Những bài cùng tác giả
Không rõ tôi bị cận thị từ bao giờ, chỉ nhớ hồi còn nhỏ chưa đầy mười tuổi
tôi đã phải nằm đắp thuốc lên mắt. Khi đi học, ngồi cuối lớp không trông
thấy chữ trên bảng, tôi rất sợ đi học. Đến lúc ở nhà khám phá ra, đưa tôi đi
mua kính thì tôi đã đeo kính số -3,5. Đeo kính vào, nhìn xuống đất thấy ngay
dưới chân mình có một cái hố sâu từ từ dốc ngược lên trước mặt. Biết là giữa
nhà không làm gì có hố nhưng mắt thấy rành rành, tôi ngần ngừ rồi giơ chân
lên bước xuống hố, dẫm đánh bạch một cái ! Phải mất một thời gian tôi mới
hiểu tại chưa quen với kính.
Ở Việt-Nam tôi chỉ đeo kính mỗi khi nhìn bảng. Sang Pháp, quen lệ, đi đường
cũng không đeo, xuống tầu hầm (métro) phải hỏi thăm đường, tôi cho là chuyện
dĩ nhiên vì mình "lạ nước lạ cái". Cho đến hôm gặp một người hỏi có biết đọc
không, tôi nói "Có", ông hỏi :"Đã biết đọc sao không nhìn bảng chỉ đường ?".
Từ đấy đôi kính không bao giờ rời tôi, thấm thoắt đã mấy chục năm. Cái kính
đầu của tôi ở Pháp mang số -9, cái kính sau cùng, trước khi đi mổ mắt, là
-16.
Có kính, tôi đi lại, đọc sách dễ dàng, chỉ khó khăn khi phải nhìn xa. Thời
sinh viên, mỗi khi đi dạ hội, cô em vẫn phải nhắc :"Chị cười đi, người ta
đang cười với chị". Tôi cười như một cái máy mà không biết mình cười với ai
giữa cái biển đầu người nhấp nhô. Tôi hỏi :"Ai ?", "Ở chỗ nào ?" thì em tôi
nói :"Thôi, người ta thấy chị không cười lại đã bỏ đi rồi".
Chuyện tôi đi ngoài đường gặp người lạ thì chào còn gặp người quen đi thẳng
là thường. Tôi giải thích, có người thông cảm, nhưng số người giận tôi không
phải là ít.
Khi sang Anh làm cho đài BBC, người bạn đi đón kể :"Mình thấy bà ấy từ xa,
cười với bà ấy nhưng bà ấy cứ điềm nhiên. Mãi đến khi mình cười đã mỏi
miệng, tắt cười rồi mới thấy bà ấy toe toét !".
Thấy người ta đi trượt tuyết, "thuyền đua thì lái cũng đua", tôi cũng ghi
tên. Ai ngờ buộc giầy vào chân rồi là cái chân cứ chạy phăng phăng không
thèm hỏi ý kiến mình mà đằng trước thì mịt mù (như tương lai của tôi) chẳng
biết chỗ nào có hố mà tránh, tôi phải cố ý ngã lăn ra để dừng lại. Từ hôm ấy
tôi nhận thấy mình khoái đi bộ ngắm cảnh hơn.
Đã hơn hai chục năm nay kính của tôi không thay đổi nên năm ngoái (1995),
tôi có ý muốn mua một cặp thật tốt, thật đẹp, dùng mãn đời. Khi đeo kính
mới, cô hàng kính hỏi có thấy rõ hơn không ? tôi ngạc nhiên thấy mờ hơn cũ.
Tháo ra, lau, đeo lại, chưa đầy một phút kính lại mờ, hóa ra vì tôi quá mê
có một cái kính thật tốt đã đặt họ tráng lên mặt kính đủ thứ thuốc, nào để
đỡ lóa mắt, nào để nước mưa trôi đi không nhòa, nào để đỡ bị
sây sát vv., vì
thế kính trở nên khó tính, gặp nóng lạnh không vừa ý là làm mình làm mẩy, mờ
đi, cả ngày tôi phải lau. Nhưng lau đi lau lại vẫn thấy mờ, bấy giờ mới biết
bệnh đục nhân (cataracte) của tôi, chớm từ những năm tám mươi, đã trở nên
trầm trọng. Tôi hỏi bác sĩ sao tôi chăm uống thuốc ngừa mà bệnh vẫn trở nặng
thì ông cười :"Thuốc đã cầm bệnh cho chị hơn mười năm nay bây giờ mới trở
bệnh, chị còn muốn gì nữa ?".
Tôi thù mấy cái bậc thềm đá của trường Viễn Đông Bác Cổ, trong con đường tối
tăm, trước cái cửa kính dẫn lên phòng đọc sách. Thềm gì quái ác, bậc không
viền mầu khác đến nỗi lần đầu đi xuống tôi suýt ngã bổ chửng vì tưởng chỉ là
một phiến đá phẳng lì. Sau rút kinh nghiệm, trước khi bước xuống, tôi đưa
một chân dò dẫm, nhưng nếu có người, dò dẫm hơi kỳ, tôi phải giả vờ đứng lại
sửa áo, loay hoay tìm kiếm cái gì hay làm như mệt nhọc phải dừng chân để
thở, đợi cho người ta đi chỗ khác. Dần dần tôi ít dám đi đâu.
Nhưng ngồi nhà nào có hơn ? Tôi đã từng rót nước ra bàn vì lẽ giản dị là cái
cốc trong suốt nó nhìn thấy tôi nhưng tôi lại không thấy nó ! Đọc sách báo
thấy chữ cứ mờ mờ nhạt nhạt, mấy lần tôi toan cầm bút yêu cầu tòa báo không
nên hà tiện mực, giờ mổ mắt rồi bỗng thấy chữ đen nhánh, nét sắc sảo chói
chang trên giấy trắng nhìn đến nhức mắt, mà cũng vẫn những tờ báo ấy ! Đánh
máy thì trước kia phải cúi gầm đầu xuống, cổ mỏi ơi là mỏi, mà nào bài tôi
viết có "tràng giang đại hải" gì cho cam ! Tóm lại, chuyện đi giải phẫu mắt
đã trở nên khẩn thiết, dẫu sợ hãi cũng đã đến lúc không lùi được nữa.
Tôi đã từng đi mổ ung thư, từng đi nhổ răng, tuy không thích nhưng không lẩn
trốn, riêng với đôi mắt thì tôi đặc biệt sợ hãi, chưa ai đụng đến tôi đã
chớp, máy đo áp suất tiến đến đâu là tôi lùi đến đấy đến nỗi bác sĩ phải thò
tay ra sau đầu tôi giữ lại và luôn miệng trấn an, mắt tôi vẫn chớp lia lịa.
Lâu dần quen cũng đỡ sợ, nhưng tôi vẫn "khảng khái" từ chối không cho soi
mắt, nó có nghĩa là đút vào mắt một loại kính để soi cái võng mạc (rétine)
trong mắt có triệu chứng bị bong ra hay không ? Tôi kiếm đủ cớ để trốn tránh
: nào là mới bị trọng bệnh trong người còn yếu, nào là vẫn còn trông rõ
đường, nào là bận nhiều việc... Tôi đặc biệt chọn một bác sĩ người Việt để
dễ "điều đình". Quả nhiên ông không ép, chỉ khuyên tôi nên nghĩ đến chuyện
giải phẫu. Sau một thời gian trì hoãn, cuối cùng tôi thu hết can đảm đến cho
ông soi mắt. May mắn mắt tôi chỉ bị cận thị nặng chứ không có tật khác.
Paris có hai bác sĩ nhãn khoa hàng giáo sư, nổi tiếng trong cộng đồng người
Việt. Tôi chọn ông H.X.T. ở bệnh viện B. vì ông đã mổ cho khá nhiều người
tôi quen biết, kể cả người trong gia đình, ai cũng khen. Vi quá sợ hãi, muốn
"điều đình" nên tôi xin gặp riêng, và đã chuẩn bị tinh thần để ông đút kính
soi mắt lần nữa. May sao ông chỉ dùng đèn soi từ bên ngoài, tôi nghĩ chắc
nhà thương có máy tối tân.
