Năm 1936, TÔI HỌC THẦY ở lớp Nhất trường
Tiểu học Sông Cầu. Thuở ấy toàn tỉnh chỉ có hai trường Tiểu
học, một ở Tuy Hòa, một ở Sông Cầu. Trường Tiểu học Sông Cầu
là trường tỉnh lỵ mà chỉ có một lớp Năm, một lớp Tư, một lớp
Ba, một lớp Nhì A (chính danh là Cours Moyen de 1ère Année),
một lớp Nhì B và một lớp Nhất... Mới biết là hồi đó sự học
quả thật là quí. Với một dân số 20 vạn dân cư mà hằng năm
toàn tỉnh chỉ chọn khoảng một 100 đứa trẻ khá nhất để cho
vào học lớp Nhì thì có khác nào sâm nhung chỉ dành cho tì vị
kẻ giàu sang. Tôi học lớp Năm và lớp Tư ở trường làng Ngân
Sơn. May mắn đưa đẩy, tôi được vào học lớp Ba ở trường Phủ
Tuy An. Và lại cũng may mắn xô tới mà tôi được vào lớp Nhì
trường Tỉnh.
Thầy năm ấy khoảng 27-28 tuổi. Dáng thầy cao, khỏe
mạnh, nhanh nhẹn. Thầy thường mặc Âu phục trắng. Giày nâu,
đế cao su. Mũ casque cứng lợp vải màu kaki. Ði tới lớp, tay
ôm cặp da, thứ da cá sấu mềm.
Thời đó Âu phục và Nam phục song song tồn tại. Nam
phục là quần trắng áo dài đen. Quần trắng bằng vải "tàu bay"
hay lụa. Vải áo dài đen thông thường là vải trang đầm cho
đàn bà và học sinh trung lưu. Người đàn ông thì mặc áo lương
đen (miền Bắc gọi là áo the), áo xuyến (mặt láng), áo sa văn
minh (một loại the mỏng, dệt có vân, có bắt hình bìm bìm) áo
sa tanh (satin). Vải may Âu phục tiêu chuẩn là một loại vải
dệt thật dày bằng sợi đay, màu trắng. Sau thế giới đại chiến
lần thứ hai, sợi tổng hợp Polyester mới thịnh hành và vải
thường màu đen hoặc màu xanh tối gần với đen. Phép xã giao
thời đó đòi hỏi phải khoác áo vét-tông chứ không được chỉ
mặc sơ-mi khi đi ra ngoài. Cho dẫu trời nóng 35 độ. Chỉ có
thể, khi ngồi trong lớp dạy hay ngồi làm việc ở bàn giấy,
cởi áo vét-tông ra máng vào thành ghế.
Ðôi giày cũng có lịch sử của nó. Cũng sau thế giới
đại chiến lần thứ hai, màu giày đen mới thịnh hành. Dưới
thời Pháp thuộc, màu giày sậm nhất là màu nâu, màu cà-phê
rang. Lợt một chú là màu vàng thiên nhiên của da thuộc. Lợt
nhất là màu trắng. Duyên dáng ăn diện là giày hai màu. Giày
màu đen chỉ được dùng trong những đại lễ.
Vậy đó, cái dáng cao cao của thầy tôi, mặc Âu phục,
đội mũ ôm cặp đi những bước nhanh từ góc đường phía biển,
vượt qua sân quần vợt, đi vòng quanh rào trường, đi thẳng từ
cổng trường oai vệ bước vô.
Vào thời chúng tôi, học trò rất sợ thầy. Chương trình
học toàn tiếng Pháp nên chúng tôi càng sợ thầy hơn, bởi
chưng dù học giỏi hay kém thì học thuộc được một bài toát
yếu 20 dòng viết bằng tiếng Pháp không phải là chuyện dễ.
Chúng tôi phải chắp chữ này nối theo chữ kia bằng trí nhớ,
nhiều khi hoàn toàn bằng trí nhớ chớ không hiểu vì sao. Mà
một khi quên đi một chữ thì đành cứ đứng khựng ra đó, ấp a
ấp úng, tựa như rớt một cục gỗ thì cả khối gỗ chồng chất lên
nhau bỗng đổ sụp. Ðố mà có thể xếp lại. Thầy giáo sốt ruột,
sẵn cái thước gạch vụt luôn cho một vụt. Và các cục gỗ lăn
xa hơn, tan tác.
