Hiệu trưởng Paul
Grazziani tiếp tôi ở văn phòng. Tôi nghe theo lời
khuyên của André Laffont, thanh tra ở viện
Versailles, bạn của Maurice Graton và tôi. André bảo
là tôi đến nhận việc hai tháng sau ngày tựu trường
thì nên đến gặp, hoặc người giám học hoặc một giáo
sư chủ nhiệm nào đó, nếu là chủ nhiệm của một lớp
"khó" thì càng hay, để nắm vững tình hình trước. Tôi
đến trình quyết định cho Paul và không đợi tôi yêu
cầu, anh cho mời bà Juliette Guimauve sang. Paul nói
với tôi là ở vùng Tavernay này, toa được cái
may mắn là loại học trò "khó" không nhiều lắm. Có,
lẽ tất nhiên, nhưng tùy loại. Ở trường này của moa,
đứa nào khó là vì có vấn đề gia đình. Học trò vùng
này, đa số là con cháu tướng tá cả. Chúng nó phần
nhiều ngoan, chăm học, đứng đắn. Đứa con nhà khá
giả, cha có vai vế thì có mặc cảm... tự ti vì cha mẹ
không dành cho nó những tiện nghi ngoại vi tốt, sang
bằng vài đứa bạn của nó.
Anh ngừng lại vì bà Guimauve vừa
vào. Anh giới thiệu bà giám học với tôi rồi tiếp tục
nói :
- Những đứa con nhà hèn kém hơn
thì có mặc cảm khác. Cũng tự ti nhưng ... khác.
Bà Guimauve đưa tay, ngắt lời :
- Tôi xin xác nhận. Chúng nó tự
ti vì chúng nó là con những thuộc hạ của bố mẹ của
những đứa bạn học cùng lớp và nhiều khi con những
người giúp việc trong nhà của những đứa bạn. Cho
nên, các giáo sư không những phải giỏi về sư phạm
còn phải thạo tâm lý.
- Phải có nhiều kinh nghiệm dạy
học... theo kiểu xưa, nghĩa là giỏi sư phạm 40%
và... (Paul lại cười) giỏi chính trị...
- Nghĩa là phải biết đối phó với
những trường hợp bất ngờ và rắc rối nhất. Nghĩa là
người giáo sư phải luôn luôn bình tĩnh, điềm đạm,
biết cách nói chuyện, biết cách ‘‘chuyển giòng điện
qua lại’’.
- Juliette nói đúng đấy. Vì vậy
hôm moa gặp lại toa ở Versailles, moa rủ toa về đây
dạy. Moa nói ý định ấy với Juliette thì được đồng ý
ngay. Trường này cần những giáo sư như toa. Cho nên
moa mới can thiệp gắt gao cả mười ngày nay
- Paul nói
- Thứ hai ‘‘vu’’ mới bắt đầu
nhưng hôm nay, nếu ‘‘vu’’ muốn, tôi sẽ dẫn ‘‘vu’’ đi
một vòng, ngang qua mấy lớp của ‘‘vu’’ để xem chúng
nó ra sao. A, đây là thời dụng biểu của ‘‘vu’’.
‘‘Vu’’ xem giờ giấc như vậy có thuận tiện không. Đấy
là giờ giấc của Antonio xin cho năm nay...
Tôi liếc sơ qua rồi nói :
- Về giờ giấc thì chung chung, có
vẻ được, nhưng tôi hơi ngại...
- Toa ngại về lớp Đệ Tam chuyên
nghiệp chứ gì.
Nói xong, Paul nhìn Juliette. Bà
giám học cười :
- Theo nhận xét của Antonio, giáo
sư chủ nhiệm lớp này và ... của tôi thì lớp này
không thể nào gọi là khó. Chỉ cần giải quyết được
vấn đề thằng Doung là yên.
Tôi hỏi một câu rất ngoài lề :
- Tại sao Antonio không dạy nữa ?
