Bầy bồ câu của
tôi, một số bị mèo vồ ăn thịt, một số bị mèo vồ
hụt sợ quá bỏ bay mất hết. Chỉ còn lại một đôi
vợ chồng. Có lẽ chỉ vì có hai cái trứng đã đẻ đó
không nỡ bỏ đi nên chúng còn lưu lại nơi cái
chuồng của tôi. Tôi phải chăng thêm nhiều lớp
dây thép gai chung quanh chuồng để bảo vệ cái
gia đình còn sót lại này.
Trong các
giống chim nhà, tôi yêu nhất những con bồ câu.
Chúng nó cái dáng đẹp đẽ với cái ức trọn trặn và
bộ lông mượt. Chúng có cái dáng quí phái với
những đôi chân manh mảnh màu hồng. Tôi còn yêu
mối tình đằm thắm của chúng đối với nhau. Những
buổi nắng đẹp chim đực đi xung quanh người yêu,
miệng rầm rì những lời thiết tha. Chim mái nằm
yên tĩnh lắng tai nghe. Sự dịu dàng của tình yêu
đó thật khác xa với lối biểu lộ tình yêu nông
nổi hạ cấp của lũ chim sẻ chẳng hạn, mồm nói
choèn choẹt và điệu nhảy lấc cấc, liến thoắng.
Lối mổ thóc, lối đi đứng lối bay của bồ câu cũng
có cái vẻ gì chững chạc đàng hoàng đặc biệt của
những người tự biết mình cao quí, không cần hấp
tấp vội vàng. Sự đằm thắm trong tình yêu, con
chim đực còn biểu lộ trong cử chỉ tha rác về làm
tổ. Rồi khi trứng đẻ ra rồi thì thay phiên với
vợ mà ấp. Đến khi con nở thì nhẫn nại đứng sú
mồi cho con. Lần đầu tiên thấy chim đực sú mồi,
con tôi lật đật chạy đi tìm tôi, miệng gọi ơi
ới. Tôi hốt hoảng tưởng có một tai họa nào xảy
ra cho nó. Thấy tôi, nó hơ hãi nói:
- Ba ơi… con
chim lớn… cắn con chim con.
Tôi vội vã
chạy ra xem và buồn cười nhìn lại vẻ mặt lo lắng
của nó. Tôi bảo:
- Con chim cha
đút mồi cho chim con ăn đấy.
- Nhưng mà nó
mổ ngay giữa cổ họng.
- Biết làm sao
bây giờ? Đó không phải là cử chỉ êm đềm nhất mà
nó chọn, chắc vậy, mà chỉ vì nó không có hai tay
khéo léo như ta. Hai tay nó đã phải biến thành
cánh. Nó phải mổ lấy thóc, để thóc vữa ra trong
cái diều rồi mới ựa ra cho con ăn.
- Nhưng nó
không thể làm việc đó dịu dàng hơn sao?
- Dịu dàng hay
không là theo ý xét đoán của mình. Con còn nhớ
hôm đi xem phim Misfits, lúc con ngựa mẹ bị trói
nằm xuống đất thở phì phò thì con ngựa con chạy
lại lấy chân khoèo khoèo vào mặt ngựa mẹ không?
Khoèo chân là để tỏ tình âu yếm, y như ta lấy
hai tay nựng vào mặt mẹ ta vậy.
Một tối kia,
có tiếng cánh chim rần rật bay hoảng từ lồng bay
vút lên đọt dừa. Lại bị mèo quấy phá nữa. Soi
đèn ra xem thì thấy một cái trứng bị rơi xuống
đất bể, lòng trắng chảy nhầy nhụa xuống cát.
Sáng hôm sau đôi chim bỏ ấp, đi thẩn thơ.