Thầy nào cũng biết đánh học trò. Ngồi nghĩ lại thấy
thương hơn trách. Người Pháp không đem sang cái roi. Tổ tiên
mình vót roi để sẵn, kèm theo bản chỉ dẫn cách dùng, "yêu
cho roi cho vọt". Tiếng roi vun vút của các thầy đồ còn vang
vọng rất trong sáng trong tâm hồn của các thầy tôi. Các bậc
phụ huynh dường như cũng chỉ an tâm khi nghe thầy giáo ban
phát tiếng roi xé gió. Sống trong một không khí rèn nhân
cách khắc khổ như kiểu đó, một ông thầy có lương tâm phải
mượn cái thước và con roi để hỗ trợ cho lời giảng bài. Ở lớp
Nhì A, tôi học thầy Huỳnh Tiến. Thầy gầy, da trắng, nói
giọng Quảng. Không biết giờ này thầy có còn khỏe mạnh không.
Thật là bội bạc khi hơn 50 năm trôi qua tôi không hề biên
được một cái thư thăm hỏi thầy. Với nhiều thầy khác tôi cũng
có niềm ân hận đó. Chớ chi mỗi thầy đều cho chúng tôi biết
địa chỉ chính thức - không kể những dời đổi nhiệm sở - thì
hy vọng 20-30 năm sau còn liên lạc thư tín được dẫu chỉ là
muôn một cũng vẫn là hy vọng.
Năm lớp Nhì B, tôi học thầy Ngô Văn Lương. Thầy đẫm
thấp, nói giọng Hà Tĩnh. Ấn tượng còn lưu lại là bộ Âu phục
màu ka-ki nhạt rất nhã thầy thường mặc. Và màu da mặt trắng
hồng. Thầy Trần Sĩ thì trông cao ráo linh hoạt hơn thầy
Lương. Ðược phân công dạy lớp Nhất là một vinh hạnh, vì học
sinh lớp Nhất, cuối năm thi bằng Rime (Primaire : Tiểu học)
là được xin bổ làm hương sư dạy lớp Năm, lớp Tư ở các trường
làng. Hương sư được nể hơn lý trưởng, phó tổng. Ðã vậy, thầy
còn đứng tên với ông Kiểm học Nguyễn Ðình Cầm, sáng tác cuốn
Ðịa dư tỉnh Phú Yên. Trước khi cuốn sách ra đời,
chúng tôi học ở lóp Tư phải chép bài Ðịa dư tỉnh Phú Yên vào
vở để học thuộc lòng. Ði thi Sơ học yếu lược, môn thi viết
có hỏi địa dư tỉnh. Dường như học sinh nào cũng đều thuộc
làu bài đọc thêm "sông Cầu và Tuy Hòa" trong đó, bằng lối
văn biền ngẫu, thầy so sánh: "Sông Cầu là đất thừa lương,
Tuy Hòa là nơi buôn bán, Sông Cầu là bà già lão luyện, Tuy
Hòa là cô thiếu nữ xuân xanh". Thầy có một cách đặc biệt
theo dõi đôn đốc sự học của học sinh mình: đó là hằng đêm
vào chặng 8-9 giờ, thầy đi rảo một vòng những nhà học trò ở
các con đường lân cận coi thử chúng tôi có ngồi nhà học bài
hay không. Do vậy mà có những buổi sáng thầy vô lớp kêu tên
một đứa bạn tôi, hỏi:
- Hồi hôm trò đi đâu lang thang ở trước tiệm Chấn
Thanh? Hoặc:
- Hồi tối nhà trò sao mới 8 giờ mà đã tối thui? Trò
học bài trong tối hả?
Một đêm kia thầy đi qua nhà ông cử Giáp, nơi trò
Huỳnh và trò Duyên, quê ở Gò Duối đang trọ học. Thầy nghe có
tiếng sát phạt "Xì Rô... Già Cơ.. Ðầm Chuồng... Bồi Bích..."
Thầy lặng lẽ hé cổng bước vô, đứng sau trò Huỳnh đang say
sưa cắt bài, chia bài. Cái miệng cứ tía lia, cười cười nói
nói, đôi tay cứ dẻo quẹo cắt cắt chia chia, chợt thầy đằng
hắng ho một tiếng ở sau lưng. Quay lại. Ngó lên. Trời ơi,
chết rồi! Ríu ríu bốn tay bài lặng lẽ đứng dậy, mắt mở trao
tráo như khỉ bị rắn thôi miên. Thầy cúi lượm bộ bài, lặng lẽ
đi ra cửa ngõ.
Ai cũng đoán biết được hôm sau loại bão tố nào nổ ra
giữa lớp. Bốn tay bài rủi ro đều là học trò lớp Nhất. Ngoài
Huỳnh và Duyên, hai người kia tôi quên mất tên.
Thầy hay dùng những cách xưng hô "tụi bay... đứa
nào...!" dẫu không tao nhã bằng "các em, cậu nào, cô ấy..."
nhưng đầy chất thân tình. Thầy la lối giận dữ khi học sinh
không thuộc bài, chúng tôi sợ mà không ghét... Như vậy hơn
cách nhã nhặn mà lạnh lùng, rất văn minh của nhiều thầy cô
giáo thuộc thế hệ sau này. Thật giống như đi coi hát bội.