Juliette hiểu ngay ngụ ý của tôi
nên trả lời, giọng nghiêm nghị :
- Không phải vì Antonio chán lớp
Đệ tam ấy mà xin nghỉ dạy dâu. Không có vấn đề ấy
được, chắc ‘‘vu’’ cũng biết. Không ai có quyền bỏ
ngang không dạy một lớp đã được giao cho mình.
Antonio muốn soạn thật kỹ cuộc thi thạc sĩ nên xin
nghỉ. Bây giờ có ‘‘vu’’ đến nên lũy mới được phép
nghỉ... Theo lũy, cái khó của lớp đệ tam ấy chỉ có
thế.
Paul đẩy lùi ghế, ngả người và
duỗi chân rồi nói :
- Loại học trò như thằng Doung
cần có toa.
- Nó là người gì? Tên viết như
thế nào ?
- Người Việt Nam. Tên nó là D - U
- N- G (Paul đánh vần theo tây). Chỉ có người Việt
Nam mới có tên ấy. Không có dấu nhưng moa biết nó là
người Việt.
- Tất nhiên, toa có dạy ở Việt
Nam rồi, toa cũng biết tên Việt Nam đặc biệt thế nào
rồi. Nhưng chữ DUNG tiếng Việt mà viết theo tiếng
Pháp không có dấu cũng có thễ là dung với dấu ngã
(accent tilde), dung với dấu nặng (accent lourd),
dung không dấu. Mấy tên này dùng cho con trai, kể cả
dung không dấu. Còn dung với dấu huyền (accent
grave) thì ít người Việt Nam đặt cho con trai. Miễn
là không phải chữ dung với d có ngang (d barré)...
Juliette cười, ngắt lời :
- Vậy nó có đúng là người Việt
Nam không?
- Bỏ lỗi cho tụi này,
Juliette...Nó đúng là người Việt Nam. Thôi, toa đi
một vòng xem thử...
Paul cũng bảo để Juliette đi với
tôi thôi chứ có Paul đi theo nữa thì ‘‘thiên hạ’’ sẽ
thắc mắc. Tôi không có ý kiến gì, vì trong đầu bị ám
ảnh bởi cái tên DUNG. Dù nó là Dũng, là Dụng, hay
Dung đi nữa thì cũng là một ‘‘đứa nhỏ’’ người Việt
Nam. Mà như vậy thì không biết sự thể sẽ ra thế
nào, khó hay dễ?
Cuộc thám sát làm cho tôi khá yên
lòng. Đúng như lời của Paul nói, học trò ở trường
Georges Brassens này chung chung có vẻ ngoan. Kể cả
lớp Đệ Tam Chuyên nghiệp ‘‘của tôi’’ (tôi kế vị cho
Antonio cho nên sẽ làm giáo sư chủ nhiệm).
Cuộc thử lửa,
baptême du feu, với hai lớp đệ tứ 4 và đệ tam
2 rất thuận lợi cho tôi. Giờ ra chơi, tôi cố tình
lên thư viện trường để muợn quyển Précis de
littérature (Nơi này là trung tâm dư luận của học
trò). Tôi được bà quản thủ thư viện tự ý cho hay là
‘‘nãy giờ tụi nhỏ bàn tàn về ‘‘vu’’ rất nhiều’’. Tôi
hỏi bàn tàn tốt hay xấu. Géraldine (tên của bà ấy)
nói là phần nhiều tốt, quãng 80%. ‘‘Chúng nó nói là
ông thầy mới đến này vieux jeu nhưng ... chơi được.
Lần đầu tiên chúng nó biết một ông thầy bắt chúng nó
sắp hàng để vào lớp và trước khi ngồi, phải đứng chờ
ông thầy ‘‘chào cả lớp’’ (bonjour toute la classe)
đã.’’ Tôi cười hỏi là ý của ‘‘vu’’ thế nào.
Géraldine nói đấy là một dấu hiệu tốt. Chúng nó chỉ
nhận xét vậy thôi chứ không nghĩ cách chống đối. Tôi
cám ơn Géraldine rồi về phòng giáo sư.
