Mạnh Bích không còn nữa,
31/1/2006
Trần Quang Hải (TQH) : Xin Anh cho biết một chút về
tiểu sử của anh (sinh quán, lúc còn đi học tiểu ,
trung , và đại học) , đã đưa anh đến ngành « gõ đầu
trẻ » ở Việt Nam và tại Pháp cho đến lúc hưu trí .
Mạnh Bích (MB) : Tôi sinh năm 1929 ở Thừa Thiên
(Trung Việt) . Lúc nhỏ học tiểu học ở trường Vạn
Xuân (Thành Nội), và sau đó ở trường Quégnec tại Huế
. Khi vào trung học thì học ở Lycée Khải Định (Huế)
. Sau khi đậu tú tài, tôi vào đại học, đậu cử nhân
giáo khoa văn chương Pháp và cao học văn minh Pháp ở
đại học văn khoa Sài Gòn .
Tôi đã dạy văn chương Việt ở các trường Pháp như
Jean Jacques Rousseau, Marie Curie, Taberd, Regina
Pacis ở Sài Gòn và Fraternité ở Chợ Lớn cho đến năm
1975 .
Tôi cũng dạy văn chương Pháp ở Đại Học Vạn Hạnh (cấp
cử nhân), và Institut Français (các lớp tốt nghiệp)
ở Sài Gòn cho đến năm 1975
Khi sang Pháp, tôi dạy văn chương Pháp (cấp trung
học) ở các trường Georges Brassens và André Maurois
(Académie de Versailles, ngoại ô Paris) từ năm 1984
đến lúc hưu trí vào năm 1995.
TQH : « Vì lý do nào đưa anh đến âm nhạc (lúc nào ?
học nhạc đầu tiên với ai ? biết đàn gì ? học nhạc lý
với ai ? ) và khi nào sáng tác nhạc phẩm đầu tiên ?
tại đâu ? nguyên do tại sao ? Phương pháp sáng tác
của anh như thế nào ? (nhạc hay lời trước ? ) »
MB : Lúc đầu tiên tôi học nhạc bằng cách chơi đàn
với bạn bè : mặng cầm (mandoline) và sáo tre với
nhạc sĩ Văn Giảng (là Thông Đạt, tác giả ca khúc «
Ai về sông Tương »). Khi Văn Giảng đến học hạ-uy-cầm
với Ưng Lang thì tôi học tây ban cầm với Ưng Tiến.
Trong thời kỳ này (từ 1942 đến 1949 ở Huế) tôi học
thêm nhạc lý với trường hàm thụ ở Paris (Cours
universels de correspondance)
- Từ lúc vào Sài gòn, học thêm nhạc lý (hòa âm và
sáng tác) với nhạc sĩ Trần văn Lý, đài Pháp Á. Anh
Lý là « ông thầy » khai tâm của tôi. Hôm ấy, tôi đem
đến cho anh ấy một bản vừa sáng tác « Trở về chốn
xưa » (sau này được sửa lại là « Nhà cũ vườn xưa »)
anh Lý, tuy vừa ở phòng thâu ra và sắp phải tập dượt
tiếp với Anh Ngọc, vẫn cầm lấy để xem. Sau khi đọc
qua, anh ấy kéo tôi vào văn phòng và một cách ân cần
và dịu dàng phân tích cho tôi nghe là tác phẩm đầu
tay của tôi « hoàn toàn hỏng, complètement foutu ».
Tôi ngẩn ngơ và rất buồn. Không ngẩn ngơ sao được vì
lúc ấy, tôi không hiểu gì cả về những nguyên tắc căn
bản của sự cấu tạo giai điệu (phrase mélodique), hòa
âm (harmonisation), hợp âm (contre-point) và nhất là
cấu trúc (structure) của một bản nhạc. Còn buồn thì
tất nhiên rồi vì khi đến, tôi hí hửng tưởng được
khen là « tác phẩm đầu tay mà tuyệt tác quá, un coup
d’essai valant un coup de maitre ! », đâu ngờ !!!
