Những bài cùng tác giả
Đã đến nước
cùng rồi, đã đến nước chót rồi, không còn trì hoãn được nữa. Bà con
lối xóm đi hết. Vơ vét gạo củi, đùm túm áo quần đi hết. Lùa bò, dắt
trâu đi hết. Quẩy lúa gánh đường đi hết. Trên xóm Dương không còn
tiếng người nói. Dưới Đồng Dài không có tiếng gà gáy trưa. Bà Xự ngồi yên trên ngạch cửa, hai dòng nước mắt lặng lẽ chảy trên
gò má. Bỏ nhà cửa mà đi. Bỏ ruộng nương, bỏ vườn tược, bỏ khúc sông và
cái bến nhỏ này mà đi. Không, tôi không muốn đi dâu hết. Năm mươi tuổi
trên đầu rồi, tôi muốn ngồi yên một chỗ, nằm yên một chỗ mà chết cũng
được. Chết là gì? Nhắm hai con mắt lại, nhẹ nhàng buông xuôi hai tay.
Khỏi đi cấy, khỏi cần quạt giê lúa. Khỏi gánh nước đổ vào chum, khỏi
quơ củi nhay vào bếp. Khỏi làm khỏi ăn khỏi lo khỏi tính. Thôi, cứ để
cho tôi chết. Bà con cứ đi đi. Tôi lớn lên ở trên mảnh đất này, bắt
đầu ngắt lá táo lá keo bỏ vào mẻ sành mảnh chén làm trò chơi nấu cơm
với chị em bạn. Rồi cúi lưng xuống tập quơ cỏ lúa, cầm cái cuốc tập
dẫy cỏ bắp. Đội cái thúng đi mót lúa, ôm cái rổ đi mò ốc gạo. Không,
không. Tôi muốn chết ở trên mảnh đất này... Sao? Chị nói không được
hả, Chết mà cũng không được hả? Sống mới khó chớ chết mà cũng khó à?
Chỉ cần nhắm mắt buông xuôi hai tay mà cũng không được? Hồi xưa mẹ tôi
chết dễ lắm. Trăn trối với cha tôi rằng: "Thôi anh ở lại nuôi con. Con
Lụa nó dại, tánh lùng bùng. Đừng đánh rầy nó tội nghiệp. Anh kiếm dì
ghẻ cho nó, nhớ lựa người hiền lành". Rồi mẹ tôi không nói nữa. Mẹ tôi
lên nằm trên sườn núi cạnh ông nội bà nội, ông cố bà cố. Cạnh ông
Chánh Bát, ông Hương Hai. Cạnh thằng Mẫn con bà Tơ, cạnh con Thìn, con
Thu bà Ni. Ai cũng lên nằm trên đó hết. Sao đến đời tôi lại khó khăn
vậy? Đi tản cư. Đi đâu bây giờ? Đây là quê tôi, quê chồng tôi cũng là
đây. Chỉ có nơi đây là quen thuộc. Bến đò Cây Dừa. Xóm Đường. Chợ
Chiếu. Hòa Tú. Núi Một. Đập Đá Hàn... Chị nói đi đâu? Vô quận hả? Vô
Phú Tân? À, tôi nhớ rồi, bây giờ quận dời về Phú Tân rồi. Chợ Gành đó
mà. Hồi còn con gái, bọn mình hay gánh đường bán chợ Gành. Nhưng bây
giờ thì gánh cả gia sản vô ở luôn chợ Gành. Mình đâu có nhà bà con
trong đó? Thôi, cám ơn chị. Chị đi trước đi. Để rai rải tôi coi thử
đã. Bà Xự đưa tay lau dòng nước mắt ngưa ngứa nơi khoé mũi. Chiều
xuống nhẹ nhàng. Bóng tối dồn về cây mít đứng sừng sững ở trước sân.
Hàng tre im lặng. Chòm nhà bà Kinh, bà Nhuận lẫn vào bóng tối. Ngày
thường, vào giờ này có ngọn đèn màu đỏ điểm giữa khung cửa đen sẫm.
Bây giờ thì tất cả đều là màu tối loang lổ. Người ta đi hết. Hôm kia
bà Kinh gánh trong hai đầu thúng hai đứa cháu nội. Quần áo cũ và mền
bạc màu chèn chặt hai đứa bé. Xấp bánh tráng đặt lên đùi mỗi đứa. Ruột
nghé gạo quàng vào một đầu gánh. Đầu kia lủng lẳng cái nồi. Bà kĩu kịt
gánh cháu đi theo đoàn chạy giặc. Cha lũ nhỏ, thằng Sách đi cày bị
trúng mìn. Một khúc ruột lòi ra nơi lỗ bụng bị thủng. Y tá quận băng
bó. Không có thuốc tiêm. Nó la hét nhiều lần rồi ngất đi. Máu rỉ qua
lần bông băng. Đợi có chuyến công-voa chở ra nhà thương Quy Nhơn.