Ra chơi vào, tôi lại áp dụng
nguyên tắc ‘‘lịch sự giữa thầy trò’’ (tôi tránh dùng
chữ ‘‘lễ phép’’ có vẻ phong kiến độc tài với học
trò) với lớp đệ tam của tôi. Có vài đứa lầu bầu lấy
lệ nhưng không có chuyện bất ổn xẩy ra. Nhờ không
khí đứng đắn ấy tôi có thì giờ nhận xét về người học
trò mà nhà trường có vẻ đặc biệt quan tâm đến. Tôi
nhận thấy được ngay cái ‘‘khó’’ của Dũng. (đúng là
Dũng, Phạm Hùng Dũng). Nó không có vẻ gì xấc xược,
bướng bỉnh nhưng nét mặt của nó đăm chiêu, lầm lì,
nửa bực dọc, nửa chán nản. Nó thuộc về loại người
Việt Nam cao lớn. Điều làm tôi chú ý hơn cả là thỉnh
thoảng nó co duỗi mấy ngón tay rồi để úp bàn tay
phải lên mặt bàn, ngón tay giữa nhịp lên xuống thật
nhanh nhưng cố giữ cho ngón tay không chạm mạnh mặt
bàn. Tuy làm như vậy nhưng hai ba cô học trò ngồi
bàn đầu thỉnh thoảng liếc nhìn nhau, kín đáo lắc
đầu. Cái khó của Dũng là đây.
Giờ học chấm dứt : kết quả không
có gì đáng khích lệ. Bài lịch sử văn học thế kỷ thứ
16 được giảng tiếp (tôi không muốn làm xáo trộn sự
phân phối môn học của Antonio) trong buổi ‘‘thử
lửa’’ không hợp tình, hợp lý, nên học trò ghi chép
không kịp (cũng có thể vì tôi giảng hơi nhanh), cuộc
đối thoại thầy trò chưa được tự nhiên. Nhưng bà giám
học rất bằng lòng, vì ‘‘thằng nhỏ Doung’’ không rắc
rối gì cả. Mọi khi cứ đến giờ Lịch-sử và Pháp-văn là
có chuyện rắc rối với nó. Tôi không bàn gì thêm chỉ
đòi xem hồ sơ ‘‘lý lịch’’ của Dũng. Theo kinh
nghiệm, tôi biết là chỉ có xem hồ sơ lý lịch mới
biết rõ tiến trình của người học trò đặc biệt này.
Từ hôm gặp ông hiệu trưởng và bà giám học, bỗng
nhiên tôi quan tâm đến cái tên Doung. Nếu nó đúng là
người Việt Nam thì tôi phải làm một cái gì. Tôi mơ
hồ nghĩ như vậy thôi chứ ‘‘cái gì ?’’ là học hành,
là tính tình, là tác phong, tôi chưa tự xác định
được. Hôm nay, sau lần tiếp xúc đầu tiên với lớp đệ
tam chuyên nghiệp này, tôi hiểu là tôi phải biết rõ
tông tích, lý lịch của Dũng.
Những trường được tổ chức chặt
chẽ, đúng mẫu mực thường rất quan tâm đến sự biến
chuyển về học lực, đức hạnh của học trò. Các giáo sư
chủ nhiệm, hội ý với hội đồng giáo sư đúc kết tiến
trình biến chuyển ấy trên một tờ giấy riêng kẹp
trong học bạ của mỗi người. Tôi thấy ông hiệu trưởng
phê : ‘‘một người học trò không hẳn là khó nhưng cần
quan tâm để tránh những phiền phức có thể xẩy ra’’.