Hồi tôi còn nhỏ, kép hát ở nhà quê đóng vai nịnh hét to đến
nổi gân cổ nổi lên như dây chão, trợn mắt cơ hồ toét luôn
khóe mắt, vung tay vung chân như người đấu quyền trên võ
đài. Năm 1974 coi hát bội trên sân khấu đặc biệt chọn lọc ở
Sài Gòn. Y trang Thượng Hải rực rỡ, hệ thống ánh sáng và âm
thanh tối tân, đào kép xinh đẹp thượng thặng... nhưng hát
không ra hơi thậm chí múa tay cũng múa lười biếng. Ðó, đẹp
thì có đẹp, có tinh tế, có quí phái... đủ mọi ưu điểm, nhưng
thực chất của sự hát thì... rất dở. Như ông thầy tận tình la
mắng hồi xưa và cô giáo nhã nhặn thời nay. Lớn lên, gặp
thầy, nghe thầy đối đãi bằng giọng xung hô "tụi bay..." quen
thuộc, chúng tôi vui, vừa thêm cảm động. Cho tới lúc tuổi
hơn 50, gặp nhau, ngồi nhắc chuyện xưa, nhắc đến thầy, chúng
tôi cười thích thú và thêm thương thầy.
Những khối óc lý luận hình thức thường đồng hóa cái
mộc mạc thân tình với cái thô lỗ, tưởng ai cũng say mê sự
trơn láng của một mái tóc chải bi-ăng-tin ép vuốt bóng nhầy.
Họ nghĩ rằng một khuôn mặt xác chết phấn son chải gọt đúng
qui cách hấp dẫn hơn cái ấm áp hồn nhiên của sự sống.
Cứ gần cuối niên khóa là thầy được cử đi chấm thi.
Năm đó, tôi nhớ thầy đi chấm ở Nha Trang. Lúc bấy giờ đường
xe lửa xuyên Ðông Dương mới làm được hai đoạn: đoạn phía Bắc
dừng lại ở Tourane (Ðà Nẵng), đoạn phía Nam dừng lại ở Nha
Trang. Tourane có xe thơ do hãng STACA đảm trách. Xe STACA
dài, rộng và cao như xe buýt thời nay, sơn màu xám trắng
trông thật lịch sự. Hành khách ngồi trên xe toàn những người
sang trọng, không như hành khách ở xe hàng (ở miền Trung xe
hàng là xe chở khách đi đường ngắn, trong Nam gọi là xe đò,
còn xe hàng chỉ chuyên dùng để chở hàng hóa), áo quần xốc
xếch. Thầy ghé đón xe ở nhà dây thép (bưu điện) trước mặt
trường, cách trường 100 thước. Khi xe chạy qua trường, nhìn
thấy thầy ngồi oai vệ trong xe, mặt nhìn ra trước. Thời đó
khách đi xe hàng phải ngồi trên những băng gỗ kê dọc thân
xe, lưng quay ra hông xe thành thử ở dưới đất nhìn lên chỉ
toàn thấy những lưng người. Còn người ngồi trên hai băng thì
đâu mặt vào nhau nên suốt đoạn đường trường cứ phải nhìn mặt
người ngồi trước. Có trải qua cảnh khổ nhọc đó mới hiểu
được sự sang quí của một tư thế ngồi nhìn ra trước xe, thong
thả, rộng rãi, không như xe hàng người này giơ tay vịn trần
xe cho khỏi té nghiêng, người kia nép vào nách người nọ,
người khác chân bị kẹp giữa hai đùi của người thứ tư. Chiếc
xe STACA hùng dũng lướt tới, bớt tốc độ, lượn qua cửa. Chúng
tôi đứng ngoài giơ nón chào, và thầy tươi cười rạng rỡ chào
lại. Thật là vinh quang!
Vài chục năm sau tôi cũng đi dạy học và cũng được cử
đi chấm thi, đi cả bằng máy bay nữa, nhưng cái hào quang rực
rỡ tôi nhận thấy nơi thầy ngày trước, tôi không có nơi tôi.
Người Trung Hoa có nói "Tự kỷ văn chương, tha nhân thê
thiếp" có nghĩa là vợ người thì đẹp, văn mình thì hay. Chẳng
lẽ hào quang lại giống như thê thiếp hay sao?
Với cái nhìn của tôi lúc đó thì tương lai hứa hẹn
nhiều triển vọng thành đạt cho thầy. Lấy ông Kiểm học Nguyễn
Ðình Cầm làm tiêu chuẩn thì tôi đinh ninh chỉ vài năm nữa
thầy sẽ thi đậu vào ngạch Huấn đạo là một ngạch học quan.