Nỗi căm giận
của tôi đối với con mèo hàng xóm đã lên đến cực
độ. Nỗi căm giận biến thành thù hằn. Tôi muốn
giết con mèo. Tưởng tượng khi bắt được nó tôi sẽ
bóp siết vào cổ nó cho thật chặt và tròng mắt
của nó sẽ lộ ra và thân hình nó sẽ dãy dụa và
cuối cùng nó tắt thở. Nhìn dáng nó đi uyển
chuyển trước hiên nhà, nhìn người hàng xóm vuốt
ve âu yếm nó, tôi càng tức giận hơn. Thà nó hung
bạo, xấu xí và cộc cằn! Tôi sẽ tha thứ nó. Ai nỡ
trả thù một người đau khổ, một người đã phải
chịu đựng nhiều nỗi bất hạnh và bất công. Đằng
nầy nó đi nhởn nhơ ra vẻ một người lương thiện
và chủ nó cũng an nhiên bình tĩnh dường như cũng
chỉ nghĩ đến điều thiện. Thật là bất công và vô
lý. Tôi (và lũ bồ câu của tôi) là nạn nhân, đã
bị đau xót lại còn bị dằn vặt bởi những ý nghĩ
thù hằn trong khi kẻ ác nhởn nhơ thoải mái.
Nhưng giết nó
đâu phải dễ. Thà bắt gặp nó đang cấu xé con bồ
câu của tôi, lúc ấy tôi sẽ có đủ hăng máu để
giết. Đằng nầy khi nào gặp nó là y như tôi chỉ
thấy nó dịu dàng và uyển chuyển, vẻ mặt hoặc
trầm tư hoặc thơ ngây. Tôi không đủ sức bạo tàn
để làm hại một kẻ thù giữa lúc nó hiền lành như
vậy. Chỉ còn có cách tôi cố bảo vệ lấy kỹ lưỡng
hơn nữa đôi bồ câu còn lại.
Suy nghĩ nhiều
ngày, tôi quyết định thuê người lấy lưới thép
giăng thành một cái lồng thật lớn và đặt cái
chuồng bồ câu vào trong lòng. Thế là chúng vẫn
có phòng ăn ở kín đáo, có điều chúng chỉ được
bay quanh quẩn trong lồng. Tất cả những tiện
nghi tôi đều lo cho có đầy đủ: lúa, bắp, đậu
xanh, rau xà lách, nước uống và nước tắm. Cuộc
sống tạm gọi là yên ổn. Tuy nhiên để tránh chủ
quan, tôi dặn con tôi hãy lưu ý đến dáng điệu
của chúng xem chúng có tỏ vẻ buồn bã, ủ rũ
không. Vì nỗi lo lắng đó mà khi thấy con đực
đứng gù gù bên cạnh chim mái hoặc thấy chim mái
lấy mỏ rỉa nhẹ vào lông má chim đực là lòng tôi
vui không xiết. Và mươi ngày sau, tôi thấy chim
đực tha rác. Thế là tôi thành công. Con tôi vui
nhảy hớn hở. Bữa cơm trưa hôm đó của chúng tôi
vang lên nhiều tiếng cười nói hơn mọi ngày. Và
rất cần mẫn, con tôi cứ lấp ló nhìn xem chim đã
đẻ chưa.
Ngày nó thấy
hai cái trứng mới đẻ trên ổ rơm, nó chạy ra tận
đầu phố để đón tôi về mà báo tin mừng. Chúng tôi
rối rít lo mua thêm đậu, thêm cả mè, để thưởng
cho chim. Và chim chia phiên nhau ấp. Tôi bàn
với con tôi:
- Bây giờ
chúng đã đẻ trứng rồi thì có lẽ ta nên cho chúng
bay tự do một chút.
Con tôi vội
phản đối:
- Không được.
Thả ra sợ chúng bay mất.
Tôi vừa ngẫm
nghĩ vừa nói:
- Chẳng có lý.
Chúng đã đẻ rồi thì thế tất chúng yêu con mà
chẳng nỡ bỏ đi. Nhốt chúng trong một cái lồng,
tù túng quá cũng tội. Cho bay đây đó một chút
thì chúng mới có đủ sức khỏe.