Thấy vậy, anh Lý vỗ vai tôi và khuyên : « Em nên
trau dồi thêm về hòa âm để làm nhạc ‘tốt’ hơn. Về
cấu trúc, em chỉ cần học thật kỹ thơ Đường » Lại một
chuyện lạ nữa. Sao lại phải học thơ Đường, tôi tự
hỏi. Anh Lý, hình như đoán biết, liền tươi cười nói
: « Thơ Đường có nhiều loại, có thể đem lại cho mình
nhiều vần điệu cũng giống như nhạc vậy. Riêng loại
thông dụng bốn câu năm chữ, loại tám câu bẩy chữ thì
rất cần vì từ đó, mình mới nắm vững được sự cân đối
của một bài nhạc. Về học đi »
Mấy tháng sau, nhận thấy tôi có thâm nhập được những
lời khuyên của mình, anh Lý giới thiệu cho tôi anh
Xuân Lôi (từ Hà Nội vào) và nhạc sư Grégor
(pianiste). Theo anh Lý, đấy là hai nhạc sĩ mà anh
quí trọng : « anh Xuân Lôi thổi saxo rất điêu luyện
vì anh ấy có tâm hồn thi sĩ. Nhờ vậy mà anh ấy chơi
nhạc hay. Còn ông Grégor là một giáo sư piano rất bổ
ích cho việc soạn nhạc vì ông ấy rất chú trọng về
"étude de gammes" (nghiên cứu thang âm hay âm giai)
Dù được soi đường như vậy, chuyện âm nhạc của tôi
vẫn nằm trong nguyên lý văn chương trong truyền
thống của gia đình : người có học (instruit) thì
phải biết nhiều nghề (sĩ kiêm bách nghệ), nói cho
gọn là phải biết hưởng BỐN sinh thú tinh thần : cầm,
kỳ, thi, họa. Có bạn văn chương chưa đủ, phải có
thêm bạn đờn, đấy là lời dạy bảo được lưu truyền từ
đời ông-nội của tôi. Cho nên, tôi không bao giờ có ý
định trở thành instrumentiste, cũng như cố leo lên
bậc cao cấp của việc « học nhạc ». Tôi học
tây–ban-cầm, cũng như dương cầm, cũng như măng cầm
(mandoline) hay thổi sáo tre chỉ đến trình độ xoàng
xĩnh, tầm thường, có thể xếp vào hạng chơi vớ vẩn
vậy thôi. Có nghĩa là âm nhạc, đối với tôi, kể cả
lúc viết nhạc, chỉ là một thú tiêu khiển như viết
văn.
TQH : Bản nhạc nào của anh được nhiều người biết tới
nhiều nhất . Đó có phải là đông cơ thúc đẩy anh tiếp
tục sáng tác hay không ? và anh đã tạo sự nghiệp âm
nhạc ở Việt nam (cho tới 1975) với bao nhiêu ca khúc
?
MB :Nói như vậy cũng có nghĩa là tôi chỉ viết được
một bài nhạc khi có một sự xúc động thật thấm thía
gây cảm hứng. Mà đã gọi là cảm hứng thì nó chợt đến,
rồi có thể nguội dần rồi tan đi, tùy theo cường độ
(intensité) và tiến trình (évolution) của tình cảm
lúc bấy giờ. Do « căn bệnh » riêng biệt ấy, có bài
tôi vừa viết nhạc xong là lời tuôn ra lẹ làng, gọn
gàng, đẹp đẽ như bài Thôn trăng. Bài này được viết
do một sự tình cờ. Hốm ấy, Hoàng Thi Thơ cũng ở
đường Bùi thị Xuân, phía số chẵn, sang chơi để hỏi
về « ngũ cung trong nhạc ta » và lối kết thúc của
các bài « lý ». Tôi không biết giảng giải thế nào
nên đem bài « lý con sáo » ra bàn chung. Hoàng Thi
Thơ lấy làm lạ là « tại sao các cụ không dứt nó bằng
tonique ». Do đấy tôi ngẫu hứng viết một lèo trọn
bài với phần ca khúc lấy điệu lý con sáo làm « tung,
inspiration) và điệp khúc theo tân nhạc, điệu bolero
rất thịnh hành lúc bấy giờ. Em tôi, Nguyên Diệu chụp
lấy viết luôn lời. Thế là chỉ trong vòng chưa đầy
một giờ, bài Thôn trăng thành hình. Hoàng Thi Thơ
rất bằng lòng và đem khoe với các anh Thẩm Oánh, Võ
đức Tuyết, Hoàng Trọng.