Nhìn sự tín nhiệm của cấp trên đặt nơi thầy và cung cách làm
việc tích cực của thầy thì đoán được. Mùa hè nào cũng vậy,
tôi cứ nghe mấy ông hương sư tập họp về Sông Cầu để học sư
phạm và họ nhắc đến thầy, một trong những người huấn luyện
hướng dẫn sắc sảo mà họ tỏ ý nể sợ.
Nhà thầy ở nằm trong một khu vườn nhỏ nhìn ra biển.
Tôi lưu ý đến những chùm ti-gôn nở hoa màu hồng trên lối đi.
Khác với những cúc, vạn thọ, tường vi... mọc lâu đời trên
vùng đất quê hương, hoa ti-gôn như mới được nhập cảng từ một
lân quốc hải đảo nào dó nên chỉ mới hiện diện ở vài ngôi nhà
nơi thành phố. Màu hồng rất tươi lám mát cả một khung cảnh.
Ngôi nhà thầy mới cất, có gió biển thổi mát suốt ngày, có
ánh sáng mặt trời dọi nắng suốt ngày, có hoa nở rực rỡ trên
lối đi... đời sống của thầy thật êm đềm. Các thầy giáo khác
và hầu hết các ông thông, ông phán đều phải thuê nhà ở ngay
trên phố. Thầy đốc Nguyễn Viết Nguyên - mãi đến khi ông Phạm
Quỳnh làm Thượng thư bộ Quốc gia Giáo dục mới đặt tên "Hiệu
trưởng" - Người Thanh Hóa, mặt đẹp và phúc hậu thì thuê một
căn phố của anh Nên, trước tiệm ông Bang Chín. Căn phố của
thầy Huy - học trò ưa kêu là thầy Huy lùn - nằm ở phía cầu
Thị Thạc thì vừa thấp vừa hẹp. Ðã vậy mà thầy còn dựng một
thùng nuôi ong mật nơi mái hiên khiến trẻ con, người lớn cứ
tấp nập nom dòm. Bầy ong thì bay vù vù suốt ngày. Chỉ cần
100 con mà mỗi con cứ bay lượn 100 vòng là số ong tưởng đâu
tới mười vạn.
Ðậu Tiểu học xong, tôi giã từ Sông Cầu đi Qui Nhơn
học Trung học. Rồi cứ thế con đường học vấn dẫn tôi đi càng
xa, những cảnh mới Hà Nội, Ðà Lạt, Sài Gòn, nguy nga nhộn
nhịp càng làm tôi yêu cái vắng lặng hiền hòa của Sông Cầu,
như yêu người bạn gái đầu tiên ngây thơ, ít nói. Mười lăm
năm sau, ngẫu nhiên tôi được điều động về dạy tại trường
Trung học Lương Văn Chánh nơi thầy làm Hiệu trưởng. Rồi lại
ngẫu nhiên, ba năm sau thầy đi nhậm chức Trưởng ty Giáo dục,
tôi thay thầy làm hiệu trưởng trường Lương Văn Chánh. Sau
hiệp định Genève lại thêm một sự ngẫu nhiên thứ ba: thầy ở
Sài Gòn, tôi ở Nha Trang đều đi dạy thuê ở các trường tư
thục. Năm 1983, thầy từ Sài gòn ra, có ghé thăm tôi. Tôi xúc
động vì lòng ân cần của thầy, càng xúc động vì nhìn dấu vết
thời gian nơi "người hùng thuở nhỏ" của tôi. Thằng học trò
từng sợ thầy là tôi mà tóc đã nhiều sợi trắng rồi, huống chi
bậc tôn sư của nó. Mắt thầy đã yếu. A quelque chose, malheur
est bon, cái bất hạnh nhiều khi cũng có ích. Chắc thầy không
còn soi gương nữa đê khỏi nhìn thấy bóng mình trong gương.
Mắt tôi còn sáng, nhưng may nhờ cái gương nơi tủ áo tôi nó
mờ nên bằng một thái độ quân tử cao khiết và với một lòng
nhân ái vô biên, nó xóa đi những khuyết điểm nơi khuôn mặt
tôi, nó chỉ phản chiếu lại bằng những nét mờ ảo. Mà phàm cái
gì mờ ảo thì trông cũng đẹp. Hôm 20 tháng 11, ngày nhà giáo,
là một thầy giáo niên trưởng, tôi được mời lên phát biểu.
Giờ giải lao, một thầy kém tôi chừng 5-7 tuổi tiến tới bắt
tay: "Xin chào lão sư". Tôi thân ái cầm hai tay người bạn,
cảm ơn, vừa nói: - Tôi muốn chữ "sư" có bộ Khuyển một bên
(cách viết chữ Hán. Chữ SƯ (thầy) nếu thêm bộ Khuyển ở trước
thì có nghĩa là "con sư tử". "Lão sư" là con sư tử già, chớ
không phải là người thầy giáo già. Thầy giáo phải có cốt
cách của sư tử, không được có cốt cách của loài cáo, loài
chồn.
