Vào chặng tháng Chạp tháng Giêng,
cứ mỗi lần có dịp băng qua một cánh đồng lúa sạ đang
chín rộ, hột lúa mẩy vàng, gié lúa khom lưng cúi gục
đầu dưới ánh nắng rực rỡ là lòng tôi lại man mác nhớ
đến cánh đồng Chợ Ðèo, đến trường Trung học Lương
Văn Chánh thời Kháng chiến chống Pháp, xa cách tôi
những ba mươi năm. Ba mươi năm, thời gian đủ để biến
một đứa nhỏ oe oe khóc trong nôi thành một người
trung niên, cha của ba, bốn đứa đứa trẻ mà đứa lớn
nhất có thể cầm roi chăn một đàn bò và đứa nhỏ nhất
oe oe trong nôi như cha nó, ba mươi năm trước. Ba
mươi năm đủ biến một mầm cây nhỏ yếu hóa thành cổ
thụ.
Từ quê tôi ở Tuy Hòa, tôi
mang ruột nghé gạo đi ra Tuy An để theo học trường
Lương Văn Chánh. Ði bộ bốn mươi cây số, từ nhà ra
tới Ðịnh Trung, xã An Ðịnh, nơi mở trường. Khi ra
đi, tiền túi còn đầy, có hồi tôi cao hứng leo ngồi
xe ngựa. Lọc cọc... Lọc cọc... Vút!... Trót!... Rầm
rầm... Lịch kịch... Ðường cái bị phá hoại, đồng bào
được huy động đào xới, có đoạn vết đào chạy xiên
xiên, sóng sóng nhau, rất ngay ngắn, rất mỹ thuật,
như cái xương cá. Có đoạn thì hăng quá, hốt gọn luôn
một quãng, phi tang biến mất tiêu, khiến lòng đường
còn sâu hơn mặt ruộng xung quanh. Và nước đọng thành
ao. Cỏ gấu, cỏ mực, cỏ chỉ, cỏ may... rau chóc, rau
sam, móc mèo, móc ó... vội vàng xâm chiếm, xây dựng
thành an toàn khu. Và khi hoàng hôn xuống thì biến
thành hội trường cho ễnh ương toàn vùng hòa tấu.
Nhiều hồi xe ngựa đang chạy lắc lư ngon trớn hành
khách bị nhồi xóc như bốn đồng tiền trong cái bát
của anh xóc dĩa, giữa lúc nhăn mặt cắn răng chịu
đựng hay mơ màng trong giấc ngủ chập chờn thì chợt
anh đánh xe la lớn: "Tàu bay! Tàu bay!" Tiếp liền
tiếng động cơ rú trên đầu, tàu bay sạt qua và những
người hành khách đã -y như bằng phép mầu- nằm im
thin thít quanh cái ao, chúi đầu núp vào các bụi sục
sạo, bụi é rừng. Xung quanh đột nhiên yên tĩnh lạ
lùng. Những lá cây như cũng biết hồi hộp, không dám
xôn xao. Buổi chiều đang xám và sự im lặng ngộp thở
có thể làm mấy con ễnh ương tưởng lầm rằng đã hoàng
hôn. Một con cất tiếng. Và cả bầy hòa ca. Thật là
một sự hớn hở không đúng lúc.
Cũng bốn mươi cây số đó,
nhưng lần từ trường về nhà thì an phận hơn. Chịu khó
sử dụng cặp chân. Những bữa ăn trong mấy ngày chót
thiếu cả nước mắm thì xe ngựa đã biến thành xa xỉ
phẩm. Có muốn bị xóc bị nhồi cũng không được. Và khi
đã thèm ước một cách tuyệt vọng thì liền thấy cái xe
ngựa sao mà đẹp vậy, sao sự lắc lư lại nên thơ vậy,
và trước mắt chúng tôi lúc đó, những người cắn răng
nhăn mặt ngồi chèn chặt trong xe lại đẹp đẽ uy nghi
như những A-lịch-sơn đại đế (*).