Ông phụ trách về giáo dục (gọi là conseiller
d’éducation nhưng là ông tổng giám thị ngày trước)
thì phê : ‘‘Tính tình bất thường. Thường xích mích
với bà Blonde, giáo sư lịch sử và địa lý. Vài lần
với ông Antonio, giáo sư chủ nhiệm’’. Đọc kỹ hơn,
tôi thấy : cha, lao công (manutentionnaire) ở phi
trường - mẹ buôn bán vặt. Nó mới vào đệ tam năm nay
và đây là lần đầu tiên nó học ở một trường Pháp. Tôi
mỉm cười trả quyển học bạ cho Juliette. Bà giám học
hất hàm. Tôi nhún vai, trả lời : ‘‘Để xem’’
Nhà của cha mẹ Dũng ở ngoại ô
thành phố Taverny, trong một làng gia cư dành cho
nhân viên bộ tham mưu không quân. Đấy là một ngôi
nhà khá khang trang xây sát vách với những nhà khác,
trước mặt nhà có miếng vườn nhỏ. Hôm tôi đến, không
có ông Lai ở nhà vì có phiên trực. Bà Lai ra mở cửa
cho tôi, nghiêng đầu nói bằng tiếng Việt ‘‘chào giáo
sư’’, đưa tay phải mời tôi vào nhà. Bà chỉ cái ghế
bành bọc vải hoa hơi cũ, mời tôi ngồi và đến tiếp
tục soạn rất nhanh nhiều gói vật dụng trong một cái
xe đẩy nhỏ để bên cạnh một cái bàn của phòng ăn tiếp
giáp với phòng khách. Bà xếp tất cả những thứ ấy vào
cái tủ lạnh kê bên cạnh. Cử chỉ nhanh nhẹn, nét mặt
chăm chú. Xong bà quay lại xin lỗi tôi :
- Xin giáo sư bỏ lỗi. Tôi vừa ở
chợ về. Tôi phải lấy những gói hàng này ra xếp vào
tủ lạnh ngay kẻo tan nước đá...Dũng à! Có thầy chủ
nhiệm đến...Thưa, giáo sư dùng nước gì?
- Dạ, bà cho nước gì không ngọt.
- Vâng, để tôi kiếm. Chắc hơi
khó...
Tôi nhìn quanh rất nhanh : bày
biện sơ sài. Có nhiều hình của gia đình ; cái lớn
nhất, của một người đàn ông mặc quân phục. Bà Lai
quãng năm mươi tuổi. Giáng người trung bình của phụ
nữ Việt Nam. Cử chỉ nhanh nhẹn của một người quen
lao động chân tay nhưng giọng nói thanh tao, cách
nói đoan trang, có một thoáng đài các. Bà mặc một
cái áo sợ mi kín cổ, dài tay mầu xanh đậm ngả sang
mầu xám và một cái quần tây mầu đen. Phục sức không
diêm dúa cũng không quá xuề xòa.
Bà đứng ở chân cầu thang gọi :
- Dũng à! Má không tìm thấy chai
whisky đâu cả... Con xuống, có thầy chủ nhiệm kìa.
Giọng bà nói có vẻ dịu dàng nhưng
cách nói buộc phải vâng lời. Tiếng basket đặt xuống
sàn, tiếng chân của Dũng. Nó lừng khừng bước xuống
cầu thang, đầu cúi gầm. Đến chân cầu thang, nó nói
lí nhí : ‘‘Chào ông’’ rồi đến gần má nó, lẳng lặng
quì chân trái xuống, thò tay vào gậm tủ. Tôi nghe bà
Lai thầm thì với con : ‘‘Đây là chai rượu quí của ba
mầy’’.
Tôi chờ xem nó sẽ làm gì. Tôi sẽ
tùy theo phản ứng của nó khi thấy tôi đích thân đến
gặp ba má nó để bàn về việc chọn ngành. Về chuyện
này, tôi có nguyên tắc bất di bất dịch là sửa soạn
tinh thần sẵn cho học trò từ đầu năm, ngay lúc sắp
dứt tam cá nguyệt đầu. Riêng đối với trường hợp của
Dũng, việc ấy trở thành cấp bách.
- Con đem ra ngoài xa lông, mời
thầy dùng. Chai Perrier má thấy trong tủ lạnh.
Bà Lai ra ngồi đối diện tôi, trên
ca-na-pê. Bà đưa mắt chỉ cho Dũng ngồi trên cái ghế
ở đầu bàn thấp. Dũng không nói gì, lẳng lặng ngồi
xuống mở rượu rót vào cốc cho tôi. Nó vẫn không nói
gì, chẳng mời, chẳng hỏi xem tôi thích uống với
Perrier không. Bà Lai nhìn theo cử chỉ của con, môi
hơi mím lại. Tôi để ý bà nén một tiếng thở dài.