Thầy tôi! Con sư tử của vùng rừng núi Hóc Lá! Vì thầy
mà tôi yêu cái tên Hóc Lá, tên của vùng quê hương thầy. Cứ
nghĩ đến thầy là tôi thấy cánh dồng Chợ Ðèo, trên đó một
bóng học sinh lầm lũi cần mẫn bước, bắt đầu là những bước
rụt rè, tiếp theo là những buớc mạnh dạn hơn, vững chắc hơn,
kiêu hãnh hơn, những bước đi tới.
... Mẫu chuyện trên, tôi viết gởi tặng một thầy học
cũ nhân sinh nhật thứ 75 của thầy. Tôi có nhắn rủ vài người
bạn cùng làm. Họ "ừ" nhưng rốt cuộc không ai thực hiện. Ngẫu
nhiên sau đó, một cô học trò cũ, vừa có học tôi vừa có học
thầy, tới thăm. Tôi trao cho cô đọc. Ðọc vừ xong, cô phản
ứng:
- Nhưng "thầy" không công bằng. Thương nể học sinh đẹp
giàu. Coi thường học sinh nghèo.
Tôi cười nhẹ hàng:
- Tôi biết. Và chính tôi đây cũng từng là nạn nhân.
Cô học trò cũ mở to mắt ngạc nhiên.
Tôi nhờ trời học khá, đứng nhất nhì trong lớp. Nhưng
tôi xuất thân từ nhà quê thì làm sao thầy không cưng Lê Phúc
Hán con quan Án Sát, cưng Hồ Thị Yến con ông chủ Dây thép...
hơn tôi? Ngày Tết cha tôi đón xe đi hơn 20 cây số, mang theo
nếp tượng giã thật trắng và con gà cồ thiến để tết thầy theo
tục lệ Nho học mà cha tôi chịu ảnh hưởng. Cha tôi đâu có ngờ
những phụ huynh ở thành thị là con quan Tuần Vũ, quan Tham
Lục lộ, thầy Phán tòa sứ, ông chủ tiệm buôn Hoa kiều, chủ
hãng xe, chủ khách sạn. Họ đi tết thầy những bôm, nho, táo,
xá lị... những xấp hàng Cẩm Châu, Thượng Hải để may áo dài.
họ đi tới bằng xe láng bóng. Chỉ cần một thoáng mắt nhìn là
cha tôi đã cảm thấy buồn. Tôi nói tôi cũng là nạn nhân là ý
đó. Nhưng mà này cô Liên Vũ (tên cô học trò cũ), ta chỉ nên
nhìn phía đẹp của cuộc đời. Thầy lớn tuổi rồi, sinh nhật
nhận quà và lời chúc tụng là chuyện thường tình. Tôi ở xa,
gợi nhớ vài "kỷ niệm đẹp" thầy thưởng thức lâu hết hơn.
Quả đó là một cách sống đạm bạc vừa tầm khả năng của
nhiều người. Làm nghề dạy học, cứ gần ngày nghỉ hè là tôi
bảo học sinh viết kể lại những kỷ niệm trong lớp, rất ngắn,
rất gọn, chỉ cần nhắc sơ lại sự việc. Viết trên tờ giấy lớn
nhỏ gì cũng được. Tôi gom những tờ giấy đó về đóng thành
tập. Mười năm, hai mươi năm sau mở ra đọc lại, quên rằng tóc
mình đang bạc, tưởng mình đang cầm viên phấn đứng trước bảng
đen.
Quanh ta người ta than khổ, hai mươi tuổi còn than
huống kẻ sáu mươi, bảy mươi. Và thường ta chỉ lo cái khổ của
ta mà quên giải khổ giúp người. Tôi gợi nhớ những kỷ niệm
đẹp cho thầy là nhằm tạo một niềm vui nhỏ, giải một nỗi khổ
nhỏ cho thầy tôi đó. Vì ai khỏi khổ? Không có cái khổ lớn
thì người ta cố tìm những cái khổ nhỏ để mà khổ.
*
* *
Ngoài ông bà, cha mẹ, anh chị và người
thân trong gia đình thì thầy và cô giáo là người thương yêu
ta chân tình hơn ai hết và ta cũng yêu lại, tin tưởng, chân
tình. Bởi một lẽ đơn giản: đó là người ta tiếp xúc đầu tiên,
tiếp xúc hàng ngày, ngay từ lớp mẫu giáo ngây thơ.