Con tôi hơi
xiêu lòng, chỉ phản đối yếu ớt lấy lệ:
- Con sợ nó
bay mất. Nhưng mà… có lẽ ba nói đúng. Nó thương
con, chắc chẳng bay mất đâu.
Câu chuyện
trao đổi chỉ đến đó.
Hôm sau khi
tôi đi làm về, con tôi ra đón ở cổng. Vẻ mặt nó
đăm chiêu. Thấy tôi nhìn nó có ý ngờ vực, nó nói
giọng rụt rè:
- Ba ơi! Con
chim đực bay mất rồi.
- Sao vậy? -
Tôi vội hỏi.
- Con nghe lời
ba, sáng nay mở cửa lồng. Con bồ câu đực vụt bay
ra mất.
- Còn con mái?
- Con lật đật
đóng cửa lồng lại. Con mái bay không kịp.
- Bậy chưa!
Sao con không hỏi ba mà tự ý thả như vậy? Bây
giờ biết làm sao? Nuôi một con thì nó sống thế
nào được? Mà nuôi một con thì để làm gì? Chẳng
lẽ bắt ăn thịt. Mày thật là vô tích sự. Ở nhà
không lo học. Chỉ có tài nhanh nhẩu đoản. Tao
chán mày lắm.
Giọng tôi gằn
gằn một lúc một nhanh hơn. Con tôi vừa sợ vừa
hối hận, nước mắt lưng tròng, ngước nhìn tôi
không nói. Tôi chợt thấy là tôi đã rầy oan nó.
Chính tôi đã bàn việc thả cho bồ câu bay tự do
một tý, thế mà bây giờ tôi lại đổ tội cho nó.
Trong cơn giận, người cha nào cũng hay bất công
như vậy. Không dám nhận lỗi mình mà chỉ đổ lỗi
cho người khác, cho cả ngay chính con mình. Tôi
ngượng, để tay lên vai con tôi:
- Thôi. Cứ vào
rồi sẽ tính sau.
Con tôi líu
ríu đi cạnh tôi, dáng thất vọng rõ rệt. Tôi hỏi:
- Từ sáng đến
giờ con chim đực có bay về không? Con có ngó
chừng lên mái nhà không?
- Có. Con có
ngồi đợi cho nó về. Nhưng nó không về.
- Bội bạc.
Tôi buông một
tiếng. Quả thật tôi không ngờ con chim có thể bỏ
vợ con lại nơi giam cầm, - trong óc nó chắc nghĩ
vậy, - mà đi tìm tự do một mình. Nỡ đoạn tình
vậy sao? Đoạn tình đến mức không hề bay trở lại
qua nhà để tìm xem vợ con mình ra thế nào, còn
hay mất. Người ta nói bồ câu chung tình và tôi
cũng tin như vậy. Nhưng hôm nay không những tôi
mất lòng tin nơi chim mà tôi còn mang nặng thêm
hoài nghi nơi người. Chung tình có phải là một
thái độ tình cảm thành thật đâu? Khi có điều
kiện thuận tiện, rất thuận tiện để bạc tình thì
người ta liệu có từ chối sự bạc tình không? Tôi
mất đi lòng tin nơi thiện tâm của con người, đó
là một sự mất mát lớn. Vì trong vài ngày sau đó
lòng tôi không được vui.
Tôi săn sóc
con chim mái để bù vào nỗi cô đơn mà nó phải
gánh chịu. Nhưng nó bỏ ăn đứng im lìm một mình.
Bỏ trứng không ấp nữa. Ai ở vào hoàn cảnh nó
cũng sẽ làm như vậy vì cái lồng trống trơn như
luôn luôn nhắc nó nhớ đến những kỷ niệm êm đềm
với người chồng ra đi. Dưới vẻ mặt trầm tư xa
vắng đó, không biết nó nghĩ gì? Nó nhớ chồng? Nó
giận chồng? Hay nó giận tôi, thù tôi?