Trước khi gặp, tôi dò hỏi và suy nghĩ về vấn đề chữa
cả cận thị lẫn đục nhân cùng một lúc. Có người, đáng tin cậy, khuyên tôi
đừng, hay ít nhất cũng chữa đục nhân trước, sửa cận thị sau, song cũng có
người đã mổ và sửa cả cận thị cùng một lúc nói ngược lại là "rất nên". Tôi
phân vân, lưỡng lự, chưa kịp đặt vấn đề với ông T. thì chính ông gợi ra, cho
biết gặp những trường hợp cận thị nặng như tôi ông thường khuyên nên chữa cả
hai một lúc, cam đoan không có vấn đề gì cả. Tôi gặng :"Mỗi mắt mổ hai lần
hay một lần ?". Ông nói mỗi mắt chỉ mổ một lần nhưng hai mắt phải mổ chỉ
cách nhau khoảng mười ngày vì tôi cận thị nặng, mổ một bên khiến nhãn lực
hai mắt chênh lệch nhiều quá không tốt. Tới mục "điều đình", tôi xin ông
đánh thuốc mê cả người cho đỡ sợ, ông lắc đầu nói ông mổ xoành xoạch quanh
năm nhưng cả đời ông chỉ đánh thuốc mê có mỗi một người mắc chứng si ngốc
(mongolisme), ông nghĩ tôi không mắc chứng ấy nên ông sẽ không đánh thuốc mê
mà chỉ đánh thuốc tê thôi, y như những con bệnh khác. Tôi cãi là tôi không
giống người khác ở chỗ tôi sợ, ông bảo ai cũng sợ, tôi nói tôi sợ hơn mọi
người, ông vẫn khăng không chuyển, nói nhỡ đánh thuốc mê đang mổ tôi giẫy
thì sao ? Rút cục, tôi chịu thua. Sang tới mục "Phải ở nhà thương mấy ngày
?" ông nói mổ xong giữ lại một đêm, sáng hôm sau khám rồi cho về. Tôi xin ở
lại vài ngày, ông trợn mắt (ấy là tôi đoán thế chứ trong phòng tối lù mù tôi
có trông thấy gì đâu ?) hỏi ở lại làm gì ? Tôi bảo tôi thay băng một mình sợ
không nổi, ông nói không có băng phải thay. Đến lượt tôi trợn mắt (lần này
có thật) hỏi lại :"Không phải thay băng ?". Ông có vẻ thú vị :
"Hăng vứt hết đi rồi, còn gì để thay ?". Điều đình
thất bại, nhưng thấy ông cầm máy ghi âm đọc cho thư ký là sẽ hạ kính cận của
tôi từ -16 xuống -4, tôi mừng quá quên hết mọi chuyện. Ví thử ông chỉ hạ bớt
cho tôi chừng hai độ tôi cũng vui rồi, hạ tám, chín độ, tôi không mong ước
gì hơn, nhưng hạ tới trên mười độ quả là ra ngoài sức tưởng tượng của tôi.
Thấy tôi tần ngần, ông cười :"Súc sắc đã gieo rồi, không lùi được nữa". Ông
cho biết thời khắc biểu của ông kín mít, chỉ có thể mổ tôi ba tháng sau. Tôi
còn mừng vì có thì giờ chuẩn bị tinh thần. Lúc ấy tôi chưa biết mình sắp
bước chân vào một cuộc "phiêu lưu" ly kỳ, hồi hộp cho đến phút cuối, không
kém gì truyện trinh thám của Agatha Christie !
Chị em tiền kiếp
Trước khi mổ, tôi phải trải qua một loạt khám xét, một phần để chuẩn bị mổ
mắt, một phần vì trùng vào cuộc kiểm tra sức khỏe thường niên : chụp phổi,
thử máu vv. Từ khi mổ ung thư, không ai dám chọc mũi kim tiêm vào cánh tay
phải của tôi, mà than ôi, mạch máu ở cánh tay trái lại chìm, muốn lấy máu,
trừ những tay thành thạo, còn gặp "tay mơ" họ sẽ chọc lên chọc xuống, ngoáy
đi ngoáy lại, rút ra chọc vào để tìm mạch máu. Nghĩ đến cảnh lấy máu, tôi
tính nên "khôn vặt" đem kết quả thử máu thường niên đến nhà thương chữa mắt,
quả nhiên bác sĩ nói sẽ không bắt tôi lấy máu nữa. Thế là thoát một cửa ải !
Mục đo mắt (échobiométrie) đáng sợ hơn nhiều vì bác sĩ cầm cái gì trông như
quản bút, dí sát tận mắt để đo, tuy không đau nhưng hết hồn, tôi chớp lia
lịa. Sau bác sĩ phải dùng mẹo, cầm tay tôi đưa lên cao bảo nhìn vào tay, quả
thật tôi bớt chớp. Nhưng đo đi đo lại cả nửa giờ, bà thở dài nói :"Một vùng
hỗn độn như thế này bảo tôi đo sao được ? Mắt bà đã cận thị nặng, đục nhân
lại dầy, bà phải đến bệnh viện L. tôi có dụng cụ khác đo cho bà chính xác
hơn. Con mắt là trọng, không thể đo ẩu được". Dù rất ngại, tôi cũng đồng ý
ngay. Ở bệnh viện L. tôi vẫn chớp mắt liên hồi khiến bà nóng nẩy, cuối cùng
rồi cũng xong. Mượn cớ xin lỗi đã chớp mắt, tôi nhắc khéo bà là tôi sắp đi
mổ mắt để bà nhớ chuyển kết quả đến bệnh viện B. cho kịp thời. Rồi mới yên
bụng ra về.
Trước khi mổ, thấy tôi sợ, ai cũng dỗ :"Không đau đâu, nhanh lắm, chỉ mười
lăm phút là xong. Bây giờ khoa học tiến bộ, người ta mổ như đi chợ, việc gì
mà sợ ?". Tuy những người này có lòng tốt nhưng họ không hiểu tâm lý, tôi sợ
nhưng không phải là sợ đau (đã đánh thuốc tê thì còn đau gì nữa ?), tôi sợ
là sợ nhìn thấy dụng cụ, dao kéo lù lù đưa đến tận mắt... Chỉ có người bạn
đã "từng trải" cho biết là lên bàn mổ người ta bịt mặt không nhìn thấy gì
nữa.
Hôm nhập viện, tôi đã chuẩn bị tinh thần nên khá bình tĩnh. Vừa bước chân
vào phòng, cô y tá đã bén gót đòi lấy máu, lại còn điểm mặt :"Tại sao bà
không y hẹn đến gặp bác sĩ lo chuyện tiêm thuốc tê ?". Tôi cãi có đi, cô
không tin vặn hỏi cặn kẽ đi ngày nào, thấy tôi nói rành mạch đã mang theo
kết quả thử máu thường niên nên bác sĩ cho miễn lấy máu kỳ này cô mới nhìn
lại hồ sơ, hóa ra cô lẫn tôi với một bà họ Nguyễn khác.
Đến chiều, một y tá vào hỏi :"Ở đây ai biết tiếng Pháp ?". Tôi ứng tiếng, cô
dẫn tôi đến một phòng, nói với một bà người Á đông đang ngồi cạnh cửa sổ.
Thấy bà không trả lời, tôi hiểu vai trò cô dành cho tôi, hỏi bà có biết
tiếng Việt không thì bà tỏ vẻ mừng rỡ. Cô y tá liền trao cho tôi tấm phiếu
mầu xanh trên đề tên Ngô Nguyệt, nhờ tôi giúp bà khai hộ thủ tục nhập viện.
Khai xong, tôi dẫn bà về phòng giới thiệu với bà chia phòng với tôi cũng họ
Ngô.
Chập tối, y tá đến lẳng lặng vén tay áo tôi đòi lấy máu. Tôi rụt tay lại cãi
bác sĩ bảo không cần, cho miễn, cô cười :"Những kết quả bà mang đến còn
thiếu một môn nên vẫn phải lấy máu". Môn ấy mọi năm tôi vẫn làm nhưng năm
nay chính phủ Pháp bắt tiết kiệm nên bác sĩ của tôi tự ý bỏ đi mới thành ra
thiếu. Tôi đành nhăn mặt, chìa cánh tay trái ra.
Đêm ấy tôi không ngủ được, không phải vì hãi sợ mà là vì bà bạn chung phòng
ngáy dữ quá. Thoạt đầu còn tỉ tê nho nhỏ, nhưng lâu lâu lại đột nhiên ầm ầm
như sấm động. Tôi nằm nhớ đến chuyện tiếu lâm kể một người đi nghe hòa nhạc
thấy có lúc các nhạc công hình như ngủ gật, chỉ còn một người tỉnh cò cưa
kéo đàn, rồi bỗng nhiên cả bọn giật mình thức dậy đua nhau kẻ vỗ trống,
người đập đàn ầm ầm...