Lần đầu tiên tập đứng sắp hàng, tập giở
mũ chào, tập vòng tay ngồi im, tập giơ tay xin nói. Y như
mới ngày nào mẹ tập đứng tập đi.
Ðừng nặng lời đối với quan niệm Quân Sư
Phụ mà ghét lây vị trí của thầy giáo. Vào cái thời mộng muội
xa xưa, nông nghiệp thô sơ đó, người đàn ông có uy quyền lớn
nhất là vua. Rồi tới người đàn ông có nhiều chữ nghĩa và
truyền dạy chữ nghĩa, mở đường cho con cháu mình thi cử đỗ
đạt, đó là ông thầy. Người cha khiêm tốn nhận địa vị thứ ba
vì cha thường là nông dân ít nói, ông thợ cần cù. Mà có chi
phải ganh nghét ông thầy, vì ông thầy, thầy đồ, thì luôn
luôn nghèo, văn chương thương tình tặng cho hai chữ "thanh
bạch", không nỡ nói trắng ra là "bần khổ". Và thời nay
thì cũng đâu có khác mấy thời xưa?
Chưa dám kể rằng các bậc thông thái thời
xa xưa đều đóng vai thầy chớ ít ai đóng vai tể tướng. Như
Ðức Khổng Tử, vạn thế sư biểu mà không mấy ai không biết.
Người thầy có sức học uyên bác, biết con vật đào ở dưới đất
nước lỗ là con Phần dương chớ nhất định không phải là con
chó, biết vật lạ vớt được ở sông Ðại giang nước Sở là trái
bèo, bửa ra ngọt như mật, biết dị nhân ở nước Trần cầm giáo
đâm mình là con cá chiêm Ðại ngư, biết con chim lớn mình đen
cổ trắng, có một chân ở nước Tề là con Thượng dương, bay đến
đâu là nơi đó có mưa to lụt lớn. Người thầy đó suốt đời chu
du trải khắp bảy nước Lỗ, Vệ, Tống, Trịnh, Tấn, Tần, Sở. Có
hồi làm tới Tướng quốc, có hồi ngồi giảng cho học trò dưới
một gốc cây (quan Tư mã thấy ngứa mắt liền sai chặt gốc!),
có hồi nhịn đói ba ngày mà vẫn điềm nhiên ngồi gảy đàn, đọc
sách. Suốt đời chăm dạy Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ, bỏ nước Lỗ ra
đi vì vua Lỗ thiếu Lễ, bỏ nước Vệ ra đi vì vua Vệ thiếu Ðức.
Bậc thầy ở Á Ðông là vậy, còn ở phương
Tây? Lần trang sử cũ thấy ông Socrate. Lạ thay, cũng đồng
thời với Khổng Tử, nhích nhau chẳng mấy năm, khi Khổng Tử
qua đời thì Socrate lên chín.
Socrate, đó là một người khiêm tốn hiền
lành, mặc áo sờn vai, đi chân trần ngao du trên những con
đường của thủ đô Hy Lạp, nói chuyện với mọi người về những
đề mục tầm thường: thời tiết, mùa màng, chợ búa... Nhưng khi
giã từ; kẻ đối thoại chợt nhìn thấy cái ông mặt mũi xấu trai
đó có nói cho mình một cái gì đó khiến mình suy nghĩ và mình
đang hiểu mình hơn. Nghệ thuật của thầy Socrate đó. Thầy chỉ
đặt những câu hỏi và người học trò học suy nghĩ. Thầy mở mắt
cho họ hiểu là họ chưa biết được bao nhiêu, chưa biết đúng
và khiến họ ước muốn những hiểu biết chân chính. Thầy so
sánh phương pháp giáo dục của mình với phương pháp đỡ đẻ, -
mẫu thân của thầy là một bà mụ - giúp trí tuệ con người đẻ
ra cái Chân lý mà nó có mang sẵn trong đó.
Ðệ tử theo Socrate càng ngày càng đông
và những quan niệm mới của ông khiến ông có nhiều kẻ thù.
Ngay cả nhiều bậc phụ huynh cũng không bằng lòng vì đầu óc
con em họ tràn ngập những suy nghĩ mới. Và ông bị đưa ra
tòa, lấy cớ là ông phỉ báng chân lý, phỉ báng thần linh và
làm hư giới trẻ. Ông trả lời rất ít, không tự bào chữa. Tòa
tuyên án tử hình. Ông từ chối không xin giảm án, hy vọng
rằng cái chết của mình sẽ khắc sâu vào lương tâm của người
công nhân Nhã Ðiển, bây giờ và cả ở thế hệ tương lai, còn
hùng hồn hơn cả những lời rao giảng.
Trong ngục thất, ông uống cạn ly thuốc
độc một cách bình tĩnh, các đệ tử bao quanh ông, nước mắt
chảy ròng. Ðệ tử Criton vuốt mắt cho thầy.
