Không biết trong bảng tử vi của
anh Năm Nhiều có phải “Mệnh thân có tử vị cư Mão Dậu gặp Kiếp Không”
hay sao mà đời anh lại gắn liền quá mật thiết với sự cung kính dường
đó. Phải chứng kiến sự sắp đặt quy mô của bàn thờ nhà anh mới thông
cảm được phần nào sự an bài bất khả kháng của Hóa công. Nhà nhỏ lợp
tranh đã cũ mèm, gần nát vụn ra và vách đất. Nền nện đất, nứt thủng
ở nhiều chỗ. Hai cái cửa sổ lùa và một cửa ra vào bị mái che thấp
xuống nên ánh sáng vào quá ít. Nhà thành ra tối hùm hụp suốt ngày.
Tôi chưa hề nghe một ngọn gió nào thổi ngang qua đây nên ngồi trong
nhà thì phải ngửi mùi hôi thối cố hữu của ngôi nhà, mùi hôi lưu lại
từ ngày mẹ anh còn bán nước mắm, dầu lửa, dầu phộng, cốm kẹo, thuốc
hút… Mùi hôi ấy như phát xuất từ nền nhà, từ xó kẹt ghế bàn, từ vách
đất. Những bàn tay dính nước mắm, dính mồ hôi đã bôi quẹt qua lại
lên vách nhiều lần trong nhiều năm, nên vách cứ láng bóng lên nhất
là ở những chỗ thường qua lại. Cả gian nhà chính chỉ kê một bộ ván,
còn bao nhiêu chỗ dành cho ghế thờ. Ghế lớn đặt ở dòng giữa. Một bộ
lư đèn ngự ở đây, toàn bằng gỗ trắc đánh bóng lên nước. Trước ghế kê
cái bàn. Ngày thường, đó là nơi đặt kỷ trà để tiếp khách. Đến ngày
giỗ chạ thì trên sắp bày những xôi chè, canh thịt… Một cái ghế tương
đối nhỏ hơn kê ở bên tay phải, sau bộ ván. Cũng lại một bộ lư đèn
bằng gỗ. Trên đầu thêm một cái khám thờ ông táo. Hai mẹ con dường
như chưa đồng ý về điểm này. Tính Năm Nhiều ít nói và hay nhường
nhịn. Vả lại, ông Táo thì cũng đáng sợ như ông Địa nên anh chưa dám
cả tiếng truất phế.
Thôi thì thờ ai cũng được. Hơn
nữa, nhà có lắm trẻ nhỏ mà theo lời truyền thì ông Táo lại thích quở
trẻ con, hay bắt chúng nóng vặt. Thấy mẹ và anh nhân nhượng nhau,
chị Của em út của anh Năm Nhiều mượn ngay nơi đó để thờ “các đẳng”.
Chị buôn bán dang, mây, hom nứa từ chợ Lùng chở về nên phải luôn
luôn vái các đẳng phù hộ. Không có chỗ nào dành cho chị hết nên chị
phải mượn tạm cái khám. Vả lại đặt vẻn vẹn một nải chuối và cắm một
cây hương thì chỉ có chỗ ấy là tiện lợi hơn hết. Đã tránh được sự
chỏn vẻn, trơ trọi mà được nơi kín đáo cần thiết cho nải chuối kịp
chín. Đặt ở ghế dưới thì không yên được với lũ trẻ nhỏ. Chúng nó đòi
ăn và có gan dám bẻ trộm lắm.
Khi đã đặt vấn đề chiếm hữu nơi
cái khám thì lẽ tất nhiên là hai dòng bàn thờ cũng phải quy định
thuộc phần ai. Mẹ anh phụ trách việc cúng kính từ hồi cha anh mất.
Lúc bấy giờ anh mới lên năm. Tính bà xuề xòa nên bà nghĩ rằng ai
cũng xuề xòa như bà, kể cả các vị tổ tiên khuất mặt cũng vậy. Thành
ra dù giỗ ông nội, bà nội, ông cố, bà cố hay cha Năm Nhiều, bà cũng
chỉ sắp đồ cúng ở bàn thờ lớn. Vừa rộng rãi, vừa dễ đi lại. Bàn thờ
nhỏ do đó mà chịu ế sốt cả thời kỳ bà cầm quyền. Kịp đến khi Năm
Nhiều thay bà giữ quyền tế tục thì Năm Nhiều tổ chức có lề lối hơn.
Bàn thờ nhỏ dành riêng cho cha anh. Bàn thờ lớn dành cho tất cả các
vị tổ tiên khác. Để phòng ngừa mẹ lộn xộn, anh lấy khuôn hình của
cha anh vốn treo trên vách đem dựng vĩnh viễn trên ghế nhỏ. Hình
chụp cha anh đội mũ chào mào, áo quần lính tập thắt nịt da to và bắp
chân quấn xà cạp. Để tỏ sự tột độ nghiêm trang, ông cụ giơ tay mặt
lên ngang trán chào theo kiểu nhà binh.