6 giờ sáng, tôi nhỏm dậy vào rửa mặt cho tỉnh táo, nhưng đang rửa bị y tá gõ
cửa điệu ra, bắt nhường chỗ cho bà họ Ngô vì bà mổ lúc 10 giờ, tôi mãi 11
giờ mới mổ, phải để bà chuẩn bị trước. Cô ta đưa áo mổ rộng thùng thình cho
bà thay, dặn trút bỏ hết quần áo lót, răng giả, nữ trang, kính vv. rồi giỏ
thuốc vào mắt cho con ngươi nở to ra. Một lúc sau trở lại, giỏ thêm lần nữa
rồi cho uống thuốc an thần. Đến giờ, họ bắt đầu đẩy giường đi thì y tá chợt
thấy chân bà sơn móng đỏ chót, giẫy nẩy, bắt lau sạch mới cho đi.
Đến phiên tôi cũng thế. Y tá vào giỏ mắt cười cười :"Mắt phải", tôi cãi
:"Mắt trái", cô lại nói :"Mắt phải", thấy tôi vẫn cãi, cô nhìn lại hồ sơ rồi
cười :"Đúng, nhưng mắt trái của bà đối với tôi thành mắt phải vì tôi đứng
đối diện". Và thêm :"Người Việt các bà làm chúng tôi điên đầu ! Cùng một
ngày hôm nay có đến hai bà họ Nguyễn, hai bà họ Ngô. Mỗi lần làm gì chúng
tôi phải kiểm đi kiểm lại thật kỹ. Bà có biết là ngay số giường của bà cũng
bị ghi nhầm là của bà Ngô không ? Nhưng tôi biết nên đã sửa lại rồi, cứ yên
tâm".
Tôi dậy trước bà Ngô mà lại mổ sau, thời gian ngồi đợi dài dằng dặc. Trời
nóng nực, tôi cứ xoay đi xoay lại trên giường, đổi chỗ cho mát. Kính đã cất
đi, không nhìn thấy gì, chẳng dám phiêu lưu rời khỏi cái giường để đi "tham
quan".
Rồi cũng đến lúc người ta đẩy tôi ra thang máy. Trời nóng nhưng chăn len vẫn
phải đắp vì xuống phòng mổ có gió lạnh, ông đẩy xe bảo thế. Ra đến thang,
bất ngờ ông trao đổi vài câu khẽ với một đồng nghiệp rồi lẳng lặng đổi
hướng, đẩy giường tôi đi xa thang máy, không biết đi đâu, hỏi thì nói hãy
chờ một chút, rồi bỏ đi. Tôi kiên nhẫn nằm đợi, sau nóng quá, nhỏm dậy tốc
chăn mới hay họ lại đẩy mình về phòng từ bao giờ ! Ngồi đợi một lúc thấy họ
đẩy bà Ngô lên, y tá gọi thì bà ú ớ không trả lời thành câu, y tá nói chắc
còn mê. Tại sao bà lại mê nếu chỉ đánh thuốc tê ? Lúc sau, bà nhỏm dậy rót
nước. Tôi nghĩ bụng bà khát thì chắc mình mổ xong cũng khát. Mình không
trông tỏ bằng bà, khôn hồn thì rót sẵn cốc nước để đấy, mang cả chai nước để
một bên, dọn bàn thật gọn để thò tay ra là có nước ngay không sợ lẫn với thứ
khác.
Y tá lại vào khám xem con ngươi còn nở rộng hay không vì phải đợi lâu quá sợ
thuốc nhạt. 12 giờ họ mới đẩy tôi xuống phòng mổ, chậm đúng một tiếng. Cả
đêm mất ngủ, sáng dậy không được uống cà-phê, lại bị thuốc an thần ngấm kỹ,
xuống tới nơi tôi mở mắt không ra, hỏi tôi ngủ có được không ? Miệng họ trấn
an :"Cứ ngủ đi, không sao" nhưng tay họ đặt ngay cái quạt gió (dưỡng khí
?) vào mũi, đồng thời truyền "sérum" (huyết thanh ?) vào mạch máu tay trái,
tôi bỗng tỉnh táo. Ông T. đến cho biết ông thay áo xong sẽ vào mổ cho tôi.
Đúng như lời người bạn nói, họ chụp một miếng vải che kín mặt chỉ hở một lỗ,
chỗ con mắt phải mổ. Mắt mổ lại bị chiếu đèn sáng chói không trông thấy gì
cả. Ông T. nói :"Trước khi mổ, tôi nói rõ cho bà biết tôi sẽ làm những gì để
bà đỡ sợ, không có lại như người đẻ không biết nó chui ra đằng dưới hay đằng
trên". Chắc ông muốn pha trò cho tôi quên sợ, ông đã tung bóng thì tôi bắt,
cười hỏi :"Thế chui ra đằng trên cũng được à ?". Không thấy ông trả lời,
không biết vì mải chăm chú hay vì "bí" không trả lời được, chỉ thấy cô phụ
tá của ông cười :"Bà đừng để ý làm gì. Họ là đàn ông có biết đẻ là cái quái
gì đâu ?". Ông T. lại lên tiếng :"Bây giờ tôi tiêm cho bà một mũi ở đây (ở
má, phía đuôi con mắt) rồi một mũi ở chỗ này (trên mi mắt, gần sống mũi).
Chỉ trong giây lát bà sẽ cảm thấy tê cứng, tôi mổ bà không thấy đau nữa".
Khi tiêm có nhói đau nhưng người bạn đã cho biết trước. Ông T. tiếp tục hỏi
chuyện, tôi thuận miệng trả lời, rồi bỗng thấy miệng tê dại, nói khó khăn.
Ông T. bắt tôi nhắc lại một câu mà tôi tin chắc ông đã nghe rõ. Tôi nghĩ
bụng, tay này chơi khó mình, biết mình nói khó khăn mà còn bắt nhắc lại. Tôi
thong thả nói từng tiếng một cho thật rành rọt, rồi chợt hiểu ông chỉ muốn
đo lường mức thuốc tê ngấm tới đâu. Đột nhiên, tôi rụng rời nghe ông nói bên
tai :"Làm đi, đến số 7 thì ngừng lại. Thế, được rồi". Có lẽ ông không mổ tôi
mà lại giao cho học trò mổ ? Tôi biết ông cần phải huấn luyện học trò, đào
tạo thế hệ mai sau, nhưng thực tập vào cái đám đông vô danh tôi không quen
biết là một chuyện, thực tập vào chính đôi mắt quý báu của tôi lại là chuyện
khác, rõ ràng có điều không ổn, sao ông không nhìn ra nhỉ ? Bây giờ có phản
đối cũng vô ích, tôi nằm yên, có hơi hậm hực. Chờ đợi ba tháng để được chính
tay ông mổ thế mà ông lại lỗi hẹn... Nhưng một lúc sau tôi thấy rõ ràng
chính ông đang mổ, tôi đã đoán nhầm hay đến chỗ nào khó thì ông tự tay làm ?
Rồi có tiếng ông báo trước sẽ cho máy chạy, ông không giảng nhưng tôi đoán
(lại đoán !) chắc máy chạy để hút hết các chất dơ bẩn trong mắt trước khi
ông đặt "mắt mới" (cristallin) vào cho tôi. Lúc ông mổ phía trên tôi không
cảm thấy gì cả, y như ông chưa động vào mắt, nhưng lúc mổ phía dưới tôi cảm
thấy rõ con dao (?) mổ chạy đi chạy lại, không đau lắm trừ phút cuối đau
nhói tôi bật kêu thì ông vội nói :"Xong rồi !". Gỡ vải che mặt ra, đặt băng
vào, đậy nắp "plastique" lên dán lại. Ông vỗ vai :"Chiều tôi sẽ lên thăm
bà". Tôi cảm ơn, xe đẩy đi. Thế là xong. Quả không đáng sợ lắm như tôi
tưởng.
Quá mệt vì cả đêm mất ngủ, lại bồn chồn vì phải chờ đợi lâu, bị hoãn lại
thêm cả tiếng đồng hồ mới mổ, não cân căng thẳng, lên đến phòng tôi rũ ra.
Giờ ăn trưa đã qua, họ quên, tôi cũng không đòi. Vừa lơ mơ chợp mắt, một
người bạn đến thăm đánh thức hỏi chuyện, tôi nói qua loa rồi xin lỗi không
tiếp được. Tay trái vẫn lòng thòng đính với ống dẫn "sérum". Khoảng 5 giờ
chiều, y tá vào đo áp suất, tôi hỏi tại sao tôi vẫn phải đeo giây còn bà Ngô
thì không, cô cười :"Tại bà khác người ta. Chưa có ai mới uống có ngần ấy
thuốc an thần mà xuống phòng mổ lại đòi đi ngủ như bà". Tôi hiểu ra, giải
thích tại tôi mất ngủ trắng đêm, lại thêm thuốc an thần ngấm kỹ, cô nghe
xong liền "giải phóng" tay tôi.