Ôi, những bà con xã An Ðịnh
đã cưu mang chúng tôi, đã cho chúng tôi hưởng sự yên
ổn của một mái nhà, sự ấm áp của một bếp lửa. Chúng
tôi chẳng đem lại sự lợi ích nhỏ nhoi nào hết cho bà
con mà chỉ toàn là sự quấy rầy, sự hao phí. Vì là
trường Trung học độc nhất của tỉnh nên học sinh được
tuyển chọn từ Xuân Lộc cực Bắc cho tới Hòa Xuân cực
Nam, từ An Ninh, An Chấn sát biển cho tới Xuân
Quang, Xuân Phước giáp ranh Tây Nguyên. Tụ hội về
đây coi như là những học sinh giỏi nhất của từng
trường địa phương, như lớp kem nổi lên mặt chén sữa.
Giống nhau như từ một khuôn đúc ra. Con gái: sơ-mi
măng-sết trắng, quần đen. Con trai: áo bằng vải ta
nhuộm xám, quần nhuộm xanh chàm, nâu. Ði bộ sáu mươi
cây số từ Xuân Cảnh vô, năm mươi cây số từ Hòa Ðồng
ra, ruột nghé gạo căng phồng đánh vồng qua eo ếch
hoặc đeo trên vai. Xoay trở chỉ có hai tư thế đó.
Nếu đi chung một đoàn bốn, năm anh chị em thì thêm
một tư thế thứ ba: bẻ một đoạn cây ở dọc đường làm
đòn gánh rồi luồn mấy ruột nghé gạo vô. Chia phiên
nhau mà gánh. Vai và lưng học trò làm lụng chưa quen
nên dưới đòn gánh có kê một miếng khăn xếp dày cho
đòn gánh đỡ cứa xương quai xanh và đi tới cây số thứ
hăm lăm thì cột xương sống có chiều hướng cong về
đằng trước. Và các cái miệng hết rinh rả. Trước ngày
khai giảng một hôm và ăn Tết xong qua mồng sáu tháng
Giêng, trên các ngả đường Phú Yên, cứ từng chặng là
thấy cái cảnh sĩ tử nhập trường kiểu đó. Ông Lục Vân
Tiên và ông Kim Trọng có tiểu đồng đi theo gùi gạo
và gùi sách. Nhờ vậy mà khi gặp Nguyệt Nga và Thúy
Kiều, hai ổng ngó bộ dễ coi hơn chúng tôi.
Bà con An Ðịnh chia nhau mà
chịu đựng lũ học trò Lương Văn Chánh. Nói "chịu
đựng" thì có quá đi chăng? Chúng tôi biết bà con
thương chúng tôi lắm, thương lũ nhỏ này lắm, như
thương con mình, cháu mình... nhưng tục ngữ đã "tấn
phong" chúng tôi từ xưa rồi mà. "Nhất quỉ, nhì ma,
thứ ba...". Hồi từ giã nhà ra đi, cha mẹ đều dặn:
- Ở nhà bà con, phải nói năng
lễ phép, biết dạ biết thưa. Nhớ dọn dẹp gọn gàng chớ
đừng có bỏ bầy hầy như còn ở nhà. Không ai trông nhờ
gì tụi bây đâu, nhưng ít nhất cũng phải biết quét
giùm cái nhà, xách giùm gàu nước.
Lời cha mẹ dặn cứ rổn rảng
bên tai, nhất là khi gánh gạo đi đường. Có hồi tai
nó còn vù vù, bắt mình phải ngồi xuống nghỉ đã. Áp
dụng "Gia huấn" rất hăng vảo những ngày đầu. Quét
nhà kỹ thiếu điều nạo nền nhà ra đổ ở bờ rào. Xách
nước hăng đổ đầy hũ, lút hũ, nước chảy lênh láng,
xói lở luôn mấy cây ớt trồng kề hũ nước. Mãi khi
thấy có mấy cây gì trôi theo dòng nước, chạy lại
chụp, giơ lên coi, nhìn lại chỗ "ngày xưa tươi tốt"
thì mới biết tài phá hoại của mình. Lo moi đất trồng
lại.