Ông cụ đi lính mộ và hình như chết
ở Mac xây, bên Pháp (chi tiết này tôi nghe cha tôi kể lại). Mẹ Năm
Nhiều thì chỉ nhớ chắc chắn là ông cụ chết ở bên Tây, còn địa danh
đích xác thì cứ vài năm bà lại đổi một lần. Trí nhớ của bà không
được mẫn nhuệ. Ngay cái tên làng Định Trung, ấp Phong Nhiêu là nơi
bà sống trên năm mươi năm rồi mà đố bà có nhớ nỗi. Ai hỏi bà ở đâu
thì chắc chắn là bà chỉ trả lời được rằng “Ở Soi giữa”. Vậy thì cứ
chừng vài năm ông cụ Năm Nhiều lại phải vì bà mà thay đổi chỗ chết
một lần. Ban đầu thì đúng là Mac xây rồi, rồi Mặt xây, rồi Xây mặt…
cho đến một hồi nào đó sáng kiến của người chinh phụ này cùn đi,
năng lực biến chế của bà cạn đi và bà nói liều: “Chẳng biết chết ở
cái xứ Xây xây gì đó. Có cái hình của ổng kia kìa”. Cái hình ấy nay
đã vàng và bong đi mất nhiều mảng ở quanh rìa. Và theo sự phối trí
mới của Năm Nhiều thì bây giờ nó được ngự trị trên bàn nhỏ. Quả tình
Năm Nhiều có năng lực tổ chức thật. Mọi sự cúng kính được điều hành
có trật tự, ngoại trừ cái khám còn đang ở dưới chế độ cộng đồng
tương đối bất ổn.
Vừa hoàn thành tổ chức quản trị
mới thì Tết đến . Đây là dịp thử thách tài của Năm Nhiều. Ngày 24
tháng chạp sau khi sang dẫy mả giùm cho nhà tôi xong, anh vay mẹ tôi
hai giạ nếp và năm mươi đồng. Hẹn sang mùa tháng ba trả. Hăm chín
tháng chạp nhằm chợ Phiên Thành, anh mua vác về một tấm bức thờ bằng
giấy trên viết một chữ thọ thật to ở giữa và hai bên viết hai câu
đối. Bức đó để treo trên vách nơi bàn thờ tổ tiên. Bốn bức khác nhỏ
hơn vẽ hình chim hạc, chim phượng, hoa sen, hoa mẫu đơn.. treo ở bàn
thờ cha anh. Với mấy bức vẽ màu chói chang lòe loẹt, ngôi nhà anh
sáng hẳn ra tươi vui như có hội. Mấy đứa cháu, con chị Của cứ thập
thò đứng nhìn làm quẩn cả chân anh.
Khi cắm những cành bông điệp vào
lọ độc bình, bông điệp hai màu vàng và đỏ, anh xin ở nhà Trùm Diếc,
thì anh vừa lẩm bẩm trong miệng “Đông hoa, Tây quả…”. Đông hoa, Tây
quả thì tôi hiểu rồi. Đã có lần anh giảng cho tôi nghe rằng cái lọ
cắm hoa và cái cỗ bồng sắp chuối không phải muốn đặt ở chỗ nào trên
bàn thờ cũng được, mà đã có kinh điển quy định rồi. Lọ hoa thì phải
đặt ở hướng Đông và cỗ bồng chuối thì ở hướng Tây. Hỏi: còn “Đông
bình Tây hộp hương” nghĩa là sao thì anh đánh trống lãng không trả
lời. Tôi thật không ngờ việc xếp mấy món đồ thờ nói chi đến việc tế
tự to lớn mà cũng khó khăn bí hiểm đến có thể làm cho Năm Nhiều lúng
túng. Đã vậy mà lại không có một quyển tự điển nào về nghi lễ để tra
cứu, nên trên bàn thờ của Năm Nhiều đành thiếu một bình và một hộp
hương. Tuy vậy, tôi cho rằng anh đã cố ý đền bù chỗ thiếu sót này
bằng một cỗ bồng rất đỗi phong phú, xếp đến bốn, năm tầng nải chuối,
hai tầng trái quýt, một trái bưởi to và mấy chùm mận, thế mà vẫn giữ
được thăng bằng, kể cũng đã khéo tay.
Tối 30 và ngày mùng một, mùng hai,
bàn thờ đầy ắp những lễ vật, đèn nến sáng choang. Cái khoảng trống
còn lại trước dãy ghế, đầy những người: bà mẹ Năm Nhiều, Năm Nhiều,
chị Của và bốn đứa con chị Của. May mà Năm Nhiều chưa lấy vợ nên
trong cái khoảng hẹp ấy còn có chỗ để tránh nhau. Tôi thấy không khí
nơi đây quả thật là ấm cúng đặc biệt. Mà nào có cần phải đẹp đẽ sang
trọng? Mẹ anh thì già lẩm cẩm, gầy mỏng như cái lá sả và đôi mắt lèm
nhèm. Một cái miệng quá rộng trên khuôn mặt quá dài. Miệng đó không
phải là dấu hiệu của sự hòa mục. Chị Của thì lùn và đen. Đôi con mắt
nhỏ, loại tinh ranh vặt. Mấy đứa con của chị thì mặt mũi chẳng mấy
khi sạch sẽ. Ngoại trừ con Lượm tám tuổi có đủ áo quần, còn thì
thằng Khá sáu tuổi, con Khen năm tuổi, con Mùi hai tuổi đều chỉ mặc
một cái áo còn quần thì mẹ chúng hẹn để sang năm. Đó là vào những
ngày tự ngày Tết, những ngày lạnh mùa đông. Còn thì quanh năm, ba
đứa ở trần như ba con heo nhỏ.