Hơi khát, tôi thò tay tìm cốc nước. Than ôi, cái bàn tôi dọn gọn ghẽ giờ đây
la liệt "chướng ngại vật", còn cốc nước không biết nằm phương nào ? Đành
ngồi dậy sờ soạng. "Chướng ngại vật" thứ nhất mà tôi yên trí đựng bình
"sérum" do y tá để hóa ra là một gói quà người bạn mang đến. "Chướng ngại
vật" thứ nhì nằm chỗ chai nước, cũng lại là một gói quà của người khác. Duy
có cốc nước thì không biết ai đã cất biến đi đâu ! Thò chân xuống tìm dép để
đi kiếm nước thì dép cũng bị dẹp đi đằng nào ! Tìm được dép mới phát giác
lối đi đầy "chông gai", trước hết là cái giá treo bình "sérum", rồi đến cái
ghế chẳng biết ai oái oăm đem ra bầy ở đây ? Tôi càu nhàu, rồi chợt nghĩ đến
hai câu :
Vẻ chi ăn uống sự thường,
Cũng còn tiền định...
mà bật cười. Cái số nó thế ! Mình đã tưởng khôn ngoan sắp xếp trước là yên
trí, nào ai đọc đến chữ "ngờ" !
Người Pháp tự xưng là con cháu Descartes, sao họ làm ăn ấm ớ thế này ? Mổ
mắt xong, không được phép cúi mặt xuống thì họ cho ăn cánh gà với dao cùn,
tráng miệng là một quả táo tròn đẹp đáo để nhưng dao cùn khó gọt, trong khi
hôm qua thì họ cho ăn toàn thứ thịt không xương, và tráng miệng là táo xay
nhuyễn, lấy thìa múc ! Tuy bỏ dở một nửa nhưng ăn xong tôi cũng thấy tỉnh
táo, hóa ra đói mà không biết.
Lại thêm một đêm mất ngủ nhưng cái đáng lo sợ đã qua, tôi bớt khắc khoải. 7
giờ sáng vừa xuống giường, chưa kịp rửa mặt, y tá vào thấy tôi dậy trước
tiên, bắt đi ngay ra phòng khám mắt. Cũng hơi run, không biết kết quả ra sao
? Bác sĩ người Pháp đón hỏi :"Đêm qua bà ngon giấc chứ ?" không ngờ
gặp câu
trả lời rất thành thật :"Tôi bị mất ngủ đã hai đêm rồi !". Ông hơi xịu mặt,
hỏi thêm :"Chắc hết đau rồi phải không ?". Lại thành thật nữa :"Cũng còn đau
nhưng tôi nghĩ sau khi mổ, đau là chuyện dĩ nhiên". Ông im lặng, bỏ nắp,
tháo băng, giỏ thuốc vào mắt rồi bảo tôi đặt cầm lên máy soi, mở to mắt. Tôi
thấy một con đường thẳng tắp trước mặt, cuối đường có cái gì như ngọn lửa
đỏ, có lúc lại như thấy mấy ngón tay ông. Xem xét một hồi thật kỹ, ông tuyên
bố gọn :"Tốt !". Tôi mừng quá nhắc lại cho chắc :"Tốt lắm phải không ?". Ông
gật :"Tôi sẽ cho giấy để bà xuất viện hôm nay". Tôi sướng quá quay lưng đi
một mạch, quên cả chào. Đi còn chập choạng, mắt nhìn chưa rõ lắm, nhưng mỗi
lúc một rõ thêm, đến lúc ăn sáng tôi đã nhìn thấy cả con mắt bà Ngô ngồi đối
diện mà không cần đeo kính. Đang ăn ông T. đến nhắc lại tôi được xuất viện
và năm hôm nữa tôi phải quay lại để ông kiểm soát, rồi ông vội vã đi, nhanh
như gió. Tôi chỉ kịp cản lại yêu cầu ông thu xếp cho một phòng riêng lần
sau, sợ ở chung rồi lại mất ngủ như lần này. Ông lắc đầu nói không có phòng
riêng, và thêm :"Dù sao cũng chỉ mất ngủ có hai đêm, không việc gì cả". Chắc
ông chưa bao giờ nếm mùi mất ngủ. Thấy tôi im lặng, ông đề nghị hay là tôi
về nhà, dậy sớm hôm mổ, đừng ăn uống gì cả, đến đây mổ xong chỉ phải ở lại
có một đêm. Vẫn mất ngủ một đêm mà lại lỉnh kỉnh bắt người khác dậy sớm đưa
mình đi cũng không hơn gì, tôi đành chấp nhận ở phòng chung vậy. Ra cửa, ông
quay lại :"Tôi sẽ cố thu xếp cho bà nếu có phòng riêng, nhưng không bảo
đảm".
Sau bữa ăn trưa mới có người nhà tới đón về, ở lại bệnh viện cả buổi sáng
tôi tha hồ ba hoa. Ông Quản lý sự vụ ghé thăm, tôi còn cho biết mười hôm nữa
tôi sẽ quay lại "quấy nhiễu" và tôi sẽ nhắc để khỏi có chuyện lẫn hồ sơ như
lần này. Ông cười :"Bà cứ yên tâm, chương trình đã làm xong, mười hôm nữa
chỉ có mỗi một bà họ Nguyễn, không thể lẫn với ai được". Ông hứa sẽ cố thu
xếp phòng riêng cho tôi, nếu có. Tôi cao hứng kể đến chuyện trước khi mổ tôi
hãi sợ ra sao, ông cho biết còn có người sợ hãi hơn cả tôi, đã xuống đến bàn
mổ còn giẫy nẩy không chịu. Cho chờ thêm một tiếng để nghĩ lại, vẫn nhất mực
xin về. Mà toàn là các ông cả. Mới biết phụ nữ can đảm thật !
Ra về, tôi vẫn còn loạng choạng. Mắt mổ rồi, kính cũ không hợp nữa, mắt chưa
mổ có kính nhưng vẫn mờ. Tuy vậy tôi vẫn đeo để che cho mắt, tránh bụi bậm.
Tới nhà, bỏ kính nhìn ra bao lan thấy cái chậu hoa xưa kia tôi nghĩ là mầu
trắng ngả vàng vì "mầu thời gian" thì nay thấy nó trắng tinh, trắng bóc ;
mấy bông hoa tôi vẫn biết mầu hồng, mầu tía tươi đẹp nhưng không ngờ nó có
thể tươi thắm, rực rỡ tới bậc ấy ! Tôi ngẩn ngơ nhìn không chán mắt, đẹp lạ
đẹp lùng ! Nhìn một lúc tôi đâm nghi ngờ tự hỏi có thật mầu hoa tươi thắm
như thế hay vì mắt tôi là "mắt giả" ? Năm nay lạnh, hoa "muguets" cuối tháng
năm còn nở. Trước khi đi tôi chỉ thấy hoa lốm đốm trắng giữa đám lá xanh,
giờ nhìn thấy rõ từng chùm hoa xinh xinh như những cái móng tay, hình quả
chuông, đẹp vô cùng.
Như một đứa trẻ có đồ chơi mới, cái thú của tôi là nằm nhìn trần nhà. Chỉ có
mỗi một cái chao đèn bằng giấy đã cũ vàng treo giữa nhà. Tôi nhắm mắt cũ,
nhìn bằng mắt mới thấy rõ từng chi tiết, xong lại nhắm mắt mới nhìn bằng mắt
cũ, đến cả cái lỗ hổng để đưa bóng đèn vào cũng biến mất ! Rồi tôi nhìn đến
cái tủ và không tin ở mắt mình, các đường dọc đều hơi cong, có lúc đường dọc
thẳng thì đường ngang lại trũng xuống. Thử đi thử lại mấy lần, tôi thở dài
nghĩ là mắt tuy sáng nhưng vẫn còn bị loạn thị (astigmatisme), may mà có
kính chữa.
Đến giờ giỏ thuốc, tôi cầm lọ thuốc thấy cái vòi chỗ thuốc chẩy xuống hơi
cong. Tôi nghĩ thời buổi văn minh cũng có khác, đến cái vòi giỏ thuốc mà
cũng cầu kỳ làm cong để giỏ cho dễ. Hai hôm sau tôi mới khám phá ra cái vòi
vẫn thẳng !
Tôi có thói quen làm gì cũng co tay đưa lên gần mắt, hễ không nhìn rõ thì
đưa lại gần hơn, hoặc lấy tay đẩy kính ở sống mũi đến sát mắt. Bây giờ càng
đưa tay lại gần càng thấy nhoà, tôi sực tỉnh, thử đưa ra xa, thấy rõ, tôi
duỗi thẳng cánh tay, lại càng rõ nữa. Tôi thích thú ngắm bàn tay, ngón tay,
móng tay "tưởng quen mà lạ..." và phát hiện ra rằng bây giờ nhìn phong cảnh
thì đẹp hơn nhưng nhìn người thì, eo ơi...