- Thưa giáo sư, chúng tôi có nhận
được thư của giáo sư do cháu Dũng cầm về. Cám ơn
giáo sư đã có lòng tin cậy cháu. Những lần trước
kia, bà Blonde hoặc ông Antonio để cho tùy phái ở
trường đem đến. Mỗi lần như vậy chúng tôi rất phiền,
vì cháu Dũng không bằng lòng.
- Tại sao Dũng không bằng lòng?
Đấy là thủ tục. Khi nào có chuyện ngoại-vi học-lực
thì thư phải do tùy phái đưa đến tận tay cho người
có trách nhiệm.
Nó vẫn không trả lời. Bà Lai đành
nói :
- Cháu nghĩ là nhà trường kỳ thị.
Vào những trường hợp khác, các giáo sư giao thư
thẳng cho học trò đem về.
- Nhưng cũng có trường hợp tùy
phái phải đưa đi...
Dũng bỗng ngẩng đầu lên. Nó nói
gần như dằn từng tiếng :
- Thưa ông. Vì nhà trường không
tin ở học trò. Đấy là trường hợp của những đứa vứt
thư đi.
- Có lần nào Dũng vứt thư không?
- Không bao giờ có chuyện đó...
Người ta chỉ cho tùy phái đưa đến nhà. Có lẽ để gây
bực mình thêm.
Tôi hiểu được phần nào tính nết
của người con trai này. Nó rất tự ái. Và đầy định
kiến. Tôi ôn tồn nói :
- Tôi hiểu...Từ bây giờ, tôi mong
là không xẩy ra những chuyện lôi thôi như vậy nữa.
Tôi trực tiếp giải quyết mọi chuyện. Như hôm nay
chẳng hạn.
Bà Lai, từ nãy đến giờ ngồi im
lặng, bình thản theo dõi cuộc nói chuyện giữa con
mình và giáo sư. Bà không còn tỏ vẻ lo ngại như lúc
mới lên tiếng gọi Dũng. Bà nói :
- Thưa giáo sư, chúng tôi không
biết rõ ý muốn của giáo sư. Tôi hỏi cháu Dũng, cháu
cũng không biết... Thưa, có phải để nói về vụ bà
Blonde, tuần trước không ạ?
- Tôi có xin lỗi rồi. Mặc dù
không phải lỗi tại tôi.
Tôi mỉm cười, nhìn bà Lai :
- Không hẳn như vậy. Chuyện ấy,
chính tôi đã thu xếp đấy. Nhưng hôm nay tôi đến với
mục đích khác.
Tôi ngừng lại, với dụng ý để câu
nói lửng lơ của tôi tác động lên mối lo ngại của hai
mẹ con. Tôi phỏng đoán họ vẫn lo, vì đấy là vụ vi
phạm kỷ luật lần thứ mấy rồi của Dũng. Không có tôi
can thiệp ngay thì Dũng đã bị đuổi tạm ba ngày. Bà
Lai mắc mưu ngay. Bà hỏi :
- Giáo sư có thể cho tôi biết rõ
nội vụ hơn không? Hôm thứ tư, nó về trễ hơn mọi
ngày, chúng tôi có hỏi đến thì cháu bảo là lại có
chuyện với bà Blonde. Nhưng cháu đã xin lỗi rồi.
Trong khi bà Lai nói, Dũng nhìn
ra ngoài sân, tránh ánh mắt xoi mói của tôi. Tôi
nghĩ là trong đầu nó, những chuyện xẩy ra như vậy,
cách giải quyết như vậy không có gì lạ. Bây giờ nó
đang chờ xem cái ‘‘từ bây giờ’’ của ông chủ nhiệm sẽ
như thế nào. Tôi uống một ngụm rượu, khen ngon rồi
đủng đỉnh nói :
- Theo tôi biết, tất nhiên là
theo báo cáo của bà Blonde thì lúc bà giảng bài,
bỗng nhiên, Dũng đập bàn bảo là bà nói dối. Bà giật
mình, ngừng giảng, trong khi cả lớp nhìn nhau, bực
bội. Khi bà hỏi tại sao bảo bà nói dối thì Dũng trả
lời là bà không biết gì về cộng sản cả mà cứ nhắm
mắt khen. Dũng còn hỏi là bà có phải cộng sản không.