Sự lẩn quẩn của từng ấy người
trong khoảng quá hẹp, dù vậy, vẫn không bực mình ông thầy tế tự là
Năm Nhiều. Một người cậu nào khác sẽ ghét hết sức bốn đứa nhỏ đang
lườm lườm hoặc lén lút nhìn mấy dĩa thức ăn bày trên bàn. Chúng
không có kỹ thuật ngụy trang nên sự thèm ăn được biểu hiện một cách
lộ liễu, có thể gọi là trắng trợn nữa. Năm Nhiều làm như không để ý
đến sự biểu diễn khiếm nhã đó. Anh xoa đầu một đứa và cất giọng ôn
tồn nói:
- Đi xuống dưới chơi. Đừng có hỗn.
Để lát nữa dọn xuống đã.
Đứa bé được xoa đầu lặp lại lời
anh, rủ ba đứa kia cùng đi xuống, nhưng rốt cục chẳng đứa nào đi
xuống hết. Và thế là cả bảy người lại lộn vào trong cái khoảng hẹp.
Đã nhiều lần tôi đứng ở cửa sổ
nhìn vào cái khung cảnh ấm áp bề bộn đó và tôi so sánh với nhà tôi.
Nhà tôi quá rộng có từng ngăn từng phòng thành ra dù trên bàn thờ có
chưng bộ tam sơn ngũ sự đồ sộ, đèn nến sáng choang, hương trầm nghi
ngút mà tôi vẫn cảm thấy lạnh lẽo trang nghiêm làm sao. Ngày Tết, mẹ
tôi mua sắm bận rộn đủ thứ nhưng vì thứ nào cũng có chỗ cất dọn ngăn
nắp thành ra tôi vẫn không thấy vui mắt bằng căn nhà của Năm Nhiều.
Ơû nhà anh thấy thứ gì cũng bày trong một khoảng hẹp. Có bao nhiêu
mứt, bao nhiêu cốm, bánh in, mấy thẩu dưa món, mấy đòn bánh tét là
biết hết. Ngồi đánh tam cúc chơi mà mắt vẫn có thể lượn trên những
miếng mứt bí dày cộm đường, trên những miếng nhân thịt của đòn bánh
tét đang cắt dở. Mắt no những màu sắc, tai no những âm thanh, mũi no
những hương vị, quả cái tiểu thế giới của anh có nhiều sức hấp dẫn
thiệt. Mà không chỉ ngày Tết mới vậy. Quanh năm, hình như không lúc
nào là nhà không có khách. Khách tầm thường thôi và là những người ở
quanh quẩn gần nhà anh. Chẳng là bình trà nhà anh luôn có bỏ trà
ngon và những người khách kia chiếu cố đến bình trà nhiều hơn đến
anh. Ngoài những chén trà đầu do anh mời còn thì những chén trà sau
đều do khách tự tay rót lấy. Họ chọn những lúc nào anh nói chuyện
hăng hái nhất và họ đã tán thành một cách nồng nhiệt nhất. Lúc bấy
giờ chủ khách đều hỉ hả thông cảm với nhau, và làm như vô tình, tay
họ nghiêng cái bình cho người trà lặng lẽ chảy vào tách. Thật tội
nghiệp, những người bạn nghèo của Năm Nhiều! anh không giàu gì hơn
họ, nhưng được cái anh không so đo. Có đường, có kẹo, có chuối anh
mời mọc thiệt tình. Riêng phần anh, anh luôn luôn nhịn miệng đãi
khách. Chỉ khổ cho bà mẹ anh khát nước, lại cầm bình lên thấy nhẹ
bỗng. Thế là bà nổi tam bành.
- Đồ quỷ ! Uống cái gì mà cạn ráo
không còn để phần cho ai một giọt. Uống gì mà như rồng hút nước.
Cũng phải biết…
Câu chửi, dù nhẹ nhàng cũng bị Năm
Nhiều cắt ngang. Anh chỉ xịu mặt bung ra năm tiếng “Bà này thiệt…
sao mà..” thế là bà cụ im. La lắm chỉ tổ khát mà bà thì có tật không
uống được nước lạnh. |
Những bữa có giỗ thì nhà Năm Nhiều
tấp nập khỏi phải nói. Anh lục đục nấu nướng đầu tắt mặt tối cho dù
nhà anh có dư đàn bà để lo việc ấy. Một người chị lấy chồng ở mãi
Thái Long dẫn về ba đứa con. Một người em lấy chồng ở xóm Đường dẫn
về bốn đứa. Một đứa cháu gái rọi bằng cậu lấy chồng ở Xuân Đài cũng
cố nách hai đứa con về. Cộng với mẹ anh và nhà chị Của thì quả nhà
này dư đàn bà để làm một bữa cỗ linh đình. Nhưng họ chỉ được sai bảo
vặt. Việc nấu nước, xắt thịt, đơm dĩa, anh đều tự đảm nhiệm hết.
Xong, lại cũng chính anh lo sắp dọn bàn. Rồi rửa mặt thay áo dài,
đội khăn, anh châm hương, châm đèn đứng lầm thầm khấn vái. Về điểm
này, anh có khác mẹ anh. Bà cụ thì khấn to như đang nói chuyện với
khách. Mà bà cụ nói chuyện thật. Lúc giỗ chồng thì bà kể lể những
hồi ông ra đi binh cách “Anh ra đi, thong thả hơn tui ở nhà. Một
mình nuôi bốn đứa con nhỏ. Thằng Nhiều thì ghẻ chốc. Dán hết mụn này
trổ sang mụn khác. Con Của thì đái dầm. Hết đứa này ấm đầu tới đứa
khác ỉa chảy… Cửa nhà đơn chiếc, mời hương hồn anh về uống chén
rượu, ăn miếng chả….”