Buổi chiều,
con chim đập cánh phành phạch bay bám vào mắt
lưới tìm lối ra. Lông đầu của nó xơ xác. Cánh xệ
xuống. Con tôi nói:
- Hay mình đem
thả con mái luôn đi ba.
Đúng là ý nghĩ
của tôi lúc ấy. Nên tôi nổi giận quay lại:
- Sao lại thả
ra? Chưa chi đã chịu thua trận, đó không phải là
một tính tốt. Phải tìm mọi cách để nuôi cho kỳ
được. Người ta nuôi bồ câu, sinh đẻ hàng bầy,
bay đi bay về nườm nượp, chẳng lẽ mình chịu thua
sao?
Con tôi không
trả lời được. Tôi tiếp:
- Chúng ta
phải tìm mọi cách để thắng. Chúng ta phải thắng,
con hiểu chưa? Con có cách gì không?
Cố nhiên là
con tôi không có cách gì hết, vì cả ngay tôi
cũng đang lúng túng. Quả tình việc nuôi bồ câu
của tôi gặp nhiều trở ngại quá khiến tôi đã chán
muốn bỏ từ lâu, nhưng vì tự ái mà tôi đã nhẫn
nại, cố tìm mọi cách để nuôi cho được. Tôi cũng
đồng thời muốn gián tiếp dạy cho con tôi một bài
học kiên trì, đừng vội nản chí khi gặp thất bại.
Nhưng đã tới mức này, tôi không biết giải quyết
ra sao. Tôi biết rằng quần chúng có nhiều kinh
nghiệm về mọi địa hạt nên tôi đem thảo luận vấn
đề với những người mà tôi quen; ông thợ cắt tóc
mà tôi gặp mỗi nửa tháng, bà chủ tiệm gạo, ông
quản lý sở tôi - người có tuổi và tháo vát, ông
liên gia trưởng ba hoa hay nói lạc đề, cả cô thư
ký giữ máy điện thoại nữa.
Mọi ý kiến
không giống nhau. Ông quản lý không tán thành
việc nuôi bồ câu: chúng ỉa bẩn và đi lại trên
mái nhà làm tuột ngói. Nên ông đề nghị: “làm
thịt quách con bồ câu còn lại”. Cô thư ký phản
đối: “Ai lại nỡ ăn thịt một con bồ câu dịu dàng
như vậy? Thà thả nó ra cho nó tìm một người yêu
mới”. Ông liên gia trưởng chưa kịp nghe tôi
trình bày đầu đuôi câu chuyện đã bắt tôi nghe
hơn nửa giờ về phương pháp thu cây rào để rào ấp
chiến lược. Bà chủ tiệm gạo siêng năng đi lễ
Phật khuyên tôi phóng sanh con chim đi. Chỉ có
anh thợ cắt tóc là có vẻ hiểu rõ vấn đề hơn hết.
Anh nói:
- Ông sai
người ở đi chợ lựa mua một con bồ câu đực về đem
thả chung vào lồng với con mái.
- Nhưng bồ câu
người ta bán cả cặp mà, - tôi nói.
- Mình có thể
trả mua một con cũng được. Cũng có khi người ta
bán lẻ riêng từng con.
- Phải đi
xuống chợ Đầm?
- Cần gì. Chợ
Xóm Mới cũng có. Một bà già người Bình Định lâu
lâu mang bồ câu vào bán cả giỏ. Tôi mới thấy hôm
qua kia đây.
- Nhưng mua về
biết con mái nó có chịu không?
- Được mà.
Tôi về, kêu
chị ở dặn tìm mua một con bồ câu đực. Vừa ra
lệnh mà vừa sợ chị ta hỏi lại. Chẳng hạn nếu chị
bảo: “Làm sao tôi biết nó là con bồ câu đực”,
thì tôi sẽ lúng túng chẳng biết trả lời sao. May
thay, chị cầm tiền đứng ngần ngừ một lát rồi
lẳng lặng đi xuống nhà sau. Tôi dặn vói theo:
- Mua một con
cũng to như con mái. Lựa cho cùng một màu trắng
đẹp, kẻo con mái nó chê.