Bà bảo là Dũng không được quyền nói như vậy mà bà
không việc gì phải trả lời câu hỏi vô lễ của Dũng.
Sau đó Dũng còn lầm bầm những lời hăm dọa.
Dũng quay lại, lắc đầu nhiều lần
rồi nói, giọng có một thoáng khinh bỉ :
- Thưa ông, chuyện ấy không có.
Bà ấy chỉ đặt chuyện để hại tôi...Tôi chỉ nói là bà
ấy kỳ thị. Tội kỳ thị có thể bị phạt tù.
- Bà Blonde vẫn tỏ ra kỳ thị đối
với Dũng. Với riêng con chúng tôi. Không hiểu tại
sao!
- Theo tôi, đấy là cảm tưởng. Có
thể lúc đầu chỉ là sự hiểu lầm, về sau trở thành
định kiến.
- Không phải một mình bà Blonde.
Cả ông Antonio cũng vậy.
Nhận xét này của bà Lai làm tôi
thực sự chú ý. Tôi hỏi Dũng :
- Ông Antonio đã làm gì ?
Dũng hừ một tiếng nhỏ rồi nói :
- Ông ấy tỏ ý khinh miệt ra mặt.
Từ giọng gọi tôi lên hỏi bài, đến lời phê bình khi
trả bài làm. Lúc nào ông ấy cũng lắc đầu. Lắc đầu
cái gì ?...Tôi ghét nhất là cách ông gọi tôi là
‘‘ông Doung’’...
Tôi nhìn bà Lai. Bà mím môi lại,
cánh mũi hơi phập phồng. Bà đang nhìn vào chai rượu
đặt trên bàn. Chai rượu vừa mới khui. Nước rượu màu
vàng óng ánh dường như đang thôi miên bà. Tôi nói,
giọng cố thật điềm đạm :
- Tôi nghe chuyện đến đây thì
hiểu được phần lớn tại sao đã xẩy ra những chuyện...
đáng tiếc rồi. Tôi mong rằng từ bây giờ, tình trạng
sẽ thay đổi. Tôi không muốn có sự hiểu lầm nữa. Tôi
không muốn có những chuyện lộn xộn xẩy ra trong lớp
của tôi.
Bà Lai lại lắc đầu nhưng rất
chậm, như muốn dùng sự cử động của cái đầu hướng dẫn
vững vàng ý nghĩ của mình. Bà nói giọng buồn buồn :
- Thưa giáo sư ! Từ ngày cháu
Dũng vào trường, nhà chúng tôi hình như bước vào một
thời kỳ khác. Tưởng đã yên thân, nào ngờ ! Năm kia,
chúng tôi vừa bước chân lên đất Pháp, nhờ một người
bạn cũ người Pháp mà nhà-tôi quen lúc tu nghiệp ở
Pháp giới thiệu, chúng tôi có công ăn việc làm ngay.
Nhà-tôi vui vẻ nhận cái công việc lao công không mấy
vinh dự gì lắm ở phi trường nhưng rất mừng vì không
phải ngửa tay xin tiền trợ cấp hoài. Nhưng trong
lòng tôi biết là ổng buồn. Giáo sư nghĩ xem, đường
đường một ông đại úy đơn vị trưởng mà bây giờ làm
lao công ! Làm sao mà không buồn ? Nhưng thôi, đổi
đời mà ! Tôi đàn bà thì không sao, không ai biết đấy
vào đâu. Làm chuyện gì cũng được miễn sao kiếm được
chút tiền phụ giúp cho chồng...