Nhưng việc đời, sự bất quá
tam, qua ngày thứ tư thì cây viết chì rơi xuống nền
nhà kiếm hoài không thấy, bởi chưng nó lẫn lộn với
nhiều mảnh giấy vụn và lá tre lá khế bay từ bụi tre
cành khế đứng ở mãi ven sân. Còn sự xách nước thì
càng tệ hơn. Ðã không xách giùm được một lon nước
lại còn ném gàu nhà người ta xuống giếng. Rất dễ ném
gàu như vậy. Hoặc do lơ đễnh, cứ thả cho gàu tụt
xuống, tụt xuống nữa, hết dây rồi mà còn cứ thả cho
tụt xuống thêm, đến khi chợt hụt tay thì quơ chụp
không kịp. Vậy là đoạn dây được tự do rơi gọn xuống
mặt giếng một tiếng "xoảng". Hoặc có lúc thì gàu đầy
đang hì hục kéo lên, từng sải từng sải ngắn, bỗng
nửa chừng dây đứt, gàu nước rơi xuống một cái rầm.
Ðứng loay hoay tìm cách giải cứu nhưng không xong,
cuối cùng chậc lưỡi: "Thôi, để rồi... hay". Trong
khi chủ nhà, giữa mùa cày mùa cấy, làm lụng ngoài
đồng đầu tắt mặt tối, về tới nhà đã đỏ đèn. Thò gáo
múc nước rửa cặp chân đầy bùn thì nghe tiếng gáo cạ
vào thành chum rột rột. Ði ra chái sau mò kiếm cái
gàu để ra giếng múc nước thì mò hoài gàu đâu không
thấy, tay lại mò nhằm cái móc sắt nhọn hoắt. Thật là
giận thấu mây xanh. Chớ chi vào thời con Tấm con Cám
thì cái gàu nằm ở đáy giếng còn biết cất tiếng kêu
người chủ nhà ra vớt nó lên.
Ông thầy Bảy ở Soi Giữa -ôi
tôi nhớ cái vóc người mảnh mai của ông và ngôi nhà
xinh xắn của ông quá, ngôi nhà nằm bên bờ sông Cái,
đối diện với Mỹ Long- ông thầy Bảy có đầy tinh thần
hài hước nên một hôm đi coi mạch ở đâu về, thò gáo
múc nước rửa chân, thấy chum khô queo, cạn ráo, ông
la lên:
- Ra đánh con rắn ráo, bay! Con rắn ráo to
quá! Mau mau!
Thằng Nha, thằng Phúc, thằng
Liễm, thằng Lang, quê tận Khánh Hòa, vượt Dốc Mỏ ra
Phú Yên theo kháng chiến, hiện đang ở trọ nhà ông.
Nghe tiếng la, bốn đứa lật đật chụp roi mây, gậy
gộc, thanh củi hùng hổ xông ra đánh rắn!
Học trò chia nhau ở rải rác
gần như khắp mọi nhà. Ở phía bên Nhất Trí, chiều
nghe tiếng ếch nhái kêu ở các ruộng nước, nhớ nhà vô
kể. Ở Soi Giữa, qua mùa lụt đi lại phải chờ đợi một
con đò. Ở Ðồng Me ít sợ Pháp nhảy dù vì có dãy núi
cao nằm chắn sau lưng. Cái hố nước chạy từ núi
xuống, chạy quanh trong xóm, cũng làm cho con người
an tâm. Khi có máy bay thả bom, có thể di chuyển
dưới lòng hố mà tránh xa nơi nguy hiểm. Sườn núi
được trồng đầy cây gai lá xanh mướt. Khi biết rằng
bằng lá gai đó người ta làm bánh ít thì, nhìn sườn
núi xanh mà cảm nghe như có vị ngọt đâu đây.