Hai hôm sau,
lúc tôi đi làm về, con tôi ra mét:
- Chị Hai mua
được bồ câu rồi ba à.
Tôi mừng quá,
không ngờ công việc được tiến hành nhanh chóng
đến thế. Tôi hỏi:
- Nó đâu?
- Chị Hai thả
vào lồng rồi.
Tôi bước ra
lồng, thấy có con bồ câu mới, hơi nhỏ hơn con
mái một chút.
Chị Hai từ bếp
đi ra đứng cạnh tôi.
- Thưa thầy,
bồ câu Tây đó.
- Nhưng có
chắc là con đực không?
- Bà già bảo
đúng là bồ câu đực.
Con tôi cầm
lấy bàn tay tôi, nói chen vào:
- Hai đứa nó
chưa quen nhau, ba nhỉ? Mỗi đứa đứng mỗi nơi.
Tôi biết con
tôi là người sung sướng nhất trong ba người đứng
đây. Nỗi lo buồn vì tự mình thả sống con chim
đực, chắc đến giây phút này nó mới xóa được. Tôi
dắt tay nó vào nhà, vừa nói:
- Mong cho hai
đứa nó thương nhau.
Nhưng chiều
hôm đó từ lồng chim vang lên tiếng vỗ cánh rần
rật. Lại con tôi chạy vào hơ hãi nói:
- Ba ơi chúng
nó cắn nhau.
- Con nào cắn
con nào?
- Con mái cắn
con đực.
Tôi bước ra
sân. Con chim mái đang mổ tới tấp vào con chim
đực. Chim đực né tránh rồi đứng dịch ra xa hơn.
Nhưng chim mái lại sấn tới mổ vào cánh, đôi cánh
để lè phè và lông xơ xác không đều đặn. Chim đực
kéo lui đôi cánh một cách vụng về lúng túng.
Chim mái mổ bốn năm cái liên tiếp vào đầu chim
đực khiến chim đực bay bám vào mặt lưới sắt, thò
đầu ra mắt lưới tìm chỗ thoát. Làm sao để giải
cứu cho con chim đực bị ruồng bỏ kia? Tôi la “ùi
ùi” và con chim đực tuồng như tăng thêm sợ sệt.
Còn con mái thì cứ tròn xoe đôi mắt không tỏ
dáng xúc động. Giá có một khuôn mặt linh động
như người thì tôi tin rằng nó sẽ nhíu đôi mày và
bặm môi để tỏ sự căm thù con đực và bất cần sự
có mặt của tôi. Tôi nói lời dỗ dành như chỉ theo
một thói quen:
- Đừng mổ nó
chớ. Mổ nó chi tội nghiệp vậy?
Lời nói thật
vô ích. Chỉ có con tôi nghe mà thôi và cũng như
tôi, nó cũng cố ý che lấp sự bất lực của mình
bằng những câu nói vô ích như vậy.
- Con bồ câu
mái trông vậy mà hung tợn quá ba nhỉ?
- Ừ. Khi người
ta… ghét thì người ta trở nên hung bạo.
Ý tôi đang
nghĩ rằng: “khi người ta không yêu thì người ta
tàn nhẫn”, nhưng nói cho con tôi nghe, tôi phải
đổi như vậy. Thật tình là tôi đang chuyển từ
phạm vi chim sang địa hạt của người. Tôi nhớ
rằng khi yêu, con người có thể hạ mình làm những
việc tầm thường, thậm chí có thể làm những ngu
si được. Nhưng khi đã không yêu thì họ tàn nhẫn
lắm. Họ giả vờ bỏ mất địa chỉ để không viết thư
trả lời, họ nói dối là bận lắm để khỏi gặp mặt,
họ mong tìm thấy một lỗi nhỏ nơi người kia để
lấy cớ mà giận mà tuyệt giao. Con người có trí
khôn nên yêu ghét đều cực đoan.