Nhưng nghe nói mới đến Tuy Phước thì chết. Chôn cất thế nào ở ngoài
đó, nằm ở nghĩa địa nào, ở đầu núi nào bà Kinh không hề biết, không hề
thấy. Nghe chôn ở Hưng Thạnh. Chỉ biết là từ đó bà hay kể lể rằng
thằng Sách thường hiện về trong giấc chiêm bao lặng lẽ nhìn mẹ rồi
quay lưng thất thểu bước đi. Cái bụng quấn băng dầy cộm như bụng người
lính quấn cái mền. Thằng Sách chết thì đôi bò bán đi. Đám ruộng nằm ở
vùng bản lề do hai bên kiểm soát nên con vợ thằng Sách không dám tiếp
tục ra đó cấy hái. Nó lần mò đi Tuy Hòa kiếm công chuyện làm ăn. Đi ở
mướn cho hiệu cao lâu. Cả ngày ngồi ở sân sau rửa chén dĩa. Dĩa chén
chất từng chồng, rửa hết lớp này thì đã có lớp khác bưng dồn ra. Ngồi
trẹo xương sống. Mỡ và bọt xà bông ăn ngón chân và gan bàn chân nứt
nẻ. Đêm nào cũng thức rửa đến mười hai giờ, sau đó lại phải nấu nước
pha phèn chua để dầm đôi chân. Cái lưng nhức tưởng chừng như có thể
gẫy làm đôi. Mỗi tháng ăn uống xong được lương bốn trăm đồng để gởi về
nuôi mẹ chồng, nuôi con. Nhưng rồi nó không cầm cự được lâu. Ở nhà quê
dù chân lấm tay bùn nhưng làm và nghỉ có giờ giấc. Cuộc sống rập khuôn
theo sức phát triển của cây lúa cây bắp, mà cây cối thì không biết vội
vã như máy móc, không làm người ta lúng túng như máy móc. Chậm rãi,
trầm lặng, cây cối không kích thích bắt người ta rộn ràng. Hôm con
Sách xách va-li về quê thăm, nó mập và trắng ra. Nhà cao lâu thừa thãi
đồ ăn dư, ăn tha hồ, những miếng thịt béo ngậy mỡ, những bát canh còn
dư cả phân nửa, những đoạn bánh mì người ta mới bóc phần vỏ bên ngoài.
Ăn không hết thì đổ vào chậu nước nuôi heo. Con Sách xót xa nhìn những
miếng thịt mỡ dày óng ả, những muỗng "xốt" màu vàng, những đùi gà gậm
nham nhở, những khúc ruột bánh mì trắng xốp bị lùa rơi tỏng vào thùng
nước cơm. Con Sách nhớ tới thằng Tuồng, thằng Triện. Giá có lũ nhỏ ở
đây mà sớt cho chúng ăn. Ở nhà, ba bà cháu chỉ cầu có đủ cơm ăn.
Thường bữa cơm chỉ có rau muống, rau sam, tương, một đĩa cá liệt kho
trắng chởn, lởm chởm xương kỳ nhọn hoắt. Nhiều hôm chúng ngồi chống
đũa nhai cơm lạt. Nhưng nhọc nhằn quá, con Sách cầm cự không được lâu. Sau chừng ba
tháng thì nó đã bỏ cuộc. Nghe nhắn về nói nó đã theo một bà chủ tiệm
vàng đi Đà Lạt. Bẵng đi ba bốn tháng không thấy tin tức, bà cháu lây
lất với số tiền dành dụm còn lại. Với mấy gia. lúa mót được từ hôm mùa
tháng Ba, với số rau cỏ gầy còm mọc ở bờ ruộng, bờ ao. Sự sống xoay
quanh cái mâm gỗ đen xỉn bị gặm sứt nhiều mảng. Sự sống thoi thóp đó
vẫn không được để yên. Bà cháu đã đùm túm nhau đi tản cư. Bây giờ đến lượt mình... Mình đi đâu? Ở nhờ nhà ai? Lấy gì mà ăn?
Ở đây còn có thể quơ quào bốn phía nhà kiếm lấy củ mì củ môn, trái dưa
trái mít. Nhưng mà không được nữa rồi. Bom thả liên miên. Dãy nhà ngói
của ông Tổng Viên bị bom lửa cháy rụi, tiêu sạch. May phước cả gia
đình đã dọn đi rồi. Lửa cháy lan đốt thêm nửa xóm. Dưới xóm Đình lớp
thì bom, lớp thì súng, lớp bị chết cháy, lớp bị chết đạn. Ở xóm Ngựa,
nhà cháy và người chết, trâu bò bị chết thui trong chuồng. Đạn đại bác
lâu lâu được dọt ra vài chục trái bất kể đầu hôm hay giữa khuya. Trúng
ai nấy chịu. Ông Hương Ngọng ở hàng Dao bị đạn đại bác sập hầm gẫy
chân. Thằng cha Bộ Ở xóm Mia ẵm con chạy chưa tới hầm thì đại bác nổ
tan xác hai cha con. Quân đội ra lệnh đồng bào tản cư nhưng đi tản cư
đâu có dễ. Nhà cửa bề bộn đó, cái bàn, bộ ván, bồ lúa con heo, khiêng
sao gánh sao cho hết? Biết mang theo cái gì, bỏ lại cái gì, Mỗi vật
nhỏ cũng có giá trị của nó. Mua sắm rải rác suốt một đời người, những
vật dụng đó gần gũi cạnh mình đến nỗi chúng như có linh hồn. Có tiếng chân sột soạt ngoài hiên. Tiếng nói nhỏ: - Chị Năm! Có chị Năm ở nhà không? - Ờ! Chị Thủ Hai đó hả? - Sao? Chị dọn dẹp xong chưa? Nhớ đem theo ít đồ đạc thôi. Bỏ bớt
lại. Nặng quá gánh không nổi. - Chị ngồi lại đây một chút. Hai người đàn bà ngồi bệt dưới nền dất, cạnh nhau. - Chị nghĩ thử bây giờ mình đi đâu. - Thì cứ theo vô quận đã. - Trong đó nước khó gánh, nhà cửa chật chội. Mà mình lấy gì ăn?