Lý tưởng của người Thầy vĩ đại (chữ dùng
của sử gia: grand Maître) được các môn sinh khai triển thành
những môn phái, trong số có những môn phái tưởng như trái
ngược nhau: phái Khuyển nho, phái khắc kỷ, phái Hưởng lạc...
Ðệ tử sáng chói nhất của Socrate là Platon, được người đời
tôn vinh là "ông vua của ngành Triết học", người được
Hoàng đế Denys tiếp long trọng như tiếp một vị quân vương.
Ðệ tử của Platon là Aristote, thầy học của A-Lịch-Sơn Ðại
đế, nhà thông thái toàn diện mà thời Trung cổ đã tôn vinh là
"Thầy của mọi khoa học". Thật là thời đại hoàng kim
của sự kế tục thầy trò!
Ở ta thuở xưa, nghề dạy học đã thành cái
nghiệp của người biết chữ. Nhà Nho khi còn hàn sĩ, khi thi
đậu đợi bổ ra làm quan, khi hồi hưu hoặc khi phải treo ấn từ
quan lui về ẩn dật... đều mở trường dạy học. Trường chỉ sơ
sài một mái tranh đã đủ, khỏi thủ tục xin giấy phép kinh
doanh. Học không phải nhiều môn nên khỏi cần mời nhiều thầy
chuyên môn. Thỉnh thoảng lịch sử có nêu tên những bậc thầy
khả kính, có kiến thức uyên thâm, có đạo đức cao khiết, có
môn đệ thành đạt. Tiêu biểu là thầy Chu Văn An đời Trần,
thanh liêm chính trực, dâng sớ xin chém bảy gian thần, vua
không nghe liền từ quan lui về ẩn giật, mở trường dạy học,
đào tạo nhiều môn sinh hiển đạt như Phạm Sư Mạnh...). Chừng
như danh nhân văn hóa nào cũng từng là thầy giáo: Phan Huy
Chú, Bùi Hữu Nghĩa, Ðặng Huy Trứ, Phan Văn Trị, Nguyễn Ðình
Chiểu, Nguyễn Khuyến...
Thầy cô giáo hôm naykhông dám sánh với
những bậc sư biểu đó. Trường sư phạm đạo tạo những thầy cô
giáo dạy đúng chương trình, dạy có lương tâm, và chỉ bấy
nhiêu đó thôi, học sinh và phụ huynh đã phải có bổn phận đối
xử có nhân có nghĩa. Ðừng như bà phụ huynh nọ ỷ mình có sạp
buôn lớn, quen thân với cấp tỉnh cấp khu, một hôm nhận được
giấy cô giáo chủ nhiệm thông báo con mình vô kỷ luật liền
đợi tới giờ cô, xông thẳng vô lớp, tát tai đấm đá túi bụi
đứa con, chửi mắng ầm ỹ rồi hùng dũng bỏ đi ra. Khiến tôi
chợt nhớ tới cuộc diện kiến giữa A-Lịch- Sơn Ðại đế với nhà
hiền triết Diogène thuộc môn phái Khuyển nho.
Diogène sống với một con chó, ở trong
một cái thùng gỗ, hạn chế tối đa nhu cầu đến mức một cái một
cái chén để múc nước uống cũng ném đi khi thấy hai bàn tay
bụm lại cũng hứng được nước. Nghe danh nhà hiền triết, một
hôm Ðại đế đến đứng cạnh cái thùng lễ độ thưa:
- Tiên sinh có cần gì, quả nhân xin...
Triết gia trả lời:
- Ta cần ngươi đứng xe ra để nắng dọi
được vô cửa thùng.
Tướng tùy tùng rút gươm toan chém tên vô
lễ (nghề chuyên môn mà!), nhưng vua gạt đi, nói:
- Nếu ta không là A-Lịch-Sơn thì ta muốn
được là Diogène.
A-Lịch-Sơn trọng Diogène như trọng thầy
mình, người thầy mà nhà vua đã từng nói: "Sinh ra ta là
cha ta, Hoàng đế Philippe. Dạy ta sống xứng đáng là thầy ta,
Aristote".
Lên ngôi năm 20 tuổi mà đánh Ðông dẹp
Bắc, xua quân từ Hy Lạp sang tận Ba Tư, Ấn Ðộ, cái thế anh
hùng, nhưng nhà vua biết cúi đầu trước cái Ðức của bậc hàn
sĩ. Thử đặt bà phụ huynh chủ sạp vào địa vị nhà vua, thì bà
sẽ đá cho cái thùng lăn lông lốc mấy chục vòng!