Chỉ một tuần sau, sau khi đôi song ca Ngọc
Cẩm/Nguyễn hữu Thiết trong ban Hoàng Thi Thơ trình
bày, bài Thôn Trăng được trở thành tub trong gần nửa
năm.
Trường hợp sáng tác nhanh, gọn như vậy cũng sẽ xảy
ra với bài Tình ca người vượt biển. Hôm ấy, giữa đại
dương, khi thuyền chúng tôi ra đến hải phận, trong
khi mọi người đang hò reo mừng rỡ, tôi lần lượt hát
cho vợ tôi nghe những mơ ước của tôi khi phải đổi
mạng sống để tìm tự do. Với mười bài Tiếng hát trong
tù cũng vậy. Những bài ấy được làm trong trại cải
tạo, lúc ngẫu hứng, hát lên để cho vài người bạn
đồng tâm nghe.
Trái lại có bài được xây dựng trên một ý nhạc rất
vừa ý nhưng khi làm lời thì ghép mãi không có lời
nào vừa ý nên đành bỏ dở. Thông thường là vậy. Từ
trước cho đến khi sang Pháp, luôn luôn như vậy. Cho
nên, tôi viết rất ít.
Trong thời kỳ này (1949-1981) tôi chỉ viết vỏn vẹn
có những bài này :
- Dưới bóng dừa (với Y Vân)
- Cánh phượng (với Võ đức Tuyết)
- Tâm tư (với Hoàng Lang)
- Thư người chiến binh (với Nguyên Diệu)
- Về miền núi cao
- Những cánh mai vàng
- 10 ca khúc « Tiếng hát trong tù » : Tình ca người
vượt biển, Ngoài song, Không bao giờ em khóc, Đón
mẹ, Quà đau thương, Mưa buồn thế hệ, Giọt sương,
Trăng mờ Ma Liêng, Giáng sinh Ma Liêng, Một ngày mai
TQH: Từ khi anh sang Pháp (năm nào ?) cho tới ngày
hôm nay (2004), anh đã sáng tác bao nhiêu bài, viết
cả nhạc lẫn lời , hay phổ thơ của người khác ?.
MB : Sau này, khi tôi bắt đầu hoạt động văn hóa tại
Pháp, tôi quay sang lối viết bằng cách « phổ nhạc
vào thơ » . Nguyên nhân là khi tôi nhận được một thi
phẩm của một nhà thơ nào gửi đến tặng thì tôi cám ơn
bằng cách « phổ nhạc » một vài bài tôi ưa thích
nhất. Loại nhạc này được tôi xếp vào loại « Tình thơ
ý nhạc » còn loại của tôi sáng tác trọn vẹn cả nhạc
lẫn lời thì thuộc loại « Tình ca »
- Anh ghép tên em vào tên anh (Hồ trọng Khôi, 1991)
- Buồn xưa (Tùy Anh, 1996)
- Đà Lạt yêu (Vũ Thi An, 1998)
- Hoài hương (Minh T âm, 1997)
- Lẵng hoa trong mộng (Tuệ Nga, 1996)
- Màu thơ tôi (Hoài Việt, 1990)
- Ngày xưa (Tuệ Nga, 1996)
- Những giọt sương (Tùy Anh, 1998)
- Tình già (Hoài Việt, 1990)
- Ước thầm (Vũ Thi An, 1998)
- Về động Đào hoa (Phạm thị Nhung, 1998)
- Chốn cũ vườn xưa
- Cho tôi một ngày
- Nhớ Sài gòn
- Về với Paris
- Mẹ
TQH : Song song với sáng tác nhạc, anh còn viết sách
bằng tiếng Việt và cả tiếng Pháp . Xin Anh cho biết
anh có bao nhiêu tác phẩm, với đề tài nào ? và anh
được giải thưởng nào ? ở Việt Nam hay ở Pháp ? hay
cả hai nơi ?