- Kệ nó, tới đâu hay tới đó. Tàu bay thả bom quá, chịu không kham.
Thằng Chiến nó chần chừ rồi cũng phải lùa bò đi. Tiếng xì mũi của bà Xự. - Tai trời ách nước, ai muốn chi vậy. Thôi chị lo dọn dẹp đi. Thắp
đèn lên. - Sợ đại bác nó ngó thấy. Bà Thủ Hai không nín cười được: - Chị nói như điên. Đại bác ở tuốt trong quận bắn ra. Bắn ào ào
cầm chừng mà thôi, chớ đâu có nhắm ngọn đèn của chị mà bắn. Thôi, để
tôi chạy về nhà. Nhớ mờ sáng thì đi. Tôi ghé qua kêu chị luôn. Trong xóm không còn sót mấy người. Lần này rủ nhau đi coi như
chuyến chót. Thôi kệ tới đâu hay tới đó. Bà Xự uể oải đứng dậy thắp đèn. Hai cái bao lát đặt trong hai
chiếc thúng để giữa nhà đã chứa đầy những vật bà chọn đem theo. Áo
quần. Gạo. Nồi. Bộ lư đèn bằng đồng cỡ nhỏ. Dao rựa, dây dừa, chén
bát, võng. Bà cầm đèn đi soi nơi bàn thờ. Nước mắt tuôn ra khi nghĩ
rằng nơi bàn thờ này linh hồn chồng bà sẽ vất vưởng cô đơn. Người đàn
ông đó đã sống với bà hơn hai mươi năm. Từ một anh nông dân thanh niên
khỏe mạnh, người ấy đã lớn, đã già bên cạnh bà. Tính hiền lành mà hay
đổ quạu. Hà tiện hà tặn. Qua mùa cày bừa thì làm thêm nghề thợ mộc,
thợ đóng cối xay. Không ai thuê mướn thì họ đan lờ, thả câu cắm. Đang
làm ăn ngon lành thì ngã ra chết. Thật vô lý, khoẻ như trâu, bắp thịt
nổi cuồn cuộn như vậy mà cảm thương hàn mới bốn ngày đã nhập lý, lưỡi
đen, măn giường măn chiếu rồi chết. Còn ai lo hương khói? Từ chiều mai
bàn thờ này sẽ lạnh tanh. Bà rút một cây hương châm vào ngọn đèn rồi
cắm vào bát hương. Bức tranh thờ viết chữ Thọ có vẽ hình bông hoa lồng trong nét bút.
Hai hàng câu đối chạy hai bên. Bức tranh đã phủ nhiều bụi. Bà cầm đèn
đi xuống nhà dưới. Cây cột bằng tre già láng bóng. Bao nhiêu bàn tay
mồ hôi đã rờ lên nó. Có nhiều vết dao băm lên thân tre. Đó là vết dao
của thằng Xang chơi nghịch băm lên khi nó lên sáu tuổi. Bà chỉ sinh
được mình nó. Khi cha nó chết, nó thay cha cầm cày. Tánh tình ít nói.
Bà bảo nó: - Mày có thương con Bằng, con bà Câu Qua thì nói. Tao nhờ mai mối
đi hỏi cho. Nó lùng bùng: - Ai thương ai nhớ gì mà đi hỏi. - Chớ mày thương ai? - Không thương ai hết. - Bộ mày muốn đi tu hả? Con trai lớn thì phải kiếm vợ. Nhà không
ai, mày cưới vợ để đỡ đần chân tay. - Mẹ muốn thì mẹ đi cưới lấy. Bà la lên: - Thằng này nói dại. Tao cưới vợ cho tao làm gì? Tuy la lối nhưng bà cảm thấy an tâm. Mười tám tuổi mà không biết
mê gái, không biết soi gương vuốt tóc thì nó sẽ là đứa con có hiếu.