Năm Nhiều nghe đến đoạn mình bị
ghẻ chốc mà cảm thấy thương mẹ. Mấy đứa con chị Của nghe hồi nhỏ mẹ
chúng đái dầm thì cười rộ lên. Bà cụ đang khấn cũng cười theo rồi xì
mũi và lau nước mắt. Năm nào đến ngày giỗ là cụ cũng kể lể thuộc
lòng từng đoạn như vậy khiến Năm Nhiều thấy mình như nhỏ lại. Tuy
khấn khứa lẩm cẩm vậy nhưng cũng phải công nhận giữa bà và người
chết có sự cảm thông mật thiết…
Đến bữa cúng “các đẳng” thì bà cụ
quả có nhiều trí tưởng tượng. Bà mời “…những vị chết sông chết suối,
chết lửa chết củi, chết chém, chết đâm, chết đường, chết sá, chết
gió, chết máy, quá giang chìm đò, đẻ rơi bóp mũi, ăn mày xó chợ…”
Những năm sau này khi đường ô tô chạy qua đầu xóm và con đường xe
lửa băng qua cánh đồng Chí Đức thì bà thêm một số nạn nhân nữa: “…
những người xe cán dẹp mình, tàu nghiến đứt ruột, những người sẩy
chân lọt xuống đường rầy, những người...”. Số người thụ hưởng thật
quá nhiều đối với một mâm cháo, con gà bằng bắp tay và một nải chuối
còn xanh.
Năm Nhiều khấn nhỏ hơn với một vẻ
mặt nghiêm trang hơn. Thật đúng là cái dáng dấp khả kính của một ông
thầy tế tự biết tự trọng. Anh lim di đôi mắt và hai bàn tay kẹp một
nắm hương lớn để ngang trán rất lâu. Lũ cháu tỏ dáng sợ hãi len lén
nhìn cái tư thế trầm mặc ấy của cậu chúng rồi lảng bỏ xuống bếp. Ừ
mà thật vậy, vẻ mặt của Năm Nhiều chỉ có giá trị khi Năm Nhiều
nghiêm trang trong ánh nến và khói hương. Bình thường, đó chỉ là một
cái mặt bèn bẹt với đôi mắt nhỏ và cái mũi hếch. Nước da mái mái, da
nơi hai gò má bóng lên một cách vô duyên. Răng lại mọc khập khễnh,
mọc thành đôi ba hàng lộn xộn. Cái khuôn mặt ấy nói cười đều không
gây niềm kính nể.
Tại sao Năm Nhiều lại có duyên với
sự cúng bái làm vậy, đó là câu hỏi tôi đã đặt ra từ lâu. Lúc tôi còn
nhỏ, anh được mẹ tôi cậy đến ở nhà bế tôi. Khi tôi biết chạy chơi
thì anh chuyên lấy đất sét nắn hình long đình, bộ lư, đỉnh, cây đèn.
Anh hái những trái mảnh bát già, cắm bốn cọng nhang ngắn vào giả làm
con heo. Anh cắt ngang cổ trái mảnh bát rồi bày riêng ra làm đầu heo
(ruộng mảnh bát già màu đỏ như máu). Anh lấy những lon, những khay
bày một hàng trước bàn thờ giả rồi gõ nhịp lên rồi tụng niệm ê a.
Anh bắt tôi chắp tay vái lạy. Thế là tôi học tiếp xúc với thần linh
do sự môi giới của anh Năm Nhiều vậy.
Ngày nào anh cũng bày cỗ cúng một
vài lần. Khi có đông lũ trẻ nhỏ đến chơi thì anh tổ chức thành đám
rước. Đứa thì thổi kèn, những cái kèn cuộn bằng lá chuối, đứa thì
đánh trống đánh chiêng bằng miệng, nhưng tuy bằng miệng mà vẫn có
trật tự, tiếng bầm, tiếng beng xeng nhau. Anh Năm Nhiều làm tổng chỉ
huy. Mẹ anh mỗi lần gặp thấy anh cao lêu nghêu đi “rước sắc” giữa
bầy trẻ con còn ở truồng như vậy là bà chửi liền:
- Mồ tổ mày, to đầu mà còn chơi
chuyện con nít. Mày coi, mày đã cao bằng cây cau kia rồi.
Và thế là đám rước rối loạn hàng
ngũ, trống chiêng bỏ chạy hết.