"Nhất tự vi sư, bán tự vi sư",
vậy mà tôi gặp trường hợp có người học trò cũ xưng hô với
tôi bằng "anh". Tôi hoàn toàn không cảm thấy bị xúc phạm mà
chỉ thấy thương hại cho anh ta. Rõ ràng là anh ta có tỏ ra
lúng túng khi sắp phải chọn giữa hai tiếng "thầy" và "anh".
Tôi muốn vỗ vai thân mật an ủi: "Sao em khổ chi vậy?" Tiếng
"thầy" có gì là cao giá đâu mà em phải cân nhắc? Xung quanh
ta thiên hạ dùng tiếng "thầy" khỏe ru mà: thầy thuốc, thầy
cúng, thầy võ, thầy phù thủy, thầy địa!..."
Kẻ ác tâm nghĩ và người ác khẩu nói:
truyền đạt kiến thức cho học sinh thì nói có công ơn gì? Chỉ
là nghề sinh nhai, còn nhẹ hơn nghề đắp đường, khỏe hơn nghề
bửa củi. Kiến thức thức đó của danh nhân kim cổ chớ đâu phải
của chính thầy cô mà phải thán phục? Vậy là bao nhiêu cái ơn
phủi đi, bấy nhiêu cái oán lãnh đủ, vì kiến thức truyền rao,
học sinh phải nghe, phải học, phải thuộc, phải biết vận dụng
để làm bài. Lười học, cẩu thả, làm sai, thầy cô phải la phải
phạt, vậy là mang oán. Gặp phụ huynh có quyền có chức thì từ
oán chuyển sang uy hiếp.
Có một lần một bà mẹ cầm tờ đơn đến
trường kiện cô giáo. Tôi mời ngồi nơi phòng khách và mở lời
trước:
- Tôi biết vụ này. Con bà về mét là bị cô
giáo bạt tai. Cô giáo nói không. Không có ai làm nhân chứng.
Nhưng mà đôi co chứng tá làm gì, chúng ta cùng giải quyết
cái căn bản. Con bà được bà cưng, học lười và hỗn với cô
giáo từ lớp Một. Cô giáo rầy la, cảnh cáo nhưng bà bênh con:
ăn hiếp lại cô giáo. Lên lớp 2 cũng vậy, lớp 3, lớp 4 và bây
giờ lớp 5 đều cũng vậy. Nội dung đang rất bi đát mà bà đâu
có hiểu. Con bà không học thì sức đâu mà lên lớp? Nhưng để
học lại một năm nữa thì cô giáo chịu sao nổi với nó, với bà?
Vậy là nâng điểm, cho lên. Cứ liên tiếp như vậy. Rốt cuộc
nay học lớp 5 mà trình độ đâu chừng tới lớp 3 rưỡi. Mà phàm
học kém thì ngồi nghe giảng không hiểu, phải nghịch phá. Bà
ơi, rốt cuộc cô giáo nào rủi dạy trúng con bà đều cũng phải
nhẫn nại chịu đựng cho qua năm học, chịu khó ngồi tụng niệm
một trăm chữ NHẪN. Nhưng còn bà, thưa bà, bà sẽ phải khổ với
nó suốt cuộc đời bà.
Người đàn bà chăm chăm nhìn tôi. Cái đơn
kiện đến cuộn tròn khá lớn, giờ như được xếp cho nhỏ lại.
Nhà giáo bị uy hiếp bốn bề. Là người thợ
xây, nhưng tâm hồn học trò đâu có dễ uốn như cây, như gạch?
Quả là có một số ít nhà giáo kém phẩm chất nhưng tại sao lại
vin vào số ít nhỏ nhoi này để phủ nhận cài đa số lớn lao
kia?
Riêng người học trò cũ ngồi nói chuyện
với thầy, viết thư thăm thầy thì còn được hưởng thêm một
niềm vui ích kỷ: đó là thấy mình vẫn còn trẻ. Bởi một khi
các bậc trưởng thượng: cha, mẹ, thầy giáo đều từ trần thì
mình sẽ cảm thấy cô độc lạ thường, mình như già đi trong
phút chốc. Như những ngày cây cổ thụ ngã xuống, các cây nhỏ
bấy lâu nép bóng chợt bị phơi trần ra chịu đựng nắng, gió,
mưa.
Gắng tạo niềm cảm thông, niềm an ủi cho
các thầy cô giáo để ngày ngày họ dạy dỗ con của bạn trong
niềm vui. Cũng dễ hiểu thôi mà: khi có nước mát tưới đều,
bụi thúy cúc nở những đóa hoa rực rỡ. Và con của bạn đang
ngồi vây quanh, hưởng hương sắc của hoa.
Còn thầy cô giáo cũ thì có mong chờ gì ở
bạn đâu? Vì vậy mà một lời thăm hỏi đủ đem lại niềm vui
thanh khiết |