Những bài cùng tác giả
Bùi ngùi nhớ mẹ thuở xưa,
Miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương.
Ca dao
Đảo chính Nhật 9.3.1945 rồi Cách
mạng mùa thu. Đến kỳ khai giảng năm ấy, trường Trung học
Khải Định nhường chỗ cho Giải Phóng Quân. Học sinh phải
vào học trong Đại Nội, sáng học chữ, chiều tập quân sự.
Nói tập quân sự cho oai, thật ra học cử chỉ ném lựu đạn,
học đi theo nhịp, học chạy, học trèo như học thể thao. Học
chữ thì có nhưng học sinh cũng như bao công dân thời buổi
ấy bị tình hình chính trị chi phối, khó lòng ngồi yên dùi
mài kinh sử. Những học sinh lớn tuổi đã hăng hái xung
phong gia nhập bộ đội lên đường vào Nam đánh giặc chống
xâm lăng. Học sinh trẻ còn lại, ngoài những giờ cố gắng
ngồi nghe thầy giảng bài, họp nhau bàn luận về tương lai
đất nước. Tôi còn nhớ một ban được cử ra soạn lập một bảng
câu hỏi về nguyện vọng của học sinh, hầu mong giúp chính
phủ phác họa chương trình giáo dục sau nầy. Câu hỏi chính
trong bảng ấy là sau nầy muốn làm nghề gì. Tôi không ngần
ngại kê theo thứ tự: 1) Nông học; 2) Hóa học; 3) Điện học.
Ưu tiên cho ngành nông có lẽ vì những năm đói kém, tôi
được anh tôi động viên lên trồng khoai ở ven đầm trên
truông Phò Trạch, từ đấy nhận định vai trò quan trọng của
môn nuôi trồng. Định mệnh đã đưa đẩy tôi tiếp xúc cả ba
ngành ấy nhưng qua ba mức khác nhau.
Tản cư về, học sinh vội vã soạn thi bằng Trung học phổ
thông tổ chức trước hè năm 1947, bất chấp đã học qua những
lớp nào, nhưng phần lớn đều ở mức lớp đệ tứ niên nghĩa là
đúng vào năm phải thi. Môn nào cũng phải tự học lấy, đặc
biệt môn toán. Tôi nhớ thời học ở trường dòng Pellerin,
thầy cho không biết bao nhiêu bài toán để làm ở nhà. Thì
đây, một số bạn họp nhau buổi chiều tại nhà anh tôi ở trên
đường Bờ sông An Cựu để cùng học: chúng tôi chỉ định trong
cuốn sách toán Brachet mỗi kỳ một chương nào đó, học cho
thuộc, lúc gặp nhau chỉ làm toán. Ai làm xong một bài thì
mọi người phải dừng để nghe lời giải. Cứ thế cho hết các
bài toán trong chương mới được nghỉ. Với lối học nầy,
chúng tôi thấy tiến bộ rõ ràng vì làm được tất cả những
bài toán là thuộc chương. Sau hè, trường Trung học Khải
Định mở khoa thi tuyển vào những lớp đệ nhất chuyên khoa.
Có hai ban A (Toán) và B (Vạn vật học). Mặc dầu đã tiến bộ
ít nhiều trong môn toán, tôi ghi tên thi vào ban B, luôn
trong mục đích nhắm ngành nông học sau nầy. Nhờ môn toán,
tôi đậu đầu. Chấm điểm, xếp hạng cho vui mà thôi vì mọi
thí sinh đều được nhận vào học. Tưởng tàu đã đặt trên
đường rầy thì chỉ còn chạy đến đích, không dè một sự kiện
xảy ra như máy bẻ ghi hướng tàu qua một lối khác: giữa năm
1948, Viện Đại học Sài Gòn mở Trường Vô tuyến điện. Đặc
biệt năm đầu, thí sinh không cần có bằng Tú tài. Thế là cả
bọn hai lớp đệ Nhất chuyên khoa đổ xô vào ghi tên thi. Qua
vấn đáp chỉ có một môn toán mà giám khảo lại là ông
Harter, giáo sư toán của chúng tôi ở trường trước cuộc đảo
chính Nhật. Tôi may mắn được ghi trong số những học trò
đậu. Thế là cùng bốn bạn cùng lớp, tôi lên đường đi du học
Sài Gòn.