Nhưng con chim
bồ câu, tôi không hiểu nó ghét vì lẽ gì. Theo
lời một người bạn tôi kể lại thì anh có đọc
trong một trang sách nào đó bảo rằng bồ câu là
một giống chim không sống được trong cảnh cô
đơn. Phải có cho nó một người bạn, nếu không
khác phái thì tạm đồng phái cũng được. Người ta
thí nghiệm rằng nếu nuôi nó trong một cái lồng
bốn mặt có gương phản chiếu lại thì nó sẽ yên
lành mà sống trong đó vì có hình ảnh của nó làm
bạn với nó. Một con vật có nhiều thiện ý bằng
hữu như vậy sao nỡ hành hạ một người bạn đã được
chọn cho mình và xứng đáng với mình? Hay là vì
nó thủy chung với người chồng cũ? Ừ nhỉ! Nghĩ
đến đây, tôi nhìn nó với đôi mắt trìu mắt. Thì
ra chỉ có bồ câu mái mới biết chung tình. Tôi
xấu hổ lây cho con bồ câu đực hôm nọ, bỏ người
vợ chung tình lại một mình, ra đi không hề ngoái
lại. Người vợ đó hôm nay vì anh mà cự tuyệt một
người đàn ông khác đẹp đẽ không kém anh. Chung
tình với một người bội bạc, trường hợp đó thật
cao quí, và chỉ phái yếu mới có. Tôi nghĩ xa hơn
một chút và kết luận: đàn ông như mình thật đáng
ghét.
Sau một hồi
hưu chiến, con bồ câu mái lại chạy a vào mổ tới
tấp vào con bồ câu đực. Ý chừng nó thấy tôi chịu
đứng bất lực ngoài lồng không thể viện trợ gì
được cho kẻ thủ của nó nên nó mở cuộc tấn công
lại. Con bồ câu đực lại né tránh và chạy dài.
Đôi cánh kéo lết dưới sàn lồng. Một cái lông
măng dính nơi mỏ của chim mái. Với món chiến lợi
phẩm nầy dính nơi mỏ, con chim mái trông thật vũ
phu.
Con tôi bỏ chỗ
đứng đi lại phía con chim đực, có lẽ để tỏ lòng
ưu ái với một chiến sĩ có thừa sức khỏe nhưng
không nỡ tay đánh một người đàn bà. Vẻ mặt nó
đăm chiêu và ra dáng đau khổ. Hai má nhếch lên
vẽ những đường nhăn ở hai khóe mắt. Tôi chắc nó
lại nghĩ đến cái lỗi của nó đã trót thả con chim
đực bay mất hôm trước. Nếu nó không vụng tính
đến nỗi làm cái việc dại khờ đó thì làm gì có
cảnh đau khổ hôm nay. Tôi đi lại kéo tay con tôi
vào nhà vừa bảo:
- Thôi, mặc kệ
nó.
- Nhưng con
hối hận quá.
- Đã trót rồi
thì đừng nghĩ đến nữa. Vả lại, một con chim thì
có giá trị gì. Điều cần nhất là con nên rút từ
đó ra một bài học.
Ngày hôm sau
con chim mái bớt vẻ hằn học, do đó con chim đực
có đủ bình tĩnh để xếp lại đôi cánh cho gọn gàng
hơn. Hai đứa chia nhau đứng mỗi đứa một góc
lồng. Mặt chim đực buồn bã. Ngày hôm sau nữa,
chúng đứng gần nhau hơn. Đến ngày thứ tư, thứ
năm gì đó tôi không nhớ rõ, chúng đứng sát cạnh
nhau. Sự thù ghét chấm dứt và được nối liền bằng
tình yêu. Dường như không có một khoảng trống
nào giữa hai tình cảm bị diệt, mâu thuẫn đó.
