiên vắng ngắt, và đã phủ một lớp bụi thời gian, khiến cho chúng
tôi không khỏi liên tưởng đến những vụ xử trảm rùng rợn đã từng xảy ra ở nơi
này thời cụ Quận còn sống. Người dân ở đây đồn rằng, đêm đêm vẫn nghe thấy
tiếng chiêng rất bi ai từ trong dinh ngân ra !

Cổng vào Thái Hà Ấp
Đi tới đằng trước dinh, bên trái là lối vào “Lăng cụ Quận”.
Khi tôi ra đời, thì cụ Quận đã mất rồi. Đã có một hai lần tôi được vào đây
với chị tôi để chụp ảnh. Đối với chúng tôi hồi đó, thì lăng cụ Quận cũng đã
là một tổng thể kiến trúc hoành tráng lắm rồi. Đương nhiên, không thể nào so
sánh với lăng tẩm của các vua nhà Nguyễn ở Huế được !
Bên phải dinh, là nhà cậu Lý em mẹ tôi. Cậu giữ chức lý
trưởng ở trong ấp. Vào nhà cậu, chúng tôi cũng rất ngại, vì ở giáp ngay bên
cạnh dinh, vào đây phải đi qua một cái sân trải sỏi, bước đi lên trên nghe
cứ lạo xạo, rất khó chịu, lại thêm cái không khí ở đây cũng lạnh lẽo làm sao
!
Cũng vì vậy, mà mỗi lần xuống ấp, ít
khi nào chúng tôi dừng lại ở đây, mà rẽ ngay sang bên phải, dọc theo hồ Mục
Dục, hai bên bờ trồng dương liễu. Trên con đường đất thẳng tắp này, một bên
là hồ, một bên là hàng rào cây rất dày, đằng sau là cơ ngơi của gia đình
Hoàng Cao Khải. Một điều vẫn làm cho tôi thắc mắc, là trong suốt những năm
trời tôi được đi về dưới ấp, chưa bao giờ tôi được biết đằng sau những hàng
rào cây này có những bí mật gì !
Đi đến cuối đường, đến chỗ có tên gọi
là “Cầu đổ”, chúng tôi cất cao tiếng, gọi : “Chị Thanh ơi, ra chở thuyền cho
chúng em với !”. Chị Thanh là con bác Tư, anh ruột của mẹ tôi. Gia đình bác
Tư và gia đình cậu Bảy sinh cơ lập nghiệp ở ấp này, cả hai gia đình làm tá
điền cho ông Hoàng Trọng Phu. Chỉ mấy phút sau, chị Thanh đã chở thuyền sang
tới nơi đón chúng tôi. Chỉ riêng cái việc gọi thuyền này cũng đủ làm cho
chúng tôi thấy thú vị, và đã trở nên một cái gì như một nghi lễ không thể
thiếu được khi chúng tôi xuống ấp. Vào mùa sen nở, cả mặt hồ là sen. Con
thuyền rẽ nước chầm chậm, lách tránh những bông sen, tiếng lá sen cọ vào mạn
thuyền nghe sột soạt, hương sen thơm ngát cả một vùng không gian. Chúng tôi
hay lấy tay khoắng nước, nghịch ngợm với những giọt nước lăn trên lá sen
trông như những viên ngọc nhỏ óng ánh bạc.

Hồ sen
Sang đến bên bờ bên kia, là địa phận
nhà bà tôi và nhà các bác, các cậu. Trong trí tưởng tượng của tuổi thơ, tôi
vẫn coi như sang đến bên đây mới thật là chỗ mà mọi người gọi bằng “ấp”.
Thật ra, nơi bà tôi ở, và là nơi cả họ bên ngoại hàng năm cứ kéo nhau về tụ
họp ăn Tết, chỉ là một trang trại nhỏ của bác tôi, tương đương với nhà một
nông dân bậc trung. Cả cơ ngơi của bác tôi là một ngôi nhà tranh ba gian,
hai chái, một chiếc nhà ngang dùng làm nhà bếp và chuồng nuôi trâu, nuôi lợn
gà, cũng bằng lá, một cái sân, một mảnh vườn ở đằng trước và một cái ao thả
cá ở đằng sau. Khi giỗ tết đông người, trong nhà không đủ chỗ để tiếp đón cả
họ, con cháu vẫn phải chen chúc nhau ở ngoài hàng hiên, nhưng vẫn thấy vui,
nhộn. Mãi sau này, khi tôi lớn lên đến tuổi 11, 12, bác tôi mới xây thêm
được một ngôi nhà thờ họ bằng gạch ở bên cạnh, thẳng góc với ngôi nhà lá cũ.