Cuối năm học đầu tiên của tôi ở Trường Vô tuyến điện,
phong trào đi học bên Pháp lên cao. Cụ mạ tôi liên tiếp
nhau từ trần sau mấy tháng phải lìa bỏ nhà cửa xây dựng
suốt một đời ở Mỹ Cang vào Huế, tôi thấy ít còn ràng buộc
với gia đình nữa. Chị tôi và mấy anh tôi chịu giúp tôi đi
du học trong một thời gian ngắn. Thế là tôi chạy mua một
vé hạng ba từ Sài Gòn lên tàu thủy đi Pháp. Đi tàu hạng ba
nghĩa là ngủ ở đầu tàu cùng với binh sĩ Pháp hồi hương,
xếp hàng lãnh bữa ăn khoai tây luộc trên mâm thiếc rồi
ngồi ăn trên boong tàu. Không quen, khoai tây thật khó
nuốt. Thèm da diết những hột cơm thơm dẻo. Nói cho đúng,
khi vượt Ấn Độ Dương, tàu tròng trành lắc lư dữ dội thì
cũng chẳng ăn uống gì được, suốt ngày ngồi nhìn trời ngắm
mây là cách tiêu khiển giản dị nhất nếu không đi dạo xem
mấy cô đầm bơi lội trong bể tắm hay vào phòng chiếu xem đi
xem lại cuốn phim La symphonie pastorale để mặc
sức chùi mắt khóc thầm. Sau 17 ngày đêm lướt sóng, dừng 4
lần ở các hải cảng Singapore, Colombo, Djibouti,
Port-Said, chiếc tàu La Marseillaise cập bến Marseille
ngày 10.10.1949. Ở đúng tuổi 20 tôi không ngần ngại trước
một tương lai còn mờ mịt và chắc đầy chông gai hiểm trở.
Đây là một ngày lịch sử quan trọng trong đời tôi, ngày thứ
nhì sau ngày sinh.

(Chàng trai 20 tuổi xăn tay áo mạnh dạn xông vào miền
đất lạ)
Ghi tên vào Trường Kỹ thuật Điện thuộc Viện Đại học
Grenoble, tôi được gởi về học một năm dự bị ở Chambéry ở
vùng Savoie giá tuyết. Mức Pháp ngữ, toán học trung bình
so với những sinh viên học đều đặn trung học, tôi cố gắng
vượt qua được năm dự bị nầy nhưng bước lên năm học chính
thức thì thấy mình thiếu hẳn căn bản. Đi học tự túc, sợ sẽ
không có đủ tiền để học cho đến khi có nghề độ thân, tôi
lên Paris ghi tên vào học Trường Kỹ thuật Hóa học. Giã từ
điện học. Hai năm sau, một mảnh bằng nhỏ trong túi, tôi
sung sướng lãnh đuợc những đồng tiền đầu tiên, hết còn sợ
phải bị đói. Vừa đi làm, tôi vừa ghi tên đi học lớp ban
tối dành cho người đi làm ở Trường Quốc gia Nghệ thuật và
Nghề nghiệp CNAM. Hồi ấy, cũng phải 7-8 năm mới học xong
bằng kỹ sư. Năm 1954, một ông giáo sĩ quen giới thiệu tôi
qua học ở Viện Đại học Fribourg bên Thụy Sĩ, ăn ở với
những tu sĩ trong nhà dòng Saint-Justin, mặc dầu tôi không
phải là người công giáo. Ở đây tôi đã sống mấy tháng gần
kề cựu huynh trưởng hướng đạo Dạ Mã Võ Thành Minh, người
cắm trại thổi sáo đòi hòa bình trên bờ hồ Leman. Thấy tôi
đạt kết quả tốt, Cha bề trên nhà dòng xin được cho tôi một
học bổng qua Mainz ở tiểu bang công giáo Rheinland bên
Cộng hòa Liên bang (Tây) Đức. Lúc lấy tàu hỏa qua Đức tôi
mới bắt đầu học tiếng Đức. Tình cờ tôi gặp trên tàu một
ông giáo sĩ người Mỹ tình nguyện giảng bài Đức ngữ đầu
tiên cho tôi bằng tiếng Anh. Mặc dầu chưa khắc phục được
sinh ngữ, với rất nhiều khó khăn, tôi cố gắng tiếp tục
những chứng chỉ cử nhân hóa học đã bắt đầu ở Fribourg.
Nhưng vì những duyên cớ hiện giờ tôi cũng không biết rõ,
trước khi dự thảo luận án tiến sĩ, tôi bị cắt học bổng!