Sau đó, anh thôi không cúng giả
nữa mà anh vái ông Táo, ông Địa thật, với đồ cúng thật. Mỗi khi quên
đóng chuồng gà để gà đi lạc, sợ cha tôi rầy, mỗi khi đánh mẹ, đánh
lú bị thua liểng xiểng là anh mua một cái bánh nướng và một miếng
đường để vái ông Địa. Không dám đốt đèn sáp sợ tỏ ra quá lễ mễ, anh
chỉ đốt một cây đèn hột vịt nhỏ. Cũng không dám đốt hương nữa vì sợ
mẹ anh bắt hơi mùi hương mà lên hỏi lôi thôi. Sự cúng vái do đó mang
tính chất du kích, nghĩa là nếu nghe tiếng guốc của mẹ anh lẹt xẹt
đi lên thì anh thổi phụt ngay ngọn đèn, thế là xong. Cái bánh tráng
và miếng đường trở lại vị trí cũ là món ăn xoàng xĩnh ngang tầm của
anh, mẹ anh không có cớ gì để nghi ngờ nữa. Nhưng phải đợi đến năm
anh chấp chưởng quyền gia trưởng thay mẹ thì năng khiếu cúng bái của
anh mới phát triển toàn vẹn. Thôi thì nhà anh cứ phảng phất mùi khói
hương quanh năm. Anh giỗ cha, ông nội, bà nội, ông cố, bà cố. Anh
giỗ ông chú bà thím, cô Hai, cô Ba là những người tuyệt tự. Anh giỗ
ông ngoại, bà ngoại, vì lòng hiếu với mẹ. Ngày rằm, mùng một, ngày
vía Phật, ngày vía Quan Thánh.. anh nhớ không sót. Nếu không vì
nghèo thì tôi chắc cái gian giữa nhà anh phải là nơi gặp gỡ của còn
nhiều các vị thần linh nữa. Gặp trường hợp nào anh cũng kêu cầu sự
phù hộ
Nhưng bảo rằng sự cung kính thái
quá của anh là một lối hối lộ thần linh thì sợ có oan cho anh không?
Chớ riêng tôi thấy thì hình như sự nghiêm trang xuýt xoa của anh là
một thái độ hạ mình để kêu gọi lòng trắc ẩn. Trong khi cúng vái, tôi
thấy anh hay hít mũi mà không hề nghe có tiếng nước mũi chạy lên.
Như vậy, thì sự hít mũi đúng là một lối trang bị hơn là một sự cần
thiết sinh lý. Anh muốn nhún mình, hạ mình, muốn tỏ rằng mình khổ,
mình cần sự giúp đỡ che chở. Những người khổ, những người muốn chứng
tỏ rằng mình khổ đều có những phép trang bị tương tự. Chẳng hạn họ
cố ý đi khòm lưng xuống. Chẳng hạn họ hay thở dài. Chẳng hạn họ hay
thốt ra những thán từ tỏ sự ngạc nhiên, sự sợ hãi: “Trời ơi! Trời
ơi! Mô Phật! Chúa ơi!”
Đúng là Năm Nhiều đang đi trên con
đường xây dựng mặc cảm đó. Tôi có thể chứng minh điều này bằng lối
bẻ bánh tráng của anh. Số là mỗi lần có cúng giỗ thì cỗ đầu tiên, cỗ
ngon nhất anh dùng để mời khách. Khách đó trước tiên là cha tôi mà
anh nài nỉ hết sức để mời đến cho được. Thứ đến là ông xã Tám, một
người hào phú đương kim lý trưởng. Rồi đến hương kiểm Bán và câu Hai
Dần. Tôi cũng được anh và mẹ anh trì kéo cho vào ngồi chung bàn “vì
cảm tình riêng”, anh nói. Ngồi ăn như vậy, tôi đóng vai trẻ con hay
nhìn người lớn khề khà uống rượu. Tôi mới để ý đến tia mắt khinh bỉ
mà ông xã Tám dành cho câu Dần. Nhiều câu nói của câu Dần, ông xã
làm như lảng tai không nghe, để không trả lời. Yù ông xã chê câu Dần
chức vị quá nhỏ không xứng được chung bàn với ông. Thực tế thì quả
có như vậy. Ơû trong thôn xóm, trừ những người u mê thậm tệ, còn thì
ai cũng được nhận một chức vị nhỏ. Chẳng lẽ trong suốt một đời người
mà không có dịp nào sao. Những chức câu, trùm, kim tri.. đâu phải
món hàng có nhiều người đầu cơ mà trái lại, thừa thãi ra đó, ai muốn
xin lãnh cũng được. Vậy mỗi người sẽ đến lượt mình. Câu Dần, trùm
Sáu, kim Hai đã thay hẳn những cái tên riêng. Nhưng mặc dù vậy, cho
đến ba mươi mấy tuổi, anh Năm Nhiều vẫn chỉ là Năm Nhiều chớ không
hề được gọi là trùm Năm, câu Năm.. và do đó mới xảy ra việc nể nang
một ông câu thư như câu Dần mà ông xã Tám, xem là thái quá.
Khi bữa ăn giỗ bắt đầu, anh Năm
cầm những cái bánh tráng nướng để bẻ. Nhưng thay vì bẻ trên tay, anh
lại để bánh tráng trên đầu. Hai tay anh kéo hai bờ vành bánh xuống
cho bánh bể một tiếng gọn trong khi cổ anh rụt xuống. Thái độ khúm
núm này chắc là làm vui lòng cha tôi và ông xã Tám lắm. Nhưng giá
anh Năm đừng lặp lại cử chỉ ấy với cái bánh tráng đặt trước mặt câu
Dần. Khi rót rượu, anh cũng lễ độ đúng mực. Tay mặt cầm bình rượu
chúc xuống, còn tay trái vòng ngang để giữ vạt áo dài.