Không
chờ cho chị Thanh buộc thuyền vào cầu ao, chúng tôi nhảy vội lên bờ. Vào đến
trong sân, là bao giờ cũng thấy một quang cảnh náo nhiệt từ trên nhà xuống
dưới bếp. Ai nấy đều cười nói vui vẻ, chúc tụng nhau năm mới, giọng tỉnh
thành của các cô, các cậu, trên Hà Nội xen lẫn với giọng hơi quê của những
người anh chị em họ ở dưới ấp, do hoàn cảnh sinh sống, vẫn giữ nguyên cái
gốc nông dân mộc mạc.
Các gia đình lần lượt vào mừng tuổi bà
ngoại tôi. Chúng tôi hay được ưu đãi và được bà gọi vào ngay, vì mẹ tôi là
con gái duy nhất của cụ, trong số 9 anh em. Nói chung, chúng tôi được cả họ
bên ngoại nuông chiều và kính nể. Mọi người coi
chúng tôi như một niềm tự hào của cả họ, vì thầy mẹ tôi làm ăn khá giả ,
chúng tôi là những người “tỉnh thành”, được ăn học, v.v. Ngày ấy, dường như
ở bên họ ngoại chúng tôi, mọi người đều biết thương yêu nhau bằng một tình
thương trong lành, không gợn vết.
So với bên nội, họ ngoại của chúng
tôi tương đối nghèo hơn. Ngày Tết, nếu bà ngoại có mừng tuổi cho chúng tôi
mỗi đứa vài đồng xu mới, thì cũng chỉ là tượng trưng. Nhưng mỗi lần chúng
tôi vào mừng tuổi bà, là tôi lại được bà ôm vào lòng vuốt tóc, vì tôi là con
út của mẹ tôi. Hồi mẹ tôi còn sống, mỗi lần mẹ tôi và chúng tôi xuống ấp, bà
tôi vui vẻ lắm. Sau này vào những năm 45-46, bà tôi bắt đầu buồn vì mẹ tôi
ốm nặng, và đến khi mẹ tôi mất vào giữa năm 46, thì mỗi lần bà tôi lại ôm
tôi vào lòng vuốt tóc và rơm rớm nước mắt hỏi : “Thế con có nhớ u con không
?”.
Có lẽ cái tình thương bao la của bà
tôi đối với mẹ tôi và chúng tôi là lý do thầm kín và sâu xa nhất khiến tôi
thích những cái Tết ở dưới ấp.
Ngoài lý do tình cảm đó ra, còn có
những lý do khác mà chỉ về sau này, khi đã ra đi và đã được nếm mùi nhiều
cái Tết tha hương ở xứ người rồi, tôi mới hiểu hết ý nghĩa.
Nếu bây giờ có ai hỏi tôi thích cái
gì nhất ở những cái Tết ngày xưa, thì có lẽ tôi sẽ phải trả lời rằng : ở Hà
nội, tôi chỉ thích nhất là đốt pháo, nhìn xác pháo đỏ hồng hè phố, sáng mồng
một Tết, khi mở cửa ra đường, rồi được ngắm những chậu quất, chậu cúc, và
được thức khuya như người lớn để “canh” nồi bánh chưng. Còn ở Thái Hà Ấp,
tôi chỉ thích nhất cái khung cảnh nhà quê và những món ăn đặc biệt do các
bác tôi làm theo truyền thống của họ bên ngoại.
Ở Hà Nội, Tết đến, mỗi nhà đóng cửa
lại để ăn Tết, đặc biệt là các nhà có cửa hiệu buôn bán. Tất cả cái không
khí tưng bừng của ngày Tết như bị dồn ép lại ở trong nhà. Trẻ con, người lớn
quanh quẩn với những chậu quất, cành đào, chậu cúc, giò thuỷ tiên, v.v. Gia
đình nào đông, có nhà rộng, và có của, đêm 30 mới có được nồi bánh chưng,
đặt ở ngay chiếc sân trong có giếng trời ở giữa nhà, để nấu bánh chưng và để
thức đêm canh. Đó là cái thú vui lớn nhất đối với bọn trẻ, ngoài thú vui
được mừng tuổi, được đánh tam cúc, và được đốt pháo (ở ngoài phố).