Trở về lại Paris, bằng cấp Đức hồi đó không có tương đương
ở Pháp, ví chi đi làm kiếm sống, tôi ghi tên dự thảo luận
văn thi bằng Cao học DES
(tiền thân của DEA sau này) trong phòng thí nghiệm hóa học
hữu cơ của Giáo sư Bửu Hội ở Viện Radium. Ở Thụy Sĩ và ở
Đức, nếu chỉ phải lo tiền túi thôi, giờ đây tôi còn phải
chạy kiếm tiền ăn ở. Tôi không đi giữ em hay làm người
chạy giấy trong nhà sách như lúc trước, cũng không xin dọn
bàn trong các quán cơm như nhiều sinh viên khác mà kiếm
việc ngay trong lãnh vực hóa học. Tôi còn nhớ mãi những
hôm trời lạnh cóng tay từ sáng sớm đến trưa phải chế tạo
những chất thuốc trong một nhà kho không sưởi, không chút
bảo vệ an toàn lao động, mệnh danh là phòng thí nghiệm. Ăn
vội ở quán cơm sinh viên xong là phải đi học cho đến tối
mịt. Lại quán cơm sinh viên trước khi về nhà. Tính ra tôi,
và sau này cùng với nhà tôi, sử dụng những quán cơm công
cộng nầy hơn cả chục năm. Cũng may là trời sinh voi sinh
cỏ: với một sức khỏe tương đối tốt và một sức chịu đựng
vượt mức, tôi cũng đạt được mảnh bằng sau hai năm (1958).
Trong khoảng này, tôi lại may mắn gặp người bạn đường tâm
đấu ý hợp, đồng tâm đồng chí, nhà nghèo, ham học, sau này
sẽ cùng tôi thành lập một nhóm khảo cứu, và chúng tôi cưới
nhau ngày 23.2.1957, nàng mới vào Trường Đại học Sư phạm
(ENS Cachan), tôi chuẩn bị thi bằng cao học, hơn một nửa
thế kỷ rồi! Đây là ngày lịch sử thứ ba trong đời tôi. Kinh
nghiệm ở phòng thí nghiệm sẵn có, tôi xin vào dự thảo luận
án tiến sĩ ở Trường Quốc gia Cao đẳng Hóa học ENSCP thuộc
Viện Đại học Paris, luôn trong môn hóa học hữu cơ. Được
ông giáo sư kiếm cách giúp đỡ về mặt tài chánh, tôi được
rảnh rang hơn để học hành. Cũng phải bốn năm mới hoàn
thành luận án và tôi đệ trình ngày 27.2.1962 tại Sorbonne,
13 năm sau khi đặt chân lên đất Pháp, ngày lịch sử thứ tư
trong đời tôi. Tương đối, đậu tiến sĩ ở tuổi 33 là chậm so
với những sinh viên có điều kiện học hành điều hòa, nhưng
tôi tự hào đã học được trong trường đời năng lực chịu
đựng, khả năng vượt sức, những đức tính kiên nhẫn, chịu
khó, tiết kiệm, tảo tần… thành công với một khả năng tài
chánh tối thiểu, một trí thông minh vừa phải nhưng với một
sức thích nghi liên tục, một tính tháo vát trường kỳ.
Được tuyển vào Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu Khoa học
CNRS, từ nay tôi chuyên làm về hóa học hữu cơ. Lúc ban
đầu, tôi chỉ làm nghiên cứu thuần túy, tìm cách chế tạo
những acetylenic là những phân tử mang dấu nối ba và xem
xét những phản ứng của chúng. Sau có dịp, cùng với cả
nhóm, chúng tôi chuyển hướng qua cộng tác với những nhà
sinh vật học, tổng hợp những chất thuốc kháng sinh mới,
chẳng hạn những phân tử amin acid mang phospho P thay thế
carbon C để đánh lầm vi trùng ở một giai đoạn nào đó khi
chúng xây dựng màng cơ thể, trong khuôn khổ những chất ức
chế enzym. Đây là một thử thách lớn cho nhà khảo cứu vì
những phân tử này vừa khó chế tạo vừa không vững bền. Nhóm
của chúng tôi chỉ học hỏi phản ứng ở phòng thí nghiệm, đưa
ra chế thành thuốc là việc của những viện bào chế. Chúng
tôi sẽ rất hãnh diện nếu sau này có một chất thuốc kháng
sinh lấy những amin acid phospho kia làm nền tảng. Làm
việc say sưa nhưng đến tuổi cũng phải về hưu. Tôi nghỉ
việc cuối hè 1994, ở chức Giám đốc Nghiên cứu, vào tuổi
66. Tương đối rảnh rang hơn trước, tôi dành thì giờ viết
lách như nhiều chục năm qua. Thật ra, từ những năm sinh
viên, tôi đã viết những bài phổ thông khoa học đăng ở các
báo Bách Khoa, Phổ Thông ở Sài Gòn. Ngày nay, song song