Đến đây, tôi
không muốn dễ dàng để trí óc mình suy nghĩ và
kết luận về đời sống tình cảm của lũ chim nữa.
Chúng ghét đó rồi yêu đó, thủy chung và bạc tình
đi cạnh nhau. Nhưng thú thật là tôi rất yên tâm
khi thấy chúng không còn gây rắc rối cho tôi
nữa. Những mối tình êm đẹp ở loài chim hay ở
loài người cũng đều không gây tò mò thích thú
nơi kẻ bàng quan. Con tôi lại bình tĩnh đợi chờ
ngày mối tình ấy có kết quả. Những cặp trứng màu
trắng nho nhỏ xinh xinh được nằm trên nệm rơm êm
nhưng lần ấp nào cũng không thành. Đôi lần, ba
lần, hy vọng rồi thất vọng liên tiếp, rốt cuộc
chúng tôi chỉ nhớ chi tiền mua thóc cho chim ăn,
còn thì không để ý gì đến chúng nữa. Cho đến một
tối kia thừa lúc cửa chuồng đóng không kỹ, con
mèo hàng xóm lẻn vào bắt mất con chim mái. Nhưng
tôi đã chán sự thù hằn rồi. Tôi đã chán cả hy
vọng rồi. Nhằm lúc đó có một người quen đến chơi
ao ước nuôi bồ câu, tôi tặng cho anh ta cái
chuồng chim và cả con chim đực cô độc.
Rút bỏ đi được
sự rối rắm trong việc nuôi chim nhưng quả tình
lòng tôi chưa thoát được những ấm ức. Tại sao
người ta vẫn nuôi được. Ông liên gia trởng hay
nói lạc đề của tôi có một chuồng bồ câu lớn với
nhiều tiếng gù, tiếng rên rỉ, tiếng vỗ cánh rộn
ràng. Nhà ông công chức ở cạnh sở tôi làm vừa
dựng thêm một chuồng bồ câu thứ hai. Mỗi khi
nhìn qua cửa sổ là mắt tôi bắt gặp lũ chim hớn
hở bay lên đậu xuống. Dĩ vãng nuôi chim của tôi
bừng sống dậy và tôi cảm nghe trong lòng như có
một nỗi buồn dâng lên. Trong khi ấy thì tôi lại
gặp được nhiều người cũng chán nản bỏ cuộc như
tôi vậy. Thành ra để tự an ủi mình, tôi hay đem
câu chuyện nuôi bồ câu ra nói, mong tìm những sự
thất bại cụ thể nơi những người kiên nhẫn nhất
và có nhiều điều kiện để tích cực hơn tôi.
Nỗi niềm đó
mấy ai hiểu thấu? Chẳng hạn một chiều nọ, một cô
bạn mời tôi đến nhà thầy mẹ cô chơi. Khi cô đưa
tôi ra sân để giới thiệu những chậu hoa hồng,
hoa sói do bàn tay khéo léo của mẹ cô vừa chiết
được, tôi lơ đãng nghe và nhìn mà chỉ chú ý đến
bầy bồ câu đang bay qua bay lại từ chuồng đến
mái nhà. Khi người em trai của cô đi qua, tôi
giữ lại hỏi:
- Anh Vĩnh
này, anh nuôi bồ câu có thành công không? Có lợi
đích xác làm anh bằng lòng không?
Vĩnh đang ngẫm
nghĩ để xếp đặt một câu trả lời thì cô bạn tôi
nói ngay:
- Sao lại
không lợi? Bồ câu đẻ mỗi tháng mỗi lứa…
Tôi phải xin
lỗi ngắt lời cô bạn mà nói:
- Có lẽ Vĩnh
biết rõ vấn đề hơn cô. Lâu lâu cô mới về thăm
thầy mẹ, chắc cô không được rõ đâu. Ý tôi muốn
hỏi Vĩnh, - chẳng hạn: bồ câu có bị mèo hàng xóm
chụp không?