Mười hôm sau tôi trở lại nhà thương, trong lòng rất bình tĩnh, thư thái. Tôi
đã biết hết còn sợ gì ? Những chuyện đáng ngại như chọc tay lấy máu, đo mắt
thì họ vừa làm mới cách đây mươi hôm chẳng lẽ họ lại lôi tôi ra làm lại ?
gặp ông Quản lý, tôi cười đùa. Ông hỏi có muốn trở lại phòng cũ lấy khước
không vì lần mổ trước kết quả tốt đẹp, nhưng trong phòng lại đang có người
nằm từ một tuần nay, còn ở phòng mới thì may ra đêm đầu không có ai, tôi vội
xin vào phòng mới. Thoát được đêm đầu trước khi mổ đỡ mệt là nhất. Mổ xong
có mất ngủ, mệt cũng không sao.
Dọn vào phòng mới liền phải làm thủ tục nhập viện, họ lại đưa cho tôi hồ sơ
của một bà họ Nguyễn khác. Tôi cười trao trả rồi ngồi đợi họ mang hồ sơ của
tôi đến. Đợi mãi sốt ruột, tôi giở báo ra đọc. Đang đọc thì ông Quản lý đến,
ngại ngùng bảo :"Có vấn đề", tôi cười :"Tôi biết rồi, lại nhầm hồ sơ phải
không ?". Ông bảo không phải chỉ có thế, bà họ Nguyễn kia bây giờ cũng tới
trình diện rồi. Tôi ngạc nhiên :"Sao lần trước ông bảo hôm nay chỉ có mỗi
một bà họ Nguyễn thôi ?". Ông gật :"Đúng là chỉ có tên một bà họ Nguyễn trên
chương trình, nhưng là tên bà kia chứ không phải tên bà. Bà có chắc là bà
không nhầm ngày không ?" Tôi cả quyết không nhầm, giấy tờ gửi cho tôi từ ba
tháng trước hẹn ngày rõ ràng, huống chi hôm nào tôi cũng tâm niệm để tự trấn
an, đếm từng ngày, nhầm thế nào được ? Ông nói :"Thế thì có lẽ bà kia lầm vì
lần trước bà ta cũng đã lầm ngày rồi phải về, bà ta có vẻ ẩu lắm". Đang nói
thì bà Nguyễn kia bước vào, tưởng ai hóa ra là người tôi đã làm đơn hộ kỳ
trước mà tôi thấy tên khai là Ngô Nguyệt (có lẽ họ cũng lại lầm hồ sơ ?). Bà
cho biết đáng lẽ con mắt thứ hai của bà đến tháng tám mới mổ nhưng tuần
trước đi khám mắt về thì ông T. gọi điện thoại lại nhà bảo tháng tám ông đi
nghỉ hè, phải đến mổ trước và hẹn bà ngày hôm nay. Ông gọi thì bà phải đi
chứ thật sự bà không muốn mổ bây giờ. Tôi vui mừng quay ra dịch cho ông Quản
lý hiểu vì sao cả hai chúng tôi cùng trình diện hôm nay, không có ai lầm cả.
Tưởng thế là giải quyết xong, không ngờ ông vẫn không vui, nói :"Chúng tôi
chỉ chuẩn bị có một cái giường cho một bà họ Nguyễn, hai bà cùng đến tôi
không biết để giường cho ai ?". Tôi nói dĩ nhiên là giường dành cho tôi vì
mười ngày trước tôi đã bảo ông tôi quay lại hôm nay, còn bà kia thì chỉ cách
đây năm ngày mới biết mình phải mổ hôm nay. Chính bà không muốn mổ, bà chưa
sẵn sàng, còn tôi đã chuẩn bị từ ba tháng nay, chương trình làm việc sau khi
mổ đã hoạch định, bắt tôi về không là làm nhỡ hết công việc của tôi. Ông nói
phải đợi xem ông T. xử trí ra sao. Bà Nguyễn kia muốn chuồn cứ tíu tít giục
hỏi ai ở ai đi ? Sao bảo hỏi ý ông T. mà không hỏi ? Hỏi rồi thì ông T. trả
lời ra sao ? Tại sao ông không trả lời ? Không trả lời thì phải giục... Tóm
lại, bà chỉ muốn về. Tôi bảo ông Quản lý bà ta sẵn lòng nhường chỗ cho tôi
thì còn đắn đo gì nữa ? Ông T. mổ tôi hay mổ bà kia có khác gì nhau ? Ông
ngần ngừ rồi cho biết thêm là hồ sơ của tôi bị thất lạc, tìm từ sáng chưa
ra. Tôi hết cười, không tin lại có sự trớ trêu như thế. Ông vẫn hồ nghi là
tôi nhầm ngày nên đòi xem giấy ông T. triệu tôi đến. Giấy tôi đã trao cho cô
thư ký làm thủ tục ở từng dưới, ông bắt phải xuống lấy lên và chỉ định cho
một sinh viên thực tập dẫn tôi xuống, nếu quả tôi không nhầm thì lập tức dẫn
tôi đi đo mắt. Dĩ nhiên là tôi không nhầm nên họ lôi tuột tôi đến cái phòng
khủng khiếp, vẫn cái "quản bút" dí sát vào tận mắt nhưng bà bác sĩ này làm
việc nhanh hơn, nội trong khoảng 5,10 phút bà đã đo xong cả hai mắt . "Để so
sánh" bà nói. Trong khi đo, có mấy người đến mở cửa hỏi chuyện, lúc đầu bà
còn rút "quản bút" ra để quay lại trả lời, sau mấy lần bà bực mình để nguyên
"quản bút" dí sát mắt tôi rồi quay đầu nói chuyện làm tôi bở vía. Sau đó, bà
hỏi tôi đeo kính số mấy ? ông T. định hạ xuống số mấy ? rồi loay hoay làm
tính, chỉ một loáng đã xong. Bà cho biết tại số tôi không may nên hôm tôi
tới đo mắt lần trước bà phải đi họp, bà kia đo xong lẽ ra phải ghi kết quả
vào một quyển sổ. Khi thấy hồ sơ của tôi bị thất lạc, họ giở sổ ra thì chỗ
đề tên tôi chỉ thấy một trang giấy trắng tinh !
Đo mắt xong, lên phòng, tới giờ ăn trưa. Bà Nguyễn kia chưa chịu ăn, đợi kết
quả xem có được về hay không. Phần tôi lo chuyện mất hồ sơ cũng nuốt không
trôi.
Ông Quản lý quay lại bảo ông T. quyết định giữ và mổ cả hai. Ông chuẩn bị
đưa bà Nguyễn kia sang phòng khác. Thấy bà mừng rỡ khi gặp lại tôi nên tôi
xin cho bà ở lại, đằng nào chắc cũng mất ngủ vì chuyện cái hồ sơ thất lạc.
Y tá vào cho biết vẫn chưa tìm thấy nó. Đã quen làm việc ở những chỗ có
nhiều hồ sơ, tôi biết dù cẩn thận đến mấy cũng không tránh được chuyện thất
lạc, nên tôi thông cảm không trách họ, chỉ giận cái số mình đen đủi ; và
nhắc họ, theo kinh nghiệm riêng tôi thì nên tìm hồ sơ của tôi ở trong lòng
hồ sơ của bà kia, có khi sơ ý xếp nhầm. Họ nói họ đã tìm khắp nơi, xuống cả
kho lưu trữ hồ sơ cũng không thấy. Tôi hỏi tại sao tuần trước tôi đến khám
mắt, ông T. còn xem hồ sơ tôi mà chỉ chưa đầy một tuần hồ sơ đã biến ? Họ
nói không biết. Tôi bảo không chừng nó còn nằm trên bàn làm việc của ông T.,
họ nói ông không bao giờ giữ hồ sơ. Tôi khuyên họ tìm hồ sơ người Việt đừng
bao giờ nhìn vào cái "họ", thứ nhất họ Nguyễn vì đến 50% người Việt là họ
Nguyễn, phải nhìn tên riêng của chúng tôi. Ông Quản lý nói :"Thì chúng tôi
nhìn tên riêng chứ sao ? Khốn nhưng tên của hai bà từa tựa như nhau, một bà
là Nguyễn thị Chân, một bà là Nguyễn thị Ngân". -"Thế thì nhìn năm sinh của
chúng tôi". Ông lắc đầu :"Bà tưởng chúng tôi không nghĩ đến hay sao ? Khổ
một nỗi hai bà cùng sinh một năm chỉ khác ngày tháng thôi". Ra thế, chẳng
trách được. Sao ở đời lại có sự trùng hợp tấu xảo kỳ lạ đến thế ?