với những bài bút ký du hành, ấn tượng những chuyến về
thăm quê hương,… tôi được tờ Thông tin Khoa học nay đổi
thành Nghiên cứu và Phát triển ở Huế yêu cầu viết về những
vị thuốc và cây thuốc. Nhắm mục tiêu khai thác tài nguyên
đất nước, tôi chọn những đề tài liên quan đến những sản
vật (nhựa hương, một dược, hổ phách), súc vật (con sam,
chim yến, cà cuống), cây công nghệ (cỏ ngọt, rau câu, bèo
dâu), nhưng cốt yếu là những cây thuốc được dùng trong dân
gian. Không có ý muốn kê khai mọi vị thuốc đã có trong
nhiều sách, tôi chọn những cây có một vài đặc điểm:
- Những cây ăn trái: bắp (chữa áp suất, thông
tiểu tiện, trị sỏi thận); đu đủ (thuốc mạnh tim, trị viêm
vú, khử độc trùng); khế (chống vi khuẩn, chữa lở loét, trị
scorbut); mít (gián phân bạch huyết bào, kích thích tăng
sinh tế bào, phá rối độc trùng sida); sầu riêng (ngăn cản
sinh đẻ, đặc tính kích dục, thức tỉnh say rượu); măng cụt
(chống dị ứng, chữa sâu răng, kháng vi sinh); xoài (chống
viêm, giảm đau, chữa sốt) v.v…
- Những cây có hoa: mai (điều trị bệnh lao phổi, bệnh mồ
hôi nặng mùi, chữa tinh dịch vô sinh); sen (bổ dưỡng, an
thần, giải độc); hổ ngươi (nhức đầu, ù tai, khó ngủ); đỗ
quyên (chống viêm, dị ứng, hen suyển); vông vang (nhuận
tràng, sát trùng, hoạt thai); trà mi (tuần hoàn tim mạch,
giảm đau an thần, phá phách hành khí) v.v…
- Những cây có hương, có vị: xương bồ (điều hòa nhịp
tim, dự phòng viêm răng, bảo dưỡng da đầu); hồi hương
(chống co thắt, kích thích tim, giúp tiêu hóa); me đất
(thanh nhiệt, mát máu, điều kinh); hành, tỏi (kháng sinh,
diệt trùng, trừ nấm), quế (hạ sốt, tiêu chảy, khử nấm);
cau (trị u khối, chống mảng răng, bảo vệ da), trầu (hạ
huyết áp, duỗi bắp cơ, trị giun sán), những cây rau dùng
trong canh rau thập toàn như cải cúc (ho cảm, thổ huyết,
chậm tiêu), dâu tằm (diệt khuẩn, kháng sinh, chống già),
khoai lang (thuốc diệt trùng, phòng viêm khớp, điều huyết
áp), lá lốt (giun sán, chống viêm, ngừa thai), mồng tơi
(tán nhiệt, hoạt trường, giải độc), rau má (giải nhiệt,
thông tiểu, thống kinh), rau ngót (sót nhau, hóc xương,
tưa lưỡi), rau sam (huyết nhiệt, táo bón, chốc đầu), cây
sung (nhức răng, nhức xương, phong thấp), vông nem (an
thần, gây ngủ, sát trùng),…

(Trải qua 60 năm người tha hương luôn mãi hướng lòng về
quê nhà)
Không định trước, từ hóa học các vị thuốc, tôi
đã lấn qua môn thực vật học, nối lại với mối tình nuôi sẵn
từ thuở học sinh trung học tuy không phải là hoàn toàn
nông học. Muốn bài viết hấp dẫn, không chỉ dành riêng cho
những nhà khoa học, tôi cố gắng tìm kiếm những mốc lịch
sử, những chuyện cổ tích, những truyện thần thoại, thêm
vào những giai thoại cá nhân, góp chung lại thành những
bài mà bạn bè thường cho là có tính chất dân tộc -
thực vật học. Tôi mừng thầm thấy những bài tổng luận
được hưởng ứng, trái lại với trước kia, theo yêu cầu tôi
lục tìm tài liệu, sao chụp gởi về mà chẳng thấy một tiếng
vang. Ngày nay, quá tuổi cổ lai hy, hồi tưởng lại những
ước mong thời trẻ, làm bảng tổng kết, tôi hân hoan thấy đã
đạt được nguyện vọng mà hồi ấy ngay chính mình cũng nghi
hoặc. Vào tuổi đôi mươi ở Huế giữa những năm thập niên 40,
ăn mặc thiếu thốn, trường ốc thất thường, tình thế bất ổn,
học sinh nào dám cam đoan sẽ thành công giảm nghèo, vượt
khó được để trở thành một khảo cứu viên khoa học hằng mộng
mơ suốt thời niên thiếu của mình.
Xô thành trước thềm xuân Kỷ Sửu
V.Q.Y
(nguồn: TCSH
số 240 - 02 - 2009)
©
http://vietsciences.free.frr
và http://vietsciences.org Võ Quang Yến
|