Mười đứa con bất hiếu thì hết chín là đồ mê gái. Có mê gái mới bỏ mẹ
bỏ cha. Bà yên tâm gởi tuổi già vào một thằng con chỉ biết cặm cụi sau
đuôi bò, chỉ biết tính toán buổi cày công cấy, chỉ biết vác cuốc dọn
bờ hay cầm liềm đi cắt cỏ. Tiếng thằng Xang chầm chậm: - Sắp sửa đi quân dịch mà còn nói chuyện cưới vợ. - Thì mày cưới vợ rồi đi. Để vợ mày ở nhà với tao. Xang xì một tiếng: - Có đứa con gái nào chịu dại vậy. Đến tuổi, thằng Xang đi quân dịch. Đôi bò bán rẻ cho ông Xã Xu.
Thôi đợi ngày mãn dịch nó về thì sắm lại đôi khác. Bây giờ không có nó
ở nhà thì ai chăn? Bà đi quơ cỏ mướn, cấy thuê kiếm ăn qua quýt đợi
ngày con về. Bốn tháng, sáu tháng. Mỗi tháng trông đợi dài bằng năm.
Cây xoan trước cổng nở hoa vào lúc nó ra đi bây giờ lại nở hoa. Phải
một kỳ nở hoa nữa thì nó về. Con tu hú báo hiệu mùa múi giẻ chín. Phải
một mùa tu hú kêu nữa thì nó về. Cây ổi xá lị nó xin giống ỏ đồng Tròn
về trồng năm kia, năm nay đã ra được hai trái. Sang năm nó về thì ổi
sẽ chín đầy cành. Tha hồ nó mừng. Để đi hỏi con Bằng cho nó. Muốn hay
không muốn thây kệ. Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Giao cho vợ chồng nó ở
căn nhà ngang. Bắt vợ nó nuôi thêm vài con heo. Bằm rau và chuối cho
heo ăn. Rong ở dưới bàu ông Chỉ xanh dờn. Giữa lúc bà tính nhẩm ngày về của con, vừa dự toán công việc làm
ăn thì có tin thằng Xang bị phục kích chết ở Phù Cát. Chết! Chết! Cái
chết đợi con người ở mút đường đi. Có người đi đường dài, người đi
đường ngắn. Thời bây giờ lũ nhỏ đi đường ngắn. Đám ma rốt cuộc chỉ có
người già khóc lóc đi đưa. Tre khóc măng. Đến chừng tre ngã thì hết
nghe tiếng khóc. Con gái làng đến tuổi không còn con trai đi cưới.
Chúng tản mát chạy về thành phố kiếm công ăn việc làm và kiếm chồng.
Những thế hệ nối tiếp nhau nằm an nghỉ trên đầu núi. Tội nghiệp,
thằng Xang thằng Sách thiếu mặt. Thằng Sách nằm ở doi núi Hưng Thạnh
chẳng biết mặt nhìn ra ghềnh ráng hay nhìn về An Khê. Thằng Xang của
bà thì không khéo mồ mả đã san bằng mặt đất bởi nước lũ mưa ngàn.
Những đêm sáng trăng chắc có con cọp ngồi rình mồi bên cạnh hòn đá
giằn đầu mộ. Ba đứa đó hồi nhỏ chăn bò một gò, tắm bò một bến. Ngồi kết từng
cái lá mít chẳm làm mão ông tướng, ông vua rồi tét lá chuối làm râu.
Tụi nó mang râu đội mão cầm giáo hát bội, nhảy múa hò hét suốt ngày
dưới chòm táo nhơn cạnh nhà ông Hương Trưởng. Tụi nó đánh đáo, đánh
mạng, đánh lú dưới bóng cây gạo. Tháng Bảy tháng Tám bông gạo nở đỏ
mùi hăng thúi cả vùng. Ba đứa lớn lên, đứng cạnh nhau trên một sân
gặt. Những cánh tay giơ cao bó lúa to, đập thình thịch xuống chồ tre,
hột lúa tung rào rào, rơi lộp bộp trên nón. Ba đứa thường gặp mặt nhau
trên một đám đất, cuốc gốc mía phầm phập, cuốc cỏ bắp sào sạo. Ba đứa
thương nhau như ba anh em, kể từ ngày chung nhau bài hát "Tôi có nuôi
một con chó. Trông nó to như con bò. Mai nó kêu quấu quấu quấu. Mốt nó
kêu quầu quầu quầu", hát trật giọng sai nhịp, cho đến khi lớn, riêng
tư mỗi đứa nghĩ về một người con gái. Bây giờ thì ba đứa đó đều ngã
xuống hết, mỗi đứa một cách, mỗi đứa một nơi, nhẹ nhàng, gọn gàng như
ba thân chuối bị phạt ngang bởi lưỡi rựa bén. Những đứa con trai!