Xế trưa, hồ sơ vẫn chưa tìm ra, ông T. lên xin lỗi và nói sẽ cho lập hồ sơ
mới. Tôi băn khoăn hỏi :"Bà bác sĩ trước bắt tôi phải đến bệnh viện L. để đo
mắt vì dụng cụ ở đây đo không chính xác, bây giờ lại đo ở đây thì làm sao ?
Ông bảo :"Nói thật cho bà biết, mắt bà cận thị nặng quá, dù có xê xích một
tị cũng không việc gì". Ông cười nói tiếp bằng tiếng Anh :"No problem !"
(không có vấn đề gì cả). Tôi im lặng nhưng thực sự không yên tâm. Bà Ngân an
ủi :"Chị đừng lo, rồi đâu cũng vào đấy" và bắt sang nói huyên thiên đủ thứ
chuyện, có lẽ để tôi quên. Tôi còn lòng dạ nào nghe nên chỉ ậm ừ.
Sau nạn đo mắt, dĩ nhiên đến nạn lấy máu. Lần này phải lấy nhiều máu chứ
không phải chỉ một ống như lần trước. Ngẫm lại cái số mình đen thật, người
ta lấy máu chỉ một lần, mình được "chiếu cố" tới ba lần ! Người ta đo mắt
cũng chỉ một lần, mình lại hân hạnh được đo tới ba lần, mà còn rắc rối phải
đến tận bệnh viện L., rút cục có dùng đến nó đâu ? Bà Ngân thấy người ta đến
lấy máu tôi tưởng mình cũng bị lấy máu, sợ, kêu bai bải. Tôi cười hỏi :"Sao
trước chị bảo tôi làm lại hồ sơ chẳng có gì đáng sợ, giờ chỉ mới tưởng phải
lấy máu chị đã kêu ầm lên ?".
Thỉnh thoảng y tá vào nhìn tôi lắc đầu, hồ sơ vẫn chưa tìm thấy.
Khi xin cho bà Ngân ở cùng phòng tôi chỉ nghĩ là bà thích ở với người đồng
hương để trò chuyện và yên tâm hơn, không ngờ cũng là cái may cho tôi : bà
ngủ không ngáy một tiếng nào nên mặc dầu khắc khoải chuyện hồ sơ, tương đối
tôi vẫn yên giấc, sáng dậy không ngất ngư như lần trước. Ông T. đến thăm cho
biết, để tránh chuyện nhầm lẫn, ông sẽ mổ bà Ngân lúc 11 giờ, mổ tôi lúc 12
giờ (lại mất một bữa ăn trưa nữa !). Tôi như chim đã bị tên, y tá làm gì tôi
cũng kiểm soát, họ buộc tên tôi vào chân giường tôi cũng leo xuống xem lại.
Mọi sự tuần tự tiến hành : thay áo, trút bỏ nữ trang, kính vv. giỏ mắt, uống
thuốc an thần rồi người ta đẩy giường bà Ngân đi. Lần này bà mổ mắt trái,
tôi mổ mắt phải. Ngồi lại một mình, tôi bần thần nghĩ ngợi. Sao mình làm gì
cũng cố hết sức để mong kết quả vẹn toàn mà cứ vô phúc chuốc lấy những
chuyện trắc trở dập dồn ? Lần trước bà Ngô mổ có vấn đề gì đâu ? Lần này bà
Ngân tuy phải đổi ngày mổ sớm hơn nhưng mọi sự vẫn xuôi. Còn mình, khi xuất
viện đã cố ý không nghe thư ký xui khôn làm ngay thủ tục nhập viện lần thứ
hai trước khi về, cốt tránh rắc rối mà sao rắc rối vẫn trút xuống đầu mình
cả lần trước lẫn lần này ?
Khoảng 11g 45, sau khi giỏ mắt hai lần, uống thuốc an thần, tôi đã xuôi tay
phó mặc cho số mệnh, thì bà y tá bước vào cười tươi như hoa nở :"Xin báo tin
mừng để bà biết, hồ sơ của bà tìm thấy rồi !". Tôi mừng quá cảm ơn rối rít.
Bà cười :"Tôi đi một vòng, quay về thấy có cái hồ sơ trên bàn, tên Nguyễn
thị, tôi càu nhàu :"Lại thêm một bà Nguyễn nữa !". Bạn tôi bảo không chừng
nó là cái hồ sơ thất lạc, tôi giở ra xem quả thật của bà. Tôi vội tới báo
tin cho bà mừng". Mừng thật, quá sức mừng ! Giờ tôi mới yên tâm đi mổ.
Xuống phòng mổ không thấy ông T. đâu, chung quanh toàn người Pháp lăng xăng
kẻ buộc tóc cho tôi, người buộc tay tiếp "sérum", nhưng lần này không cần
"quạt gió" vào mũi. Một người lăm le cầm kim tiêm định chọc xuống. Bây giờ
tôi không nín lặng nữa, cái gì hơi khác lạ là tôi hỏi ngay :"Thế giáo sư T.
không mổ cho tôi à ?". Họ trấn an :"Ông đang mổ ở phòng bên cạnh, mổ xong sẽ
sang mổ cho bà. Chúng tôi chỉ chuẩn bị sẵn sàng để ông mổ thôi". Tôi hỏi
người cầm kim tiêm :"Ông không bịt mặt tôi lại như kỳ trước hay sao ?". Ông
trả lời :"Không, tôi không bịt". Tôi toan đòi, rồi chột dạ, nghĩ chắc tay
này còn non nên phải để rõ mặt hắn mới biết đường mà chọc kim xuống cho đúng
chỗ, bắt bịt kín, hắn không biết đằng nào mà lần, nhỡ chọc mù mắt mình thì
hỏng. Thế là tôi nằm im thin thít, không phản đối nữa, đành run mà trông mũi
kim trước mắt lăm le đâm xuống. Ông bác sĩ trẻ đắn đo mãi vẫn không dám
chọc, tôi tự hỏi trong hai chúng tôi ai sợ hơn ai ? Cuối cùng ông cũng đâm
xuống, không đau lắm, nhưng khi bơm thuốc, ông luống cuống để một phần thuốc
chẩy ra má. Phát thứ nhì ông mới lấy lại bình tĩnh. Xong, ông bắt tôi nhìn
lên nhìn xuống, sang phải sang trái rồi mới yên dạ. Ra người ta không muốn
đánh thuốc mê là để mình "hợp tác" như thế này đây.
Một lúc sau ông T. đến, nói từ đỉnh đầu :"Tôi đây. Tôi sẽ mổ cho bà". Họ lại
bịt mặt tôi như lần trước, nhưng lần này đèn không chói sáng, tôi mờ mờ thấy
bóng dụng cụ của ông đi qua đi lại trước mắt, có khi dường như thấy cả ngón
tay hồng hồng. Ông chăm chú mổ, không gợi chuyện như lần trước, chỉ thỉnh
thoảng hỏi có đau không ? Đến gần cuối mới nghe người phụ tá nói xin để cho
ông ta làm tiếp. Chắc vì thuốc tê trôi đi mất một phần khiến tôi nói năng
linh hoạt, miệng không bị tê cứng, nên lần này ông T. nhẹ tay hơn, không đau
lắm. Tuy vậy, có lúc ông ấn cả bàn tay đè lên con mắt vừa mổ kỳ trước làm
tôi hoảng hồn, nhưng nghĩ lại chắc ông biết ông làm gì nên tôi không nói.
Mấy lần tôi bắt gặp mình ưỡn cong người lên như cao thủ võ lâm biểu diễn môn
"thiết bản kiều", hai tay như vận công, ngón tay cong lại cứng đơ, tiếc là
không có cái gì để nắm chặt. Lần nào tôi cũng tự bảo phải thư giãn, từ từ
thả lỏng bắp thịt, nằm xuống thoải mái. Tôi nhớ có lần nghe trong băng thu
thanh thầy Nhất Hạnh kể chuyện đi chữa răng, vì không chịu được thuốc tê nên
đã thay bằng cách tập trung tư tưởng vào ngón tay, đau thì vẫn đau nhưng
chịu được. Tôi lại nhớ đến chuyện Quan Công uống rượu đưa cánh tay cho Hoa
Đà tha hồ khoét thịt, cạo xương sồn sột mà vẫn cười nói như không. Biết mình
không phải Quan Công, cũng không phải Nhất Hạnh, nhưng cũng muốn thử tập
trung tư tưởng vào tay xem sao. Đang ngon trớn thì ông T. chạm hơi mạnh, tư
tưởng của tôi vọt từ ngón tay chạy tọt về mắt, nhanh không tưởng, nắm giữ
không kịp ! Và tôi lại thấy mình đang thi triển công phu "thiết bản kiều",
mấy ngón tay lại cong cong cứng đơ... Cuối cùng mọi sự cũng chu. Ông T. nói
:"Chiều nay tôi sẽ lên thăm bà" nhưng chỉ mấy phút sau người ta đang đẩy tôi
trên hành lang về phòng đã thấy tiếng ông ngay bên cạnh :"A, bà đã lên đây
rồi à ? Mai tôi sẽ gặp bà". Ông lại biến nhanh như một luồng gió.