Tôi kín đáo nhìn đồng hồ. Ngoài
kia, nắng bắt đầu yếu dần. Vạt nắng rọi vào cái máy
truyền hình để sát cửa sổ đã tắt. Nếu bà Lai kể
chuyện đời tư thế này thì khó mà bàn đến mục đích
của tôi đến đây hôm nay. Bà Lai rất tinh ý chắp hai
tay lên ngực rồi nói, giọng thành khẩn :
- Xin lỗi giáo sư làm giáo sư sốt
ruột. Nhưng xin cho tôi nói hết sự tình may ra giáo
sư có thể giải quyết được trường hợp... khó khăn của
cháu Dũng.
Dũng nói, giọng bất bình :
- Chuyện nhà của mình, má nói làm
gì ?
Tôi đưa tay khoát nhè nhẹ :
- Dũng để yên cho má nói. Thường
khi những chuyện nhà có ảnh hưởng đến chuyện ở ngoài
đời...Tôi xin hỏi thẳng bà, tại sao Dũng bị rắc rối
ở trường ?
Bà Lai nói, giọng thương cảm :
- Hai năm đầu, không, xin lỗi,
một năm rưỡi thôi, chúng tôi đến Pháp vào lúc gần
Nô-en, trong một năm rưỡi đầu tôi làm cái nghề bán
bánh đậu, bánh chuối, bánh này bánh nọ ở chợ Taverny
này để phụ vào tiền chợ. Cũng chật vật lắm. Cho nên
cháu Dũng không chịu đi học ngay. Cháu bảo trước sau
gì cũng trễ. Tụi bạn trễ cả năm sáu năm thì sao !
Thế là mãi đến đầu năm nay cháu mới chịu vào trường.
Mười bảy tuổi đầu mà học đệ tam. Đã vậy cháu không
theo kịp. Bài giảng không hiểu, bài làm tất nhiên ít
điểm...
Tôi gục gặc đầu, hỏi Dũng :
- Bây giờ ra sao ? Khá hơn không
?
Nó nhún vai, không đáp. Bà Lai
trả lời thay cho con :
- Chắc vẫn vậy. Cháu không nói
chứ tôi nghĩ là vẫn vậy. Mới chưa đầy ba tháng !
- Ông nhà tôi thì bù đầu bù óc
với công việc, nay trực mai trực, đâu có giúp gì cho
cháu được. Tôi thì gần như mù. Chương trình đệ tam
mà, đâu phải mẫu giáo, tiểu học. May mà cháu Dũng có
quen một người bạn học lớp trên. Thỉnh thoảng nó đến
chỉ bài.
- Không phải lớp trên. Nó cũng
học đệ tam nhưng đệ tam thường.
- Má đâu có hiểu. Má chỉ biết là
thỉnh thoảng nó đến chơi, con nói nó giỏi hơn con.
Dũng nhìn tôi phần trần :
- Nó phải đến đây để chỉ cho tôi
cách tìm phòng học. Ở bên Pháp này có cái tật là
phải đổi phòng hoài, nhiều ngày đổi ba bốn
lần. Học trò chạy qua chạy lại, chạy lên chạy xuống
rần rần.
Tôi suýt bật cười, nghĩ đến vẻ
nháo nhác của một đứa học trò phải chạy đi tìm
phòng, giống như một hành khách đi tìm gate ở sân
một phi trường lạ. Nhưng thấy mặt Dũng có vẻ rất căm
tức, tôi cố giữ vẻ thản nhiên.
- Tuy cháu không nói nhưng tôi
hiểu. Linh tính của người mẹ giúp tôi hiểu, tuy chỉ
hiểu mơ hồ là con mình đang khổ. Nó khổ tại mình hay
sao ?
Bà Lai ngừng nói. Bà cúi gầm mặt,
nhìn vào sàn nhà. Vào một chỗ nào đấy để chôn nỗi
đau buồn. Tôi bảo :
- Dũng ! Cháu sang ngồi cạnh má.
Tôi sắp nói mục đích của tôi đến đây hôm nay.
Bà Lai ngẩng đầu lên, nhìn tôi.
Bà hơi nhíu mày. Dũng thì ngồi thẳng người để nhìn
ngang tầm mắt của tôi. Rồi nó đứng vụt dậy, sang
ngồi lên ca-na-pê, hơi cách xa bà Lai.