Học sinh Trung học dưới thời
Pháp thuộc học trong sách viết bằng tiếng Pháp. Nay
những thầy giáo của chúng tôi phải tự soạn ra bằng
tiếng Việt để dạy. Soạn ra bài rồi lại phải tự in để
phát cho học sinh thay sách. Vì thời đó chưa kịp có
sách in. Thiết bị ấn loát của các thầy là 4-5 phiến
đá cẩm thạch trắng. Thầy trò khiêng đá ra bờ giếng
nai lưng ra mài cho nhẵn, cho sạch rồi phơi khô. Sau
đó dùng mực li-tô chép bài lên mặt đá, nét viết chữ
ngược. Sau cùng đến giai đoạn lăn mực đen lên mặt
chữ, đặt giấy trắng lên, lăn ru-lô cho mực thấm vào
giấy rồi gỡ giấy ra. Bài học hiện ra trên trang
giấy. Các thầy giáo ăn ở tại trường, trong một căn
nhà tranh vách đất. Tượng trưng cho sự đạm bạc mà
tôi còn nhớ, đó là thau rửa mặt chỉ là hai cái chậu
làm bằng đất sét nung đỏ từ Lò Gốm dưói Ngân Sơn
gánh lên bán.
Về nhiều mặt sinh hoạt, nhà
trường đóng vai tiền phong. Cũng tất nhiên thôi, vì
lực lượng đông, trẻ, có kiến thức. Chỉ chịu thua
trường Quân Chính ở Mỹ Long về mục ca kịch. Nhớ có
một lần trường đưa đoàn kịch nghệ lên diễn ở La Hai.
Khán giả ùn ùn tới coi, vé bán không kịp. Ngạc nhiên
không hiểu sao trường mình được ái mộ đặc biệt như
vậy. Nhưng khi hát thì được biết khán giả hứ hé chê
quá. Tìm cho ra lẽ vì sao vừa chê bai vừa rùng rùng
đi coi thì khán giả nói:
- Nghe đồn trường Quân Chính kịch. Chớ ai dè
là trường Lương Văn Chánh.
Thì ra chỉ vì tên hai trường
nghe gần giống nhau nên khán giả bị lầm, khiến có sự
thành công phi thường đó. Thầy trò ôm bụng cười một
bữa nôn ruột. Cười mà lương tâm không cắn rứt, vì kỳ
diễn kịch đó là lấy tiền giúp quỹ cứu tế nạn lụt chớ
không phải để lấy lợi riêng.
Những năm, những chục năm đã
vun vút trôi qua, các bạn học cũ gặp nhau trở lại,
có người đã ngót năm mươi, có người tóc đã lốm đốm
hoa râm. Riêng phần tôi tại sao bỗng dưng tôi lại
nhớ trường? Ðó là vì hồi sáng tôi đã đi băng qua một
cánh đồng lúa sạ ở thôn Diên Phước, nhìn những gié
lúa cong lưng dưới ánh nắng rưng rưng tháng Chạp.
Trong không khí có lẩn quẩn cái lạnh nhẹ nhàng cuối
năm. Cánh đồng lúa vàng rực trải rộng trước trường
Lương Văn Chánh hiện ra rõ ràng trong trí nhớ, với
niềm háo hức sắp được nghỉ học về quê ăn Tết mười
ngày. Trong đêm vắng lặng giờ đây, tôi ngồi êm đềm
nhớ lại những kỷ niệm cũ trước một cuốn vở học cũ
còn giữ lại được từ những ngày xa xưa ấy. Cuốn vở
đóng bằng giấy Nam Trung, thứ giấy nội hóa vàng màu
rơm. Mặt giấy khô nhám lợn cợn, hút mực, dễ nhòe. Lề
vở chừa rất hẹp, dòng gạch rất sít, chữ viết cố gắng
sao cho nhỏ nhất. Một thời khắc khổ! Những bữa cơm
với một trái cà dĩa giằm nước mắm. Với sắn nước
Phường Lụa đảo qua đảo lại trong chảo, không dầu.