Đến chiều y tá vào thăm, tủm tỉm :"Bây giờ mọi sự xong xuôi, tôi mới dám cho
bà hay chứ sáng nay chúng tôi hết hồn, cả đến cái hồ sơ thứ nhì của bà cũng
mất tăm ! Tìm mãi, sau mới thấy nó nằm trong hồ sơ của bà Nguyễn kia.
7 giờ sáng hôm sau, trước khi mở băng, ông bác sĩ trẻ mỉm cười hỏi :"Có sợ
không ?". Tôi thản nhiên :"Không !". Ông giật mình nhưng không nói gì, lẳng
lặng gỡ nắp, tháo băng, giỏ thuốc vào mắt rồi soi kỹ. Ông lại buông gọn như
kỳ trước :"Tốt !". Lần này tôi nhớ đứng lại cám ơn, bắt tay cẩn thận rồi mới
quay lưng đi về phòng. Việt-Nam có tới bốn nghìn năm văn hiến kia mà !
Đang ăn sáng ông T. đến, thấy tôi đeo kính cũ, nói :"Bỏ đi, bây giờ bà không
cần đến nó nữa". Tôi bảo tôi biết không cần vì bây giờ đeo kính nhìn không
rõ bằng không đeo. Ông hỏi đã biết thế sao còn đeo ? Tôi trả lời là lúc ăn
sợ sữa bắn vào mắt nên đeo kính để che. Ông nói cứ việc bỏ ra không sao đâu.
Tôi ngoan ngoãn bỏ kính ra, nhưng ông vửa quay lưng đi, tôi ngần ngừ rồi lại
đeo kính lên. "Cẩn tắc vô ưu" là hơn, nhỡ có chuyện gì biết ông ở đâu mà tìm
? Tìm được ông còn khướt ! Lúc nào ông cũng tất tả, đi lại vùn vụt. Xuân
Diệu xưa nói "muốn buộc gió lại" nhưng nào có chỉ dẫn cách thức buộc ra sao
!
Ngồi chờ người tới đón về, bà Ngân và tôi lại nhắc lại câu chuyện ngẫu nhiên
trùng hợp kỳ lạ giữa hai chúng tôi mà từ hôm nhập viện chúng tôi đã nói đi
nói lại không biết bao nhiêu lần : Tại sao cả hai lại cùng mổ mắt một ngày,
ở cùng một nhà thương, cùng một bác sĩ ? Họ của chúng tôi đã giống nhau, tên
cũng từa tựa, lại sinh cùng một năm đã là một chuyện lạ, đến mổ con mắt thứ
nhì lại cũng cùng một ngày, một nơi, một bác sĩ ! Rõ ràng đáng lẽ bà Ngân mổ
tháng tám, sao đến phút cuối ông T. lại đổi ý mà chọn mổ cho bà đúng vào
ngày mổ cho tôi chứ không trùng với ai khác hay vào tuần khác ? Người Pháp
có câu :"Sự thật vượt xa hư cấu" là thế này đây. Bà Ngân kết luận rất
Việt-Nam :"Chắc hai đứa mình kiếp trước là chị em nên kiếp này lại tìm
nhau".
Sáu hôm sau trở lại khám mắt, ông T. xem xong từ từ nói :"Trong những trường
hợp kết quả tốt đẹp như thế này tôi thường chỉ định cho một bác sĩ khác thay
tôi theo dõi. Tôi sẽ chuyển bà cho một bác sĩ khác. Cứ yên tâm, bà này tiếp
khách cùng một ngày với tôi, có gì đã có tôi. Với lại bà ta thử kính còn
thành thạo hơn tôi nữa". Tôi hơi thất vọng nhưng cũng hiểu ông không thể một
mình làm hết mọi việc, ông còn nhiều bệnh nhân khác. Trước khi chia tay, ông
hỏi :"Hài lòng chử ?". Tôi cười :"Còn hơn thế nữa. "Hài lòng" chưa đủ, phải
nói là tôi rất sung sướng. Đây là một món quà quý báu nhất đời tôi, tôi chưa
bao giờ dám mơ tưởng tới nó". Ông cười. Ông có một cuộc đời thật đẹp. Ông
cho tôi đeo kính tạm, số -3,5, tôi mừng quá cám ơn rồi quay đi quên cả lấy
đơn !
Cái số nó vẫn trêu ngươi, đi xin hẹn gặp bà bác sĩ do ông chỉ định mới hay
bà đang nghỉ hè. Không suy nghĩ, tôi nói để tôi đợi thêm hai tuần chờ bà,
nhưng cô thư ký không nghe, tìm gặp ông T. xin chỉ thị và quay về bảo tôi
phải giữ đúng ngày khám xét, nhưng đổi bác sĩ khác. Dĩ nhiên không thể biết
bà này thử kính có thành thạo hơn ông hay không !
Một cuộc đời mới
Sau khi mổ mắt thứ nhì, tôi ra về với một tâm trạng vui mừng, hớn hở hơn cả
"Xuân đi học...". Chưa quen với mắt mới, đi đứng vẫn chuếnh choáng như say.
"Say" với cả hai nghĩa đen và bóng. Trên đường về, ngồi trong xe ngước mắt
nhìn lên, trông rõ từng chiếc lá cây tít trên ngọn, nắng chiếu xuống lá xanh
trong. Trời ơi, đẹp quá. Gió phất nhẹ, lá quay quay, lao xao, lật đi lật
lại, mặt nào cũng đẹp kinh hồn, đẹp ơi là đẹp, nhìn mãi không biết chán, rõ
mồn một y như bầy ngay trước mắt.
Tôi nhớ lần đi trượt tuyết, có người chỉ cho tôi dẫy núi xa xa, chập chùng,
mờ mờ trong sương khói, hỏi :"Đẹp không ?". Tôi nhìn kỹ một tí rồi buột
miệng :"Đẹp nhưng giá đừng có sương mù, trông rõ còn đẹp hơn". Ông nhìn tôi,
thương hại con bé không có khiếu thẩm mỹ và giảng :"Nó đẹp chính là nhờ lớp
sương mù khiến phong cảnh như ẩn như hiện, nếu trông rõ thì còn gì là thơ
mộng nữa ?". Tôi cứng họng, thấy mình "quê một cục" nhưng trong thâm tâm vẫn
ấm ức ! "Mờ mờ ẩn hiện" thì lúc nào tôi chả thấy ? Không phân biệt rõ chi
tiết thì lá cây nào lại chẳng xanh, đẹp ở cái khổ nào ? Không trông rõ mặt
thì triệu triệu con người ai chẳng hai mắt một mũi, hai tai một đầu ? Có
trông rõ chi tiết mới biết chẳng ai giống ai, chẳng cái lá nào giống cái lá
nào. Lá cây có cái tròn tròn, có cái dài dài, cái có khía, cái có răng cưa,
cái to, cái nhỏ lăn tăn... Người, trước kia đối với tôi chỉ có loại cao hay
thấp, gầy hay béo, tóc đen hay vàng, có đeo kính hay không vv. Trong một đám
đông người lạ, muốn "nhận diện" nhanh chóng người trao đổi vài câu với mình
mà không cần nhìn trừng trừng vào mặt người ta, tôi ghi nhớ mầu áo. Lần sau
gặp lại tôi tỉnh bơ bởi họ đã thay áo khác !
Một cuộc đời mới bắt đầu. Ngồi trong nhà nhìn ra trước mặt, cái dẫy nhà nằm
chênh chếch mé trái không phải song hàng với mặt tiền nhà tôi như tôi vẫn
yên trí. Ở đây trên hai mươi năm, giờ tôi mới rõ cái mà tôi vẫn nghĩ là một
bức tường thẳng băng hóa ra nó do hai bức tường gặp nhau hình thước thợ, góc
vuông vắn, chính cái góc vuông ấy nhòm sang nhà tôi. Tường bên trái không có
cửa sổ, tường bên phải dài hơn, ngăn ra từng căn hộ, có bao lan, tôi thấy rõ
cả cây cảnh, mái nhà ngói đỏ, ống khói, dây "ăng-ten", y như phong cảnh trên
một tấm bưu thiếp.
Gió nhè nhẹ, lá cây lấp lánh dưới ánh nắng, chòm cây phất phơ, ngọn cây
nghiêng nghiêng, la đà... Gió ào ào, cành rướn lên thật cao rồi cúi rạp
xuống thật sâu, cành này lên cành kia xuống, lên xuống tới tấp, nghiêng ngả,
rập rình, lá cây phấp phới, tíu tít, rối rít, quay cuồng, loạn
xạ... không
bút nào tả nổi cái sinh động của cành lá tưng bừng đón gió !