Tôi cố nói thật điềm đạm :
- Từ bây giờ, cháu phải suy nghĩ
lại. Cháu không nên, không được tự làm rối việc học.
Tôi đã tìm hiểu nguyên nhân của những chuyện đã xẩy
ra. Chuyện cháu ẩu đả với thằng Khaled, chuyện cháu
chửi bới con Samya, chuyện cháu hăm dọa bà Blonde...
Cháu đừng cãi. Cháu hằn học đâm mũi compas lên mặt
bàn là hăm dọa, có thể bị đuổi đấy...Tụi bạn trong
lớp không dám làm gì cháu vì cháu tỏ ra hung dữ quá
khi cháu đánh lộn với thằng Khaled, một tay du côn,
đầu đàn trong lớp. Nhưng nó chỉ nhịn thôi, tụi bạn
nó cũng vậy. Tụi nó sẽ không để cháu yên đâu nếu
cháu thách đố chúng nó hoài. Từ bây giờ cháu phải
bình tĩnh lại. Cháu phải chuyên tâm học. Học mà
thôi. Chỉ lo học. Khi học trò cố gắng, những người
dạy thấy ngay...Tôi để ý là về toán và anh văn, cháu
có điểm tốt. Vậy thì cháu phải dồn thì giờ cho những
món kia. Khi cháu quyết chí học thì cháu sẽ thành
công. Theo kinh nghiệm của tôi, từ nay đến Phục sinh
cháu có thể khá hơn.
Tôi ngừng lại xem tác dụng của
những lời tôi nói ra sao. Hai mẹ con nhìn nhau. Có
vẻ bán tin bán nghi. Từ đây đến Phục sinh. Năm, sáu
tháng ! Tôi liền nói :
- Để giúp cho cháu về phương diện
kỷ luật, tôi khuyên, tôi cấm cháu không được...gây
gổ với ai nữa cả. Nhất là đối với bà Blonde. Nhì là
tụi thằng Khaled. Tôi có mặt ở phòng giáo sư luôn
luôn, cháu có thể xin đến gặp để trình bày bất cứ
chuyện khó khăn, rắc rối nào.
Tôi lại ngừng, với tay lấy chai
Perrier chậm chạp rót vào cốc. Rồi tôi nhìn hai mẹ
con, làm như những lời dặn dò của tôi là những
phương châm. Tôi nói tiếp :
- Nên nhớ tôi cũng là gốc Việt
Nam. Tôi làm giáo sư văn chương Pháp ở tại Pháp
không phải là điều giản dị. Hãy để cho tôi làm việc.
Cháu học giỏi hơn, cháu ngoan ngoãn hơn cũng giúp
cho tôi làm việc dễ hơn.
Tôi vừa đứng dậy vừa nói, chậm
hơn, giọng chắc nịch :
- Nên nhớ kỹ là chúng ta là chỉ
là người Pháp giấy. Chúng ta gốc Việt Nam. Đừng để
cho người Pháp chính gốc, nhất là những người Pháp
cũng giấy như chúng ta xem thường. Chúng ta phải
giỏi. Chúng ta phải để cho người Pháp trọng nể.
Bà Lai và Dũng, dường như bị thu
hút, cũng đứng lên theo. Tôi đi ra cửa.
Cuối năm học ấy, Dũng được lên
lớp và được về Paris học nghề sửa ống nước. Paul phê
trong tờ trình về tôi : ‘‘Giáo sư thành công lớn cả
trong lãnh vực giáo khoa lẫn giáo dục’’.
Cách đây hai năm, ông Lai phôn
cho tôi mách :
- Thằng cháu Dũng bây giờ làm
việc bận rộn hơn cả tôi. Nó thường phải lấy hẹn của
khách
- Lúc trước ông không bằng lòng
tôi hướng nó về nghề này. Ông thích nó học lên bác
sĩ. Bây giờ nó cũng giống như bác sĩ rồi đấy.
- Còn hơn bác sĩ thường nữa. Nó
là bác sĩ ngành cấp cứu.
Trích trong quyển Gió Cuốn Mây Bay
của tác giả Mạnh Bích, Bạn văn xuất bản năm 2005