MB : Viết sách là động cơ chính cho sự hoạt động văn
hóa của tôi ở Pháp. Lúc đầu, từ khi ở trên đất Pháp,
vì bận việc dạy học, tôi chỉ viết những quyển « Le
douloureux voyage » (tâm sự lưu vong nói với con
cháu) « Promenade dans leurs jardins » (dịch thơ hay
của các bạn thơ) để dành cho con cháu, bạn bè thân
xem chứ không cho phổ biến.
Chỉ bắt đầu từ năm 1997, sau biến cố lớn lao và đau
buồn của Văn bút Việt nam hải ngoại, tôi mới nghĩ
đến việc phổ biến tư tưởng văn học của mình. . Bản
tiếng Pháp tựa là « Le Viêt nam crucifìé » được Giải
thưởng Văn chương đặc biệt của Hội Văn gia Pháp ngữ
Quốc tế năm 2001.
Những tác phẩm khác như « Những tâm hồn nổi loạn,
Người công dân thế kỷ 21 » được viết cho lứa tuổi vị
thành niên cũng nằm trong luận điệu ấy. Hai quyển «
Tam giáo và Việt tính » (khảo luận) và « Lá rụng »
(triết lý) chỉ có liên quan đến vấn đề « tĩnh lặng
của tâm hồn ». Những bài báo của tôi thường lấy
trọng tâm « Việt tính » mà thôi, kể cả những bài
viết có tựa đề là « Chuyện tào lao » với biệt hiệu
Ô.L.A.
TQH : Giữa nhạc và văn , đối với anh môn nào gần với
anh nhất ? tại sao ?
MB: Trong khuôn khổ nghệ thuật với tinh thần tìm
kiếm chân, thiện, mỹ thì « thi + ca » được xem là bộ
môn cao cấp nhất nhưng với tư thế của một nhà giáo
(enseignant), việc viết sách, làm văn học tất nhiên
phải chiếm ưu thế trong sinh hoạt tinh thần của tôi.
Hơn nữa, cuộc sống của một người hưu trí rất thuận
lợi cho loại sinh hoạt này. Đối với một người thích
« gần với sách vở » thật tình mà nói, không gì hạnh
phúc bằng được sống cái cảnh tự do, thoải mái đọc
sách, viết lách và làm thơ, viết nhạc lúc nào cũng
được. Và mỗi ngày, sau vài giờ viết lách, đọc sách,
tôi mới « đến » với âm nhạc để tâm hồn được nghỉ
ngơì, thanh thản. Dạo vài bài nhạc trong cung cách
này không thể nào gọi là « gần » với nhạc được. Nó
chỉ giúp cho những gì tôi vừa thâu nhận được qua văn
chương ngấm, lắng vào tâm hồn. Sự ngấm lắng ấy nhiều
khi cũng tạo được một cảm hứng, gợi lên một ý nhạc,
một câu thơ, mở đầu cho sự sáng tác một bản nhạc.
Tôi nghĩ là vì vậy mà nét nhạc của tôi không có cái
hồn nhiên, giản dị như của phần đông các nhạc sĩ
thường xuyên « gần » với nhạc.