Những năm chiến tranh, Năm Nhiều
làm không đủ ăn, nhưng trong cảnh nghèo, anh vẫn không bớt mẫn cán
trong việc tế tự. Tội thân anh, đã phải chạy đồ cúng một cách chật
vật mà nhiều khi còn phải che giấu bớt sự cúng kính quá thường xuyên
của mình. Trong khi xung quanh ai nấy phải khó khăn lắm trong sự
sinh sống mà mình cứ thắp hương một cách thừa thãi thì quả là vô ý
thức. Vả lại lúc bấy giờ còn có phong trào bài trừ mê tín, nên anh
cần phải thận trọng nhiều lắm. Nhớ có lần toàn huyện thi đua bắt
chuột, bảo vệ mùa màng, ai nấy mang cuốc xẻng ra đồng đào hang
chuột, mang rơm un khói chuột, mang chó theo săn chuột, mang lưới
căng bẫy chuột, thế mà riêng Năm Nhiều thì biện một mâm cỗ lén mang
ra miếng ruộng nhà để cúng vái ông Tý. Thì ra anh Năm quan niệm rằng
mọi sự vật trên đời này đều có một sự cảm thông huyền bí với nhau,
kể cả những việc nhỏ nhất. Mỗi gốc cây, mỗi phiến đá cũng có thần
linh trong đó. Chớ sao? Trong khắp xóm chỗ này chỗ kia người ta vẽ
những hình tượng và bùa chú lên mặt những viên đá để trấn áp những
góc rào. Những thanh tre cũng được bôi vôi trắng và vẽ bùa chú lên
để đặt trên sườn nhà. Hèn chi anh chẳng lúc nào chẳng trầm tư. Dễ
thường anh đang lắng nghe tiếng nói thần linh của mọi vật xung quanh
anh. Những đêm tối trời, anh ngồi chơi với tôi mà thấy một vì sao
đổi ngôi là anh im lặng cắt đứt câu chuyện. Sau đó anh thì thầm nói:
- “Bà” mới bay. Chắc “bà” bay về
miếu.
Bà nào, tên gì, anh không trả lời
được, nhưng nhất định là “bà” vừa bay. Bình vôi cũ, ông táo bể, anh
xếp cẩn thận ở gốc mít và cấm ngặt lũ cháu không cho đến gần. Rồi hễ
đứa nào ấm đầu, đi tướt là anh đổ riệt rằng nó đã quấy phá ông táo
và ông bình vôi. Đứa cháu có cam đoan mười mươi là không bao giờ
bước đến đó cũng không tin. Lập tức một lễ nhỏ được bày biện ra và
anh xuýt xoa tạ lỗi. |
Ngày tôi lên bảy tuổi, mẹ tôi sắp
đặt cho tôi đi học A.B.C. Anh Năm Nhiều tỏ ra xao xuyến hết sức đối
với cái giây phút long trọng mà tâm hồn tôi sắp giã từ những vật tầm
thường xung quanh mình để tiếp xúc với cái cao siêu của chữ nghĩa.
Anh trầm ngâm hỏi mẹ tôi:
- Cô định bữa nào cúng khai tâm
cho thằng Thiết?
Mẹ tôi ngạc nhiên quay lại hỏi:
- Cũng phải cúng khai tâm nữa sao?
- Có chớ. Nó bắt đầu đi học thì
phải cúng khai tâm cho nó.
- Cô tưởng ngày xưa đi học chữ Nho
thì mới cúng khai tâm, chớ thời bây giờ học chữ quốc ngữ thì có thần
thánh đâu mà phải cúng?
- Xưa nay gì cũng vậy. Phàm đã có
chữ nghĩa thì có thánh, không có thánh thì lấy ai bày ra chữ nghĩa.
Phải cúng khai tâm thì mới sáng dạ, học mau thuộc. Mẹ tôi lưỡng lự
một lát rồi nói:
- Ừ thôi thì cúng cũng được. Mà
cúng món gì bây giờ?
- Cô đưa tiền con đi kiếm mua một
con gà cồ trắng, thứ gà non chưa hề đạp mái. Phải đi chợ Đèo mới có
nhiều gà mà lựa. Rồi cô nấu một nồi xôi.
Mẹ tôi y theo lời anh và anh bươn
bả đi tìm mua về được một con gà cồ trắng thiệt. Quả là một thành
tích hy hữu đáng phục, vì gà cồ trắng không phải là một vật dễ tìm.
Anh sung sướng ra mặt khi về khoe với mẹ tôi:
- Con đi rảo suốt cả chợ mà không
tìm ra gà trắng. Chỉ có gà cồ chuối thôi. Con định mua đỡ một con gà
cồ chuối thì may thay có bà đem tới con gà này.
Vừa nói anh vừa vuốt ve cái mào
mới nhú đỏ chóe của con gà và con gà ngây thơ nhắm con mắt lại, sung
sướng và tin cậy nơi anh.