Cái gì như con ruồi bay vụt qua trước mắt ? Ruồi tây lờ đờ quyết không bay
nhanh được như thế. Ra đấy là một con chim sẻ truyền cành ở mãi tận bên kia
đường. Mắt tôi mà nhìn xa đến thế kia à ?
Một lần ra đóng cửa sổ, tôi đứng mê mẩn ngắm con chim bồ câu (chắc thế vì
tôi chỉ biết chim là một loài xoè cánh bay, con nhỏ là chim sẻ, con to là bồ
câu !) đậu trên nóc nhà hàng xóm. Chim mầu xám nhưng cổ lại có một vòng lông
trắng. Chim gật gù mổ rồi đột nhiên dang cánh bay lên, tôi ngạc nhiên thấy
cả cái đuôi chim cũng xoè ra.
Có hôm ngồi tít trong nhà nhìn qua cả cái chiều sâu của phòng khách chợt
thấy thấp thoáng mấy giọt mưa. Tôi không tin ở mắt mình, chạy ra cửa sổ
nhìn, quả trời đang mưa ! Mọi khi muốn biết có mưa hay không tôi phải nhìn
người qua đường xem có cầm ô không, nếu không có ai thì nhìn vũng nước xem
có bong bóng không, hoặc lắng nghe tiếng mưa rơi...
Từ hôm mổ mắt, ra đường tôi thích nhìn tận mặt những "ông đi qua, bà đi
lại", thấy họ không chỉ cao hay thấp, béo hay gầy, tóc vàng hay tóc đen nữa,
mỗi người đều có nét mặt khác nhau, không phải ai cũng đẹp, nhưng ai cũng có
một cái gì là lạ, "bắt mắt".
Ngồi đợi xe buýt, để khỏi sốt ruột, mọi khi tôi tập thở. Giờ tôi ngắm cảnh.
Tít tắp đằng xa có trạm xe buýt ngày trước đi làm tôi vẫn đến đấy đợi và lúc
ấy thấy sao nó xa thế, đi mãi không đến nơi. Giờ thấy nó "gần trong gang
tấc", không những tôi trông rõ nó mà còn thấy rõ cả con đường cách xa nó
hàng mấy chục thước nằm vắt ngang phía sau, xe chạy vùn vụt qua, cái trắng,
cái mầu, cái to cái nhỏ, cái chạy thẳng, cái rẽ, tôi đều thấy. Con đường
tráng nhựa mầu xám phẳng phiu, hơi cong (thật sự cong chứ không phải tại tôi
loạn thị, vì khi nhìn bằng cả hai mắt thì mắt lành tự chữa cho mắt có tật,
tôi nhìn được như người thường) có lằn sơn trắng ở giữa ngăn đôi hai dòng xe
xuôi ngược, hàng dậu xanh cắt xén gọn ghẽ, ngay ngắn. "Tưởng gần mà xa...".
Tôi mê mải ngắm, chợt ông già ngồi cạnh bắt chuyện, phàn nàn :"Có thể tưởng
tượng được không, tôi chờ cả 15 phút rồi mà không thấy bóng dáng một cái
buýt nào cả ! May mà tôi không hẹn ai. Không thể trông cậy ở xe buýt được
!". Tôi ậm ừ cho qua, không muốn làm mất lòng ông, nhưng nghĩ bụng :"Chậm
15, 20 phút có là bao. Đời tươi đẹp như thế này, sao ông không nhìn lá cây
lao xao, lấp lánh ánh nắng lại đi hậm hực làm gì ?".
Trước kia, thấy mắt mình ngày một kém, tôi hoảng sợ nghĩ đến tương lai phải
ngồi một xó không đi lại, không đọc sách được... Tôi xoay ra học đàn, không
cần đến mắt cũng gẩy được. Nhưng tôi chọn lầm đàn tranh có tới 16 dây, mỗi
khi trời nhá nhem, dây rủ nhau "đi chơi bụi rậm" biến sạch, trước khi tôi
thành tài để có thể đàn không cần nhìn dây. Giờ, dây không còn chơi khăm tôi
như khi chưa mổ được nữa !
Tôi có thói quen hễ nhỏm dậy buổi sáng là thò tay tìm kính. Giờ cầm kính
thấy nhẹ bỗng mới nhớ ra là bây giờ ở nhà tôi không cần kính, không đeo thì
mắt nhìn rõ, trong suốt, đeo vào nhìn gần lại thấy nhoè nhoẹt. Nhưng không
đeo kính, tôi cứ có cảm giác thiếu cái gì, cả ngày muốn chạy đi tìm kính.
Vào phòng tắm, không suy nghĩ, tôi thò tay gỡ kính ra để rửa mặt, không thấy
mới sực nhớ giờ đây tôi chỉ đeo kính mỗi khi ra đường. Có kính đi đường nhìn
xa rất tỏ nhưng nhìn ngay dưới chân mình lại không rõ bậc thềm, có khi nhìn
một cái xe hóa hai, tại óc chưa quen, hai cái hình chưa chập làm một. Đúng
là một cuộc đời mới, cái gì cũng phải học, nhưng sung sướng mà học !
Để đổi lấy cặp mắt mới này, nói thật, nếu ông T. bắt tôi thức trắng 7 đêm
liền chắc tôi cũng ký cả hai tay, hai chân (thêm một Chân Q. nữa là năm !).
Người ta có thể nói mắt tôi là "mắt giả", có thể chê tôi nhìn vẫn chưa bằng
người khác, tôi không cần. Tôi rất quý đôi mắt này, không những vì tôi phải
vượt qua bao nhiêu sợ hãi, khó khăn mới được nó mà còn vì từ nay nhờ có nó
tôi không lo một ngày kia phải ngồi một xó, tôi lại tha hồ nằm nghiêng đọc
sách vì không đeo kính, không sợ kính xô lệch hại mắt, ra đường tôi được
ngửng mặt nhìn mọi người, không phải cúi xuống nhìn đường để tránh nạn gặp
người quen mà không chào... Mắt đã "cải tử hoàn sinh" tôi. Đối với tôi nó
không là "mắt giả", nó là đôi "mắt thần" !
Sau khi mổ ung thư, tôi nhìn đời khác trước. Trước, tôi cố tròn phận sự, cắm
đầu làm việc, suốt ngày bận rộn, sắp xếp sao cho mọi sự trôi chẩy, không vấp
váp. Nhưng hễ cứ vừa thanh toán xong một việc là lập tức có việc khác thế
chân ngay, lại loay hoay xếp đặt... Mệt và muốn ngừng nghỉ nhưng đã bước
chân vào guồng máy là phải quay theo, khó rút chân ra. Đùng một cái bị bạo
bệnh, mọi việc phải đình lại, dù muốn dù không. Rút cục mọi sự cũng xuôi.
Mới nhận thấy cả cuộc đời mình lẩn quẩn lo toan hão những chuyện mà có lẽ
đến một nửa không cần mình. Các cụ xưa dậy phải "hoà hoãn", tôi chỉ để ý đến
chữ "hoà", giờ mới học thêm được chữ "hoãn", bởi những khi mệt quá tôi đâm ỳ
ra, rồi mọi sự cũng vẫn đâu vào đấy. Nhưng sức khỏe dần dần phục hồi, và tôi
lại dần dần "nhập cuộc", tuy cũng có những lúc "sực tỉnh" dừng tay...
Giờ đây, sau khi mổ mắt, tôi cũng nhìn đời khác trước, nhưng "khác" một cách
khác. Trước, sau khi "kề cận tử thần", tôi bớt bận tâm đến những lo toan
thường nhật, tôi như đứng xa ra để nhìn đời một cách bao quát, toàn diện
hơn, và tập sống thoải mái, an nhiên hơn. Giờ, ngược lại, từ chỗ nhìn đời
một cách khái quát, tôi bàng hoàng ngắm từng chi tiết tinh vi, kỳ thú của
mỗi chiếc lá, mỗi viên sỏi... Tôi như cúi mình nhìn xuống gần đời hơn, để
quan tâm tới những cái nhỏ nhặt, tầm thường của cuộc sống ngay trong tầm với
của mình, và thấy lòng phơi phới. Tôi yên tâm "nhập cuộc".
Hai cách nhìn đời này có mâu thuẫn nhau chăng ? Tôi không biết, tôi không
thấy thế.
Châtenay-Malabry, tháng 8, 1996
Thế kỷ 21, tháng 10, 1996.
Sửa chữa tháng 8, 2003
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Nguyễn Thị Chân Quỳnh
|