TQH : Cảm nghĩ của anh đối với tân nhạc Việt Nam
hiện tại ở hải ngoại và ở quốc nội
MB : Tôi vẫn hằng theo dõi sự sinh động của tân nhạc
Việt Nam, tuy sự « để tâm » ấy không được chuyên
chú, vẫn có một cung cách tài tử thôi. Tuy nhieân
tôi cần nhấn mạnh ở một điểm này : là tôi theo dõi
sự sinh động của tân nhạc Việt Nam trên tinh thần
của một người luôn luôn bận tâm về sự tồn vong, hưng
thịnh của nước Việt Nam. Mà văn học, nghệ thuật là
thước đo giá trị tinh thần của một dân tộc.
Nói như vậy thì ai cũng hiểu là tôi, cũng như đa số
văn nghệ sĩ ở hải ngoại, rất bận tâm về phương hướng
sáng tác văn, thơ, nhạc ở hải ngoại cũng như ở trong
nước. Nhìn chung, mấy độ sau này, tất cả các bộ môn
ấy đều chịu cảnh tản mạn và chưa thoát khỏi những
trăn trở. Trong nước thì không nói làm gì nhiều. Bị
gò bó trong bao nhiêu lâu bởi phương thức « hồng hơn
chuyên », các nhạc sĩ, sau một thời chỉ chăm chú lo
sáng tác những bài ca đấu tranh, tôn vinh Bác, Đảng,
nên những tình cảm « người » thường trở nên gượng
gạo, tẻ nhạt. Nay trong khuôn khổ chính trị/văn hóa
của chính quyền đang thực hiện « chính sách đổi mới
xã-hội chủ nghĩa », bộ môn ca nhạc được « thả lỏng »
đôi chút. Nhiều nhà tân nhạc đã rẽ sang một con
đường sáng tác mới chú trọng loại tình cảm, lyrique
(tình cảm lãng mạn vẩn vơ chứ chưa có mức độ trữ
tình sâu sắc) và đặc biệt là loại nhạc trẻ kích động
lối Âu Mỹ. Rất tiếc là căn bản soạn nhạc của họ cho
các loại này jazz, pop, soul…chưa được vững nên cấu
trúc của những bài nhạc còn luộm thuộm. Lối trình
diễn cũng được « bung » ra, trở thành xô bồ, hỗn
loạn hơn là kích động và chưa thể nói là tân nhạc
Việt Nam trong nước đang bước vào một giai đoạn «
mới », mới với âm hưởng mới nhưng vẫn giữ được nét
dân tộc, không bị lai căng.
Ở hải ngoại, nhờ những phương tiện phong phú sẵn có
trong những xã hội tư bản tự do, các nhạc sĩ, nhìn
chung, đã tạo cho tân nhạc một bộ mặt, một tầm vóc
rất đáng khích lệ. Từ các nhạc sĩ thuộc diện cổ điển
tây phương đến các nhạc sĩ « điện tử », nhiều thực
hiện có giá trị đã ra đời gây sự chú ý của giới
thưởng ngoạn Âu Mỹ. Điều đáng lưu ý là hầu hết sinh
hoạt riêng rẽ nên không gây đưọc tiếng vang lớn trên
trường quốc tế. Nếu có được một mạnh-thường-quân
(tinh thần thôi cũng được) đứng ra kết hợp họ, lập
những ban hợp tấu để thỉnh thoảng trình diễn cho
công chúng Âu Mỹ thì âm nhạc Việt Nam kể luôn cả
tân, cổ nhạc sẽ nhờ đó mà khởi sắc. Ngành sáng tác
nhạc cũng không thoát khỏi điều kiện ấy.
Xin nhắc lại : đấy là những ý kiến hoàn toàn cá nhân
của một người bận tâm về giá trị nghệ thuật của nghệ
sĩ Việt Nam chứ không phải của một nhà nghiên cứu,
phê bình nhạc học.
TQH : Cám ơn Anh Mạnh Bích . Hy vọng một ngày gần
đây giới yêu nhạc ở Paris sẽ có dịp thưởng thức
những ca khúc của anh trong một buổi « Nhạc Mạnh
Bích »
MB : (cười) Tôi cũng mong như vậy .
|