Với trái thơm chợ Ðồn, dưa gang Trung Lương bằm trộn
với mắm nêm Tiên Châu, ăn tiện tặn, ăn hoài không
hết, tựa hồ hũ mắm Thạch Sanh. Tháng Chạp biển êm,
cá đăng, cá giã chạy từ Vũng Lấm chạy vô, chạy từ Ma
Liên, Mỹ Á chạy ra, cá bày trắng chợ. Trời tối đi
học về, qua chợ Sen, những liếp dính vẩy cá, những
đống vẩy cá được dồn lại, những mảnh vẩy cá bỏ tung
vãi rải rác, tất cả lóe sáng màu bạc trắng, lấp lánh
trong đêm đen. Nhưng túi tiền học trò có hạn, đến
nỗi các bà bán cá đều biết nên hốt bán cho "lũ nó"
loại cá nào. Thì hết cá lù đù -Ừ, cá gì mà cái đầu
to chầm vầm, mà cái mình cụt ngủn, ngó bộ lù đù
thiệt- đến cá hố dải, dài lòng thòng mà mình mỏng
lét như những sợi dây nịt.
Nơi trang chót của cuốn vở, không nhớ do đâu
mà có ghi mấy con số:
- Tháng 5-1952: Cúp tóc hết
300 đồng tín phiếu. Cầu Máng Tuy Hòa bị bom, gạo từ
1000 đồng một ký vọt lên 1500 đồng rồi 2000 đồng,
rồi 2500 đồng. Dầu phộng 1200 đồng 1 lít.
- Tháng 7-1952: Chị Quảng, chủ
nhà anh em thằng Tĩnh, thằng Ðiện, anh em thằng
Dinh, thằng Hoa, quê Gò Duối, bán 12 ký đuờng được
12 ngàn đồng, đem mua hộp Bévitine.
- Tháng 9-1952: Gia đình thằng
Khương ở Nha Trang gởi ra cho nó một đồng hồ
Printania bán được hai trăm ngàn và 10 thước vải
trang đầm, bán 16 ngàn đồng một thước.
Lần lượt những khuôn mặt bạn
bè hiện ra, thằng Trúc ở Ðồng Tròn, thằng Hải ở Ðồng
Ké, con Trang ở Ðồng Nghệ, thằng Khải ở Gò Thị,
thằng Khoa ở Gò Chai, thằng Lung ở Gò Dài, con Khanh
ở Hóc lá, con Bích ở Hóc Bèn, con Chinh ở Hóc Bò,
thằng Sang ở Hóc Rùa, thằng Duật ở Gành Ðỏ, thằng
Thuận ở Gành Hàu... chao ôi những địa danh nôm na
nên thật dễ thương, nên trìu mến biết bao: Gò Sạn,
Gò Ðiều, Ðồng Tranh, Ðồng Cháy, Núi Một, Núi Bà, Bãi
Trầu, Bãi Sú, Dốc Găng, Dốc Quít, Hòn Yến, Hòn
Nần... làm sao nhớ hết. Những địa danh bằng chữ Nho,
sang trọng thì có mà vốn thật nghèo nàn, những bộ óc
thật hẹp của các ông Lý trưởng, các ông Chánh tổng
chỉ quen véo von quanh quẩn ở những chữ Phước chữ
Thịnh, chữ Hòa chữ Long... hết Long Phước đến Phước
Long, hết Phú Thịnh đến Thịnh Phú. Mải mê moi lục
sách cổ mà quên nhìn ra cảnh vật trước mắt để thấy
cây găng cây thị, con hến con rùa.
Trong đêm vắng lặng, những
hàng chữ, những con số trong cuốn vở cũ lần lượt rất
êm, rất nhẹ, tan loãng dần đi để lặng lẽ dựng lại
khung cảnh sinh hoạt của những ngày dĩ vãng trong đó
tôi thấy lại tôi, một cậu học trò quê mùa mười lăm
tuổi, tóc hớt cao, áo vải xi-ta xám, vừa thả tay làm
rớt gàu của bà chủ nhà xuống mặt giếng sâu.
(*) Tên một vị vua Hi-Lạp
anh hùng, có tài chinh chiến, sinh năm 356 trước Tây
lịch.
|