Tối hôm trước ngày ra trường là
buổi cúng khai tâm. Con gà luộc nằm trong cái dĩa lớn ngửng mặt nhìn
trời. Mình nó vàng bóng loáng những mỡ. Hai bên là hai dĩa xôi
trắng. Anh Năm tắm cho tôi, rồi bắt mặc quần áo mới. Anh đẩy tôi lại
gần con gà, nơi cha tôi đang đứng lầm rầm khấn. Cha tôi vốn không
nhiệt thành mấy về điểm cúng bái, nhất là đối với môn cúng khai tâm
này, nên ông để yên cho Năm Nhiều ra lệnh bắt tôi lạy ba lạy. Tôi
hồi hộp làm đầy đủ nghi thức, nhưng mỗi khi quỳ xuống đứng lên, mắt
đăm đăm nhìn vào con gà là lòng thắc mắc tự hỏi không biết con gà
kia có quan hệ gì đến chữ quốc ngữ mà mình sắp đi học. Khi con gà
được dọn xuống thì cũng chính Năm Nhiều ra lệnh cho tôi phải ăn cái
đầu gà. Anh ngồi nhìn tôi ăn với một vẻ vừa sung sướng vừa cung
kính, khiến tôi áy náy mà quên mất rằng mình đang ăn thịt gà. Có lẽ
lúc ấy tôi tưởng rằng tôi đang làm một nghi lễ gì nghiêm trang, hệ
trọng lắm, còn anh thì chắc anh đang hài lòng vì nghĩ đến một ngày
kia tôi sẽ học hành thông minh, kết quả của bao công phu của anh:
tìm gà cồ trắng, bắt lạy, bắt ăn đầu gà.
Một người sống quá khăng khít với
những linh hồn của tổ tiên, của thánh thần, của đủ loại ma quỷ như
vậy, chắc chắn là rất kém trong việc làm ăn thực tế. Anh nghèo luôn
luôn và mắc nợ mẹ tôi không biết mấy lớp. Đối với đàn bà con gái,
anh cũng không thành công gì hơn. Dù là con gái nhà quê, người ta
cũng muốn có một ông chồng lanh lẹ thực tế. Chớ ngồi nói chuyện tâm
tình với một người quá lễ mễ mà đôi tay lúc nào cũng nhu chuẩn bị
kẹp bó nhang hay vừa giữ vạ áo vừa rót rượu thì chán chết. Cũng như
đôi mắt, bàn tay là tiếng nói của ái tình. Thế mà bàn tay của Năm
Nhiều thì đúng là bàn tay câm. Thành ra cho đến bốn mươi tuổi vẫn
chưa có một người đàn bà nào. Thật ra thì nói như vậy cũng chưa thật
hoàn toàn đúng. Hình như anh đã có yêu một người: đó là chị Gần. Chị
Gần không đẹp, nhưng mặt mày cũng dễ coi. Có điều cặp môi hơi dày.
Cái kho ca dao tục ngữ là mẹ anh đã vô tình sớt cho anh một mớ kinh
nghiệm về tướng người, than ôi, lại nhằm điểm bất lợi của chị Gần.
Mỏng môi nói láo đã xong.
Dày môi ăn vụng, môi cong ăn hàng.
Nhưng nghèo như anh mà lại không
đẹp trai thì anh không mong gặp một cô hằng nga. Vậy chắc là anh đã
chọn chị Gần. Chị là bạn thân của chị Của, cùng đi về một chợ, cùng
ngồi một chỗ nhỏ to bàn tính tiền công, giá cả, hàng giờ ở ngạch cửa
nhà anh. Cứ cách một ngày là có chị bên cạnh chị Của. Mỗi lần đứng
gần chị, anh hay đưa tay vuốt tóc, những sợi tóc cứng đứng sừng sững
bướng bỉnh. Đó là lối làm dáng độc nhất của anh, biểu lộ một sự bối
rối mực thước. Thỉnh thoảng anh cũng có đưa đẩy vài câu chuyện nhưng
mà khó nhọc biết bao! Anh phải đằng hắng nhiều lần để nuốt một miếng
đờm tưởng tượng nào đó rồi mới nói được những câu rất đỗi vô duyên.
- Chị Gần… à… à.. cúng mồng năm có
lớn không?
Chị Gần cũng không hoạt bát gì
hơn. Đôi môi dày chuyển động một cách chậm chạp. Thành ra hai người
sắp sửa thành tình nhân ấy chỉ còn biết chăm chăm nhìn xuống hai bàn
chân của mình như chưa bao giờ thấy chúng. Sự tỏ tình mặc dầu đạm
bạc, gần như tiêu cực đó, cũng không lọt khỏi mắt người anh rể của
chị Gần. Người anh rể này bấy lâu đã ngầm coi chị như người vợ dự
khuyết của anh ta. Vợ anh đau ốm hom hem, nên anh phải lo xa một
cách phũ phàng như vậy. Nhưng từ ngày chị Gần tới nhà Năm Nhiều hơi
nhiều, thường xuyên và với những lý do không chính đáng lắm thì anh
khởi sự lo. Anh thấy phải vội vàng thực hiện cái ý định của anh. Anh
bắt đầu chửi vợ. Để sự chửi bới không trở thành trắng trợn, để đỡ
ngượng với hàng xóm, anh uống rượu trước khi chửi. Chửi vợ chán, anh
chửi luôn em vợ và mẹ vợ. Cuối cùng, không biết bằng cách dàn xếp
nào mà chị đã trở thành vợ anh ta. Thế là chai rượu và cái ly không
còn cần thiết nữa. Chỉ có tiếng chửi là vẫn còn, nhưng lần này lại
là tiếng chửi the thé, nhọc mệt, tiếng rủa kèm theo tiếng khóc của
vợ anh. Chị chửi chồng, chửi em gái mình. Chị chửi trời, chửi đất.
Cho đến một buổi tối kia, chị Gần cuốn áo quần đi mất biệt. Ở lại
cái xóm nghèo nàn này có hai người đàn ông đau khổ vì chị: người anh
rể và Năm Nhiều.