Trong thôn không còn những đứa con trai. Gồng gánh đùm túm chỉ có đàn
bà và và con nít. Tiếng một con ễnh ương gào to lên làm bà Xụ giật mình. Bà bưng đèn
đi thẫn thờ từ nhà bếp lên nhà trên. Mùi khói nhang nhắc nhở những
ngày ấm cúng. Bây giờ thì lạnh lẽo. Ngày mai còn lạnh lẽo hơn nữa. Mỏi
mệt ở nơi sống lưng. Mỏi mệt ở hai dầu gối. Bao nhiêu công lao, bao
nhiêu nhọc nhằn mới làm nên cái nhà này. Từng gánh đất ruộng gánh đổ
chồng chất hàng mấy tháng trời mới làm được cái nền nhà này. Vợ chồng
ra công gánh, chiều mát và đêm trăng. Có tiếng con chim sơn ca hát
rung rinh ở đỉnh đầu. Có ngọn gió nồm thổi ngã ngọn cỏ. Rồi sau đó
chan chát tiếng chàng tiếng đục, cắt cưa bào khoét, cây cột cây kèo,
cây xà cây trình. Rồi rui rồi mè, rồi mầm tri rồi rơm nhào với đất
bùn, rồi từng tấm tranh chụp lên, rồi sắp nóc. Chồng bà hiện diện ở
khắp nơi trên mái, ở dưới nền, mồ hôi chảy thành dòng ở giữa ngực. Bó
lạt tre cặp ở lưng quần, chân giẫm nhèn nhẹt vào đất rơm, tay nổi gân
siết từng nuột dây, nuột nứa. Bà thì quần xắn đến tận đùi hết gánh đất
đến trộn rơm, hết nấu nước pha trà đến quằn vai vác tre khiêng gỗ.
Ngày êm ả tiếp theo ngày ngọc nhằn, nằm trong nhà nghe mưa rơi rào rào
trên mái, nghe gió rít từng luồng vật vã ở bờ tre. Nghĩ đến đây, bà oà khóc thành tiếng. Con chim bìm bịp cất giọng trở canh. Tiếng chim vang từ bụi rậm ở
bờ ao, lanh lảnh rền xa trong bầu không khí vắng yên mát lạnh. Bà Thủ
Hai luồn tay đẩy cánh cổng tre bước vào sân, vào nhà. Sự yên lặng rờn
rợn. Bà đi lại gần lay bà Xự. - Dậy! Chị. Mờ sáng rồi. Mơ hay tỉnh đây! Mình hiện giờ ở đâu? Ở trong quận hay còn ở nhà?
Hay đã chết rồi? Ông Xự Ơi! - Dậy gánh đồ đi chị. Gánh đồ đi. Thế nghĩa là nỗi khổ cực đang tiếp tục. Nó bị ngắt
quãng bời một giấc ngủ chập chờn, đầy mộng mị, bây giờ nó lại tiếp
tục. - Mẹ con con Bao và ông Trùm Đẹt đi cùng một chân với mình. Họ
ngồi chờ ở ngoài đường. - Mời họ vô nhà. - Thôi, ăn uống gì mà vô. Đi rửa mặt đi. Chà, gồng gánh gì mà nặng
dữ. Cửa ngõ nhà sau đã gài đóng kỹ chưa? - Dạ, gài tấn kỹ rồi chị. Gáo nước khua lổn cổn vào thành chum. Tiếng nước sóng sánh quen
thuộc, lạch tạch rơi xuống đất. Bàn tay vốc nước lã lên mặt. Mỏi mê ở
cổ. Cay nơi con mắt. Bà Thủ Hai quảy dùm gánh ra sân. - Cái nón đâu? Coi còn thiếu món gì không? Đóng cửa gài then lại
cho chắc chắn. Tiếng cánh cửa gỗ đóng "két", nặng và dài. Chùm lục lạc cột ở khuy
cửa khua rủng rẻng. Toàn là những tiếng quen thuộc, những tiếng quen
nghe từ hai mươi năm, hai mươi năm nay. Những bụi ớt. Giàn mồng tơi.
Đụn rơm. Cây mít còn ôm ấp những mảnh bóng tối. Cây ổi xá lị của thằng
Xang. Bà quay mặt đi không dám nhìn nữa. Cái gánh đè lên vai. Thôi tụi
bay ở lại. Má đi chắc không về. Tụi bay sẽ héo, sẽ khô không còn ai
tưới nước cho tụi bay nữa. Tha hồ những con chim sẻ, những con chim
quành quạch đục rỉa tụi bay. Má đi chắc không về nữa. Những người ngồi đợi trước cửa làm bà hơi yên lòng. Con mẹ Bao dẫn
hai đứa con. Mỗi đứa quàng một ruột nghé. Thằng cu Lớn đội cái mũ lính
bằng vải mềm màu phân ngựa. Thằng cu Nhỏ đầu quấn khăn trắng như để
tang. Nó bị miếng bom xẹt trúng cách đây một tuần. May không chết. Hai
đứa ngáp dài rồi trôm con mắt nhìn bà trân trân. Ông Trùm Đẹt đen và
gầy và cong như gốc tre già bị ám khói. Cái miệng móm riết lại, má
trũng sâu như hai lỗ đáo. Bộ râu dài lơ thơ, màu đục bẩn. Da thịt khô
cằn không nuôi nổi bộ râu. - Ông Trùm Sáu cũng đợi bữa nay mới đi? Đó là lời chào của bà. Giọng khàn khàn đụt hơi của ông Trùm Đẹt:
- Tôi đau gần chết chị Ơi. Bữa nay mới khoe khỏe một chút. Gắng
gượng mà đi. - Con mẹ Bao, mày đi Quy Nhơn hay đi đâu? - Dạ, cứ lần vô trong quận rồi coi đã. Họ gồng gánh lục tục ra đi, kẻ trước người sau trên con đường hẹp.
Sương ướt đầm ngọn cỏ quệt vào chân những luồng lạnh. Những ngày đi ra
đồng sớm, cỏ cũng quẹt sương vào chân lạnh như vậy. Đi co ro vòng tay
trước bụng hay thủ hai tay vô bụng thật dễ chịu. Cỏ mọc lấn ra đường.
Vắng người đi lại mới chừng hai tháng mà cỏ đã mọc lấn ra tự do. Không
có những mõm háu ăn của lũ bò đi qua thì cỏ và bụi cây tha hồ mọc. Bà
Thủ Hai mở lời: - Nghe vợ chồng ông xã Chí đã lọt ra Quy Nhơn rồi. Đi theo đoàn xe
hành quân. - Con ổng làm phó đại diện thì chính phủ phải để ưu tiên -Lời chị
Bao. - Bà Quảng mẹ Ông thư ký quận cũng đi theo công voa. - Tôi sợ lắm bà ơi. Thà đi bộ. Lỡ trúng nhằm mìn. Ông Trùm Đẹt lầm lũi bước không buồn nói năng. Người đàn ông
thường bạo dạn nhưng lại mau thất vọng hơn đàn bà. Ông không vợ, không
con. nhà nghèo không có phương tiện cưới vợ. Quanh năm cứ đôi dép cao
su lốp xe và cái rựa làm vật tùy thân để đi làm thuê làm mướn cho
người ta. Lúc bình thường vẫn phải vay gạo hàng xóm để nấu. Ra đi tản
cư mà chỉ có một cái khăn gói quàng trên vai. Đựng cái gì trong đó?
Không thể có nhiều gạo, giấy bạc và áo quần. - Vô trong quận kiếm nhà con Thâm ở nhờ, -bà Thủ Hai đủng đỉnh
nói.- Nghe nói nó làm ăn khá. Buôn bán có tiền. - Không chắc có còn chỗ. Cả xóm mình ai cũng nói vô ở nhờ nhà con
Thâm. - Không được thì mình kiếm nhà khác. Đồng bào tản cư mà, ai nỡ hẹp
bụng. - Thây kệ, tới đâu hay tới đó. Mình đã đánh nước liều rồi mà. Mình
đâu có muốn đi. Nhà cửa chắc gì còn dư để mình xin ở nhờ. Dân chạy
giặc cả một quận, hỏi ở sao cho hết nơi xóm Phú Tân nhỏ bằng bụm tay.
Nằm ngủ bờ ngủ bụi rồi cũng bệnh chết. Con đường đi trùng xuống, bao quanh bầu ông Chì. Lá ấu và rong
đuôi chồn làm mặt nước có màu xanh tối. Những con cò đứng rụt cổ ngủ
trên cành tre. Êm ái thanh bình là giấc ngủ. Phải chi lúc nãy chị Thủ
Hai đừng đến kêu mình dậy. Lại tiếng con bìm bịp. Một tiếng gọi ồm ồm,
hối thúc, giục giã. Một tiếng nhẹ nhàng như tiếng muỗng bột đổ vào
khuôn bánh xèo nóng mỡ. Hồi còn con gái mình đi chợ Giả về nghe tiếng
"xèo" của con bìm bịp, mình hay nói đùa với con Thiện "Thiện ơi, bước
lẹ lên đi mày. Ở nhà đúc bánh xèo chờ rồi đó". Thoáng chốc mà mình đã
già rồi. - Nè chị Năm, hay là vô Phú Tân rồi mình kiếm xe đò đi Tuy Hòa
luôn. - Tôi cũng chẳng có bà con nào ở Tuy Hòa. - Vô Tuy Hòa còn kiếm cách buôn bán chút đỉnh. Bán bánh mì, bán
chè cháo... - Già đầu còn đi bán bánh mì. - Kệ nó chớ. - Tùy ý chị. Tôi thì tản cư ở ít bữa. Liệu yên yên thì mò về. Mặt trời lên khỏi rặng núi A Man. Màu nắng vàng yếu ớt và rung
rinh. Chắc là tại đêm qua thiếu ngủ. Không có bóng con trâu trên cánh
đồng. Hai chiếc máy bay rà sát trên đầu, tiếp sau là tiếng nổ xé tai.
Mọi người nhào vào trong bụi. Thằng cu Nhỏ khóc thét lên. Không phải
bom nổ mà là tiếng nổ của máy bay. Mọi người lồm cồm bò dậy, phủi quần
áo. Lại tiếp tục đi. Lũ nhỏ mỏi chân cứ lạch bạch đi tụt đằng sau. Con
đường hun hút xuyên sâu vào giữa hai bờ tre. - Gắng chút nữa đi con. Gắng đi tới đập Đồng Cháy rồi má cho nghỉ
một lát. Tiếng nước chảy lào xào thoáng nghe từ xa dội lại. Đập Đồng Cháy.
Bà Xự cảm nghe như một cái nhói trong tim. Còn hai khúc quanh nữa thì
tới. Đi qua khỏi quán bà Diễn, đi qua khỏi đám bông của ông Cửu Chín.
Bước qua một con lạch. Tiếng nước đổ rào rào. Đi vòng theo một đoạn
đê. Lá tre khô nhũn nát dưới bàn chân. Xuống cái dốc hẹp. Đến đây rồi.
Lũ nhỏ mừng quá chạy lẹ đến gốc cây vông, tháo ném ruột nghé gạo
xuống đất. Mọi đòn gánh đều hạ xuống. Ông Trùm Đẹt tụt khăn lau mồ hôi
trán rồi cầm nón lên quạt. Chị Bao nắn đùi cho hai đứa con. Bà Thủ Hai
lần mở khăn gói trầu. Riêng bà Xự thì thẫn thờ đi lại gần mép nước.
Những cừ gỗ cao to, đóng lún sâu xuống cát, ôm choàng vào nhau,
xoạc chân để chống giữ sức nước. Khoảng giữa đập, nước đổ ào ào, bọt
tung trắng ngần. Bọt nước trắng vỡ ra, bị nước cuốn đi, chạy vội vã về
những miền xa lạ. Lau sậy hai bên bờ vật vã theo chiều gió cuốn, rung
rinh những tua hoa óng ánh tựa kim tuyến. Tiếng nước ào ào tuôn đổ, át
hết mọi tiếng động xung quanh. Nước tuôn từng mảng lớn, dày, uốn cong
lại, nước ánh như dầu. Nước đổ say mê, mải miết không dừng. Nước réo
tưng bừng, sôi sục, vẫy vùng. Tất cả tâm hồn bà Xự như bị cuốn hút
theo tiếng nước đổ và đang tưng bừng sống dậy. Không phải là sức sống
tàn tạ của tuổi năm mươi mà là sức sống ào ạt của tuổi hai mươi đam mê
mãnh liệt. Đập Đồng Cháy. Nơi đây bà đã gặp Năm Xự, đã để cho Năm Xự cầm tay
lần đầu. Hồi hai người còn đang ở tuổi xuân rụt rè. Thật là một buổi
xế chiều êm đẹp. Lụa - tên hồi còn con gái của bà - đang cắt cỏ ở bờ
soi mía kia. Gió giữa đồng trống thổi mạnh làm vật vã những thân mía
đang tơ. Giỏ cô đã cắt đầy mà trời còn sớm. Lụa bẻ lá rải thành một
cái nệm mỏng trên cỏ rồi ngả lưng nằm ngửa mặt nhìn trời. Da trời
xanh, cao vút, lảng vảng vài gợn mây mỏng. Mùi nhựa cây, mùi hoa dại
pha với mùi đất ẩm tạo thành một mùi thơm nồng, ngây ngất. Tiếng nước
đập đổ ồn ào, đều đặn như một điệu ru. Lụa lơ mơ nghĩ vẩn vơ. Mùa gặt
sắp hết. Đêm qua đập lúa cả đêm. Thằng Thất hát ghẹo con Hòa. Thằng
Được nói chuyện tiếu lâm tục tĩu quá. Thằng mất dạy. Con Cam thương
thầm thằng Xự. Mỗi lần bà Bông cáp đôi nó với Năm Xự là nó nhắm tít
con mắt lại cười. Năm Xự thì mắc cỡ. Năm Xự hiền, bộ mặt xinh trai.
Mùa gặt sắp hết rồi. Không còn những tối đập lúa rộn ràng, những đêm
khuya gánh lúa công đi về, đi từng hàng trên bờ ruộng hẹp. Năm Xự có
đôi lông mày đen rậm... Mùa gặt... Có những lúc nào đó Lụa bỗng quên hết, quên hết, quên hết, tâm hồn
lâng lâng nghe mơ hồ tiếng nước đổ ào ào rồi nhỏ đi thành tiếng rì rầm
rồi im bẵng mất. Rồi ào ào trở lại. Chợt nàng giật mình. Có ai đứng cạnh. Năm Xự. - Uở. Năm Xự lúng túng: - Tôi giắt bò đi tắm. Qua đây... Bằng những câu nói gì tiếp theo mà hai người có thể ngồi cạnh nhau
để nói cho hết cả buổi chiều, mãi cho đến lúc hoàng hôn gài từng miếng
tối vào lùm cỏ rối, vào từng bụi chim chim, bụi quít, bụi găng... Lụa
không còn nhớ nữa, chỉ biết là khi sắp chia tay, Năm Xự bạo dạn nắm
tay nàng mà nàng không phản đối. Trong sự im lặng ngượng ngùng, nàng
hồi hộp nghe tiếng tim mình đập và tiếng nước đổ ào ào như che chở,
như rộng lượng bảo vệ. Hai người thương nhau từ đó và nơi hẹn hò
thường là chỗ gặp gỡ ban đầu, nơi bờ soi này, bên đập nước đó. Luôn
luôn có tiếng nước đập ồn ào hiện diện. Bà Xự chợt nhìn xuống lòng nước, soi thấy bóng mình. Hình ảnh cô
Lụa tan biến vun vút. Hết rồi! Hết rồi! Không! Tôi không đi đâu hết. Tôi đã mất hết cả
rồi. Tuổi xuân xanh. Chồng tôi. Con tôi. Chỉ còn đập nước này mà tiếng
ào ào tuôn đổ không hề thay đổi. Nó đã nhìn thấy tôi tóc đen mướt và
má tròn phúng phính. Nó đã thấy tôi trẻ đẹp và được thương yêu. Chỉ có
nó. Nó nhắc nhở đến chồng tôi. Đến hạnh phúc của tôi. Mọi người khác
đều nói: "Chiến tranh. Chạy giặc. Súng nổ. Bệnh. Đói. Chết..." Tôi
không còn đủ sức để chống chọi. Cho tôi an nghỉ. Tôi sẽ không về ở
trên xóm, tôi sẽ về ở cái chòi trang giữ bắp nhỏ trên doi đất này, nơi
đó tôi đã gặp chồng tôi, ngày xưa. Tôi sẽ sống lây lất với củ lang củ
mì, với rau má rau dền, với hến với ốc. Thôi bà con đi đi. Chúc bà con
mạnh giỏi. Cho tôi ở lại. Không, xin cho tôi ở lại. Tội nghiệp thân
tôi. Tôi đã... Bà Xự vụt bỏ chạy. Dáng bà chênh vênh chạy loạng choạng trên bờ đê
cao. Chân sụp xuống mương. Té nằm xoài xuống. Lồm cồm ngồi dậy.
Chạy... Té... Gượng dậy. Chạy... chạy... Không... không... Đoàn tản cư về đến quận thì chỉ còn có năm người. chiều xuống vội
vàng khiến họ hối hả vừa đi vừa chạy. Phải đến nơi trước giờ thiết
quân luật. Từng đoạn đường dài sâu hun hút phải lặng lẽ chạy qua.
Không dám nhìn sang hai bên. Có miệng súng nào đang há tròn chờ sẵn đó
chăng? Có cặp mắt thau sáng quắc nào đó của con beo con cọp từ động
lớn về rình đó chăng? Bom đạn nổ tan rừng, cọp mò về đồng. Đồng sâu
núi thấp ngày trước còn rộn rã chân người, bây giờ vắng hoe nên trở
thành giang san của beo của cọp. Mọi người rùng mình. Quang cảnh lúc
nãy còn ám ảnh họ: đôi thúng đôi bao còn để đó mà mụ Xự đâu mất. Kêu.
Không có tiếng trả lời. Hú. Chỉ nghe tiếng núi vọng lại yếu ớt bên
cạnh tiếng đập nước đổ ào ào. Sục sạo tìm kiếm, đập bờ đập bụi. Vẫn im
lìm. - Coi chừng có mìn gài. - Chết coi chừng có mìn gài. Mọi người đồng nói như vậy và sự hăng hái bỏ rơi họ. Họ đi lò dò,
dáo dác nhìn trước nhìn sau. Lại kêu, hú. Núi đồi lại vang nhè nhẹ
tiếng hú mơ hồ. Mặt trời đã lên tận đỉnh đầu. Con đường đi về quận còn
dài. Máy bay rà trên đầu, tiếng động cơ ào ạt vụt qua, gầm nổ bưng tai
làm kinh hoàng những bầy chim. Chúng bay vụt từng đàn, bay tản mát
cánh đập loạn xạ. - Chị Năm ơi. Chị Năm Xự Ơi! - Ớ bà Năm. Mắt đổ hào quang và mồ hôi chảy thành dòng. Thằng cu Lớn, thằng cu
Nhỏ ngã chúi trên những bờ ruộng mấp mô. Sau một hồi tìm kiếm vô vọng,
họ trở về mé đập. Không ai nỡ quyết định bỏ bà Xự Ở lại nhưng mọi
người đều lặng lẽ quảy gánh lên vai. Phải gấp đi về quận trước buổi
chiều. Không ai nỡ nói lên ức đoán của mình nhưng ai nấy đều không
cưỡng nổi ức đoán. Sụp xuống một búng nước rồi chăng? Bờ mương con lâu
ngày không ai dọn cỏ, cỏ mọc um tùm chẳng còn biết chỗ nào là đất, chỗ
nào là nước. Bị ma giấu rồi chăng? Người chết nhiều quá những năm gần
đây, lắm xác chết không có người chôn cất. Thỉnh thoảng chó tha một
bàn tay, một mảng da có tóc bê bết cát bùn. Hay cọp? Hay beo? Đoàn tản cư chỉ còn có năm người, hấp tấp, hồi hộp, im lặng. Sau
lưng họ, con đập Đồng Cháy vẫn đổ tuôn từng khối nước lớn, tiếng dội
ầm ầm ào ào, bọt tung trắng ngần, vỡ ra, quay cuồng len lỏi chảy giữa
những tảng đá to màu xám.
|