Vĩnh tươi cười
ngay vì câu hỏi chi tiết dễ trả lời hơn câu hỏi
tổng quát lúc nãy.
- Dạ, bị mèo
vồ luôn.
- Có hay bị
trẻ con hàng xóm bắn ná cao su không?
- Dạ, cũng đó
xảy ra luôn. Bồ câu đang ấp mới bay xuống đường
là bị bắn chết một con. Con còn lại bỏ ổ không
ấp nữa.
- Có phải
nhiều khi có một cặp trứng mà ấp chỉ nở có một
con?
- Dạ, có vậy.
- Bồ câu dễ
mắc bệnh lắm?
- Vâng.
- Thế thì nuôi
chúng chẳng lợi mấy…
- Vâng ạ. Mấy
tháng đầu thì có lợi, ham lắm. Nhưng sau lần lần
thì hơi chán…
- Cám ơn câu
trả lời của Vĩnh.
Vĩnh và cô bạn
tôi đều tỏ ra ngạc nhiên không hiểu ý tôi muốn
nói gì. Tôi giảng giải:
- Tôi nuôi
chim bồ câu bị thất bại nên bỏ không nuôi nữa.
Mặc dù tôi đã kiên nhẫn nhiều nhưng tôi vẫn cho
rằng tại mình mau nản lòng nên vẫn có ý ngầm tự
trách. Do đó mà tôi muốn nghe người khác nói lên
sự thất bại, sự chán nản để tôi được an ủi.
Vĩnh mỉm cười
thú vị vì ngẫu nhiên mà chúng tôi cùng một tâm
trạng như nhau. Chắc Vĩnh đang cần một sự an ủi
tương tự như tôi vậy. Cô bạn tôi thì dáng không
vui. Một người đàn bà đang còn đẹp, ít khi chịu
để cho một người đàn ông nói trái ý mình.
Đích thực là
càng ngày tôi càng yên tâm rằng tôi không nên
hối tiếc vì sự nuôi chim thất bại. Nhưng lòng
yêu chim bồ câu của tôi, tôi thấy vẫn không suy
giảm. Tôi sẵn lòng yêu bất cứ chim bồ câu nào
của ai mà tôi bắt gặp, mà tuyệt nhiên không có ý
tưởng muốn nuôi nó làm riêng của mình. Cái đầu
nhỏ, đôi mắt đen láy, cái cổ mảnh, cái ức gọn
gàng, tất cả sự dịu dàng ấy ám ảnh tôi, ám ảnh
cả vào những lúc mà tôi không ngờ nhất.
Tôi nhớ có lần
tôi đi dự một nhạc hội. Người ca sĩ được giới
thiệu, tôi đã nhiều lần nghe giọng hát ở đĩa
nhựa và máy thu thanh. Đêm nay cũng giọng hát
trầm ấy thổn thức nức nở, như kéo là là xuống
mặt đất, như muốn tràn ra mênh mông, như muốn vỡ
ra từng mảnh. Tôi nhìn lên tấm thân manh mảnh
của nàng trong tà áo màu ngà, với mái tóc buông
dài, với đôi má trắng, đôi mắt đen láy. Có những
lúc giọng hát trầm quá tôi chợt lo rằng nàng sẽ
không giữ được thăng bằng, giọng hát trĩu nặng
xuống và nàng sẽ chênh vênh, và nàng sẽ ngã.
Nhưng nàng vẫn đứng đó, tà áo màu ngà manh mảnh,
đôi má trắng, đôi mắt đen và giọng hát vẫn êm
đềm thổn thức. Con chim bồ câu! Thoáng một giây,
tôi nghĩ đến con chim bồ câu, con chim bồ câu
trắng dịu dàng, con chim bồ câu không phải của
riêng tôi nhưng mà tôi sẵn sàng mến yêu bất cứ
nơi đâu và chẳng cần biết là của người nào. |