Năm Nhiều có buồn không, buồn bao
nhiêu lâu thì không ai biết. Vì có bao giờ anh vui vẻ đâu? Anh lúc
nào cũng mơ mơ màng màng, đi dưới đất mà tưởng chừng như đang bay
theo các “bà” ở giữa không trung. Chỉ biết là từ ngày đó anh hay
ngồi tẩn mẩn hàng giờ trước chiếc gương soi, có lẽ để tìm xem vì
những khuyết điểm nào ở trên mặt mình mà mình phải chịu một sự thất
bại lớn về tình ái dường ấy.
Thói thường thì khi nhìn vào gương
người nào cũng thấy mình không đến nỗi xấu. Chỉ có khuôn mặt phản
chiếu ra thấy hơi là lạ, ngường ngượng là vì trên thực tế mình chưa
hề gặp một con người như vậy lần nào. Đôi mắt anh quả có nhỏ thật đó
nhưng nhìn vào gương thì tự nhiên anh phải mở to mắt rồi. Đôi hàm
răng có vụng về đó, nhưng có bao giờ người ta há miệng để soi gương
đâu mà biết? cái mũi, đôi mày gò má đều được anh soát xét cẩn thận
nhưng vì ranh giới mơ hồ nên anh rất yên tâm mà thấy mình cũng “ngó
được”
Qua những lần thám hiểm như vậy,
anh mới có dịp để ý đến những mụn tàn nhang có rất nhiều trên mặt
mình. Anh dùng hai ngón tay cái để nặn và cái mụn trồi ra chầm chậm,
dễ dàng, đúng lúc, như chính nó cũng cùng chia sự thích thú với anh.
Đầu mụn mang một vết thâm đen. Chính những vết thâm này làm từng
chấm trên khuôn mặt. Khi nặn xong một mụn thì chỗ cái mụn vừa ly
khai có một lỗ chân kim nhỏ màu hồng, trông đẹp hơn cái chấm đen
trước nhiều. Đến đây, một sự hối tiếc lặng lẽ gặm nhấm tâm hồn anh.
Anh tự trách mình đã bỏ qua bao nhiêu năm mà không hề để ý đến những
vết mụn thù nghịch kia. Bây giờ đã có quá nhiều mụn đã già rồi, vết
đầu đen đã nhẵn sát xuống da mặt, khiến trên khuôn mặt rải rác như
có rắc những hột mè đen hay những hột hoa mồng gà. Ái tình đến quá
chậm nên mới có những sự bất lợi như vậy. Khi yêu người ta mới hay
làm dáng. Năm Nhiều thì vừa chậm yêu vừa ý thức sự làm dáng quá chậm
chạp. Ít ai như anh, thất bại trong tình trường rồi mới chợt để ý
đến những mụn tàn nhang.
Từ lúc phát kiến ra cái lối làm
đẹp không tốn kém mà khéo gây thích thú này, Năm Nhiều có khi ngồi
suốt giờ cạnh chiếc gương soi, chơi một mình với những mụn tàn
nhang. Những khi bạn đến chơi nhà, anh không ham nói chuyện như
trước mà chỉ thích tìm những mụn tàn nhang nơi mặt bạn. Có khi anh
bắt người bạn xoay mặt đủ chiều để anh tìm vết mụn. Vì trong nhà tối
nên anh kéo bạn ra ngồi ở cạnh cửa, nơi đó dưới ánh sáng của mặt
trời, những cái mụn sẽ không lẩn trốn đi đâu được. Rồi với đôi ngón
tay thành thạo, anh đã nặn vết mụn ra, sau khi tám ngón tay còn lại
kẹp cứng khuôn mặt của người bạn để không cựa quậy được. Sự say mê
ma quái này làm khổ những người bạn của anh không ít. Đôi khi những
người bạn này la “ái” lên, nước mắt ràn rụa, nhưng anh cũng không
tha. Anh phải suỵt suỵt nho nhỏ: “Im, im sắp ra rồi”, làm như nếu
nói to thì cái mụn sẽ nghe được và nó sẽ chạy trốn mất.
Nhưng số lượng những cái mụn có
thể nặn được thì có hạn mà sự say mê của anh thì khôn cùng, nên khi
những cái mụn đã hết rồi thì anh lại rơi vào sự im lặng cô đơn. Anh
đành phải rời bỏ khuôn mặt mình mà đưa mắt chậm chạp, uể oải nhìn
xung quanh. Đúng vào lúc ấy, anh thấy chị Ba Răng Vàng. Chị này ở
Tuy Hòa tản cư ra. Ngoài ba cái răng cửa bọc vàng tây, chị có hai
con mắt sắc hay liếc và một cái miệng hay nói hay cười. Đôi hàng
lông mày in rành rành vết dao cạo xén và môi có bôi một lớp son đỏ
lợt. Tóc bới vồng lên, ở trước như hai cái sừng mới nhú và trên mái
tóc mang rất nhiều kẹp. Lọn tóc bới lỏng bỏ rơi xuống dưới ót trông
tựa cái bụng của một con tò vò. Vóc người chị thon nên khi đi, đôi
tay đưa đẩy dịu dàng, một sự dịu dàng dường như cố ý, có sắp đặt
trước. Tất cả đều trái hẳn với chị Gần chậm chạp nặng nề. Chị Ba
Răng Vàng ở trọ nhà