Còn ở Thái Hà Ấp, chúng tôi ăn Tết
trong khung cảnh thôn dã, rộng rãi, thoải mái, với sân vườn, hồ ao, ruộng
đồng, với cái mùi cay cay quen thuộc của khói rơm, khói củi, bay ra từ nhà
bếp, xuyên qua nóc mái rạ, và nhất là với những món ăn tuy quê mùa, nhưng
thật là ngon. Cái truyền thống làm những món ăn này có lẽ đã được đem từ
dưới làng Bông lên đây, và chắc đã có từ lâu đời.
Bây giờ lâu rồi, tôi không còn nhớ
hết những món cỗ Tết của bên họ ngoại nữa, mà chỉ còn nhớ có một vài món, mà
hồi ấy chúng tôi cho là ngon đặc biệt.
Trước hết là những chiếc bánh chưng.
Bánh chưng ở Thái Hà Ấp do các bác gái và mẹ tôi gói, đẹp và ngon lạ lùng.
Tôi không bao giờ thấy trên Hà Nội ở đâu có bánh chưng ngon như thế. Bánh
chưng mặn thì được gói với những miếng thịt lợn tươi (không phải thịt mua ở
chợ, mà là thịt lợn do chính tay các cậu, các bác nuôi và mổ lấy), thịt
không nạc quá, nhiều đỗ, gói chắc và vuông, mà vẫn không cứng.
Đặc biệt nhất ở đây là bánh chưng
đường, mỗi chiếc bánh được gói to bằng hai chiếc bánh chưng thường, màu lá
và màu lạt buộc cũng khác để dễ phân biệt. Ruột bánh chưng đường cắt ra đỏ
như mật mía, nhân bánh cũng vẫn đầy đỗ xanh và thịt không nạc quá, ăn lúc
còn nóng, thật là tuyệt. Hồi nhỏ sao chúng tôi thấy bánh chưng đường ngon
thế, ăn mãi không chán !
Ngoài ra, có mấy món ăn đặc biệt
khác mà tôi còn nhớ hơn cả, đó là món thịt bò kho, hoặc thịt trâu kho,
và…chè kho ! Đấy là không kể những món ngon khác không đặc biệt của họ
ngoại, như : giò thủ, cá kho khô, giả cầy, thịt ninh mà mỗi cục thịt to băng
nắm tay, và lẽ dĩ nhiên, món thịt mỡ dưa hành không thể thiếu được, làm theo
kiểu nhà quê.
Làm thịt bò kho, các bác tôi thường
chọn những miếng thịt bắp có gân, ướp nước mắm, quế, hồi, v.v., rồi bó chặt
lại và kho trong nồi hay niêu bằng đất, đun nhỏ lửa trong mấy ngày liền
trước Tết. thịt trâu cũng được làm giống như vậy. Khi ăn cắt ra từng khoanh,
miếng thịt đen óng, thịt không được vỡ, gân không được nhão. Đó là những món
mà chúng tôi, dân “tỉnh thành” thích nhất. Mẹ tôi rất thạo những món này,
nhưng trong năm ở trên Hà Nội, mặc dầu biết chúng tôi thích, nhưng mẹ cũng
không bao giờ có thì giờ làm.
Bao
nhiêu năm đã qua rồi từ những ngày ấy. Chúng tôi sẽ không còn bao giờ được
đoàn tụ đông đủ để ăn Tết ở Thái Hà Ấp nữa. Thái Hà Ấp bây giờ chắc hẳn cũng
đã khác xưa. Họ ngoại nhà tôi bây giờ cũng không còn ai ở trong ấp nữa. Một
vài gia đình đã ra ở ngoài phố, chỗ tàu điện tránh. Những gia đình khác hoặc
đã lên ở Hà Nội, hoặc đã vào trong Nam, hoặc đã phiêu bạt xứ người. Cũng có
những người đã ra đi du học từ những năm 50...
Lần nọ về, tôi có dịp đi qua đây,
nhưng tôi không dừng lại được để vào thăm những nơi chốn cũ. Cuộc sống dồn
dập, nhiều khi không cho phép chúng ta dừng lại ở những kỷ niệm nữa.
Tôi chỉ muốn, một ngày nào đó, được
ghé thăm lại Thái Hà Ấp, nơi quê ngoại thứ hai của chúng tôi, được đi lại
con thuyền ngày xưa đã từng chở chúng tôi qua hồ để vào nhà bà ngoại ăn Tết.
Tôi muốn được đưa tay xuống vục nước hồ trong mát, đùa nghịch với những hạt
nước lăn trên lá sen, và nhìn ngắm lại bóng mình in dưới nước như hồi còn
thơ ấu.
(bài đã đăng trên báo Đoàn Kết số tháng 2.1985,
bản mới đăng Diendan.org 29/06/2007
đã được tác giả sửa chữa và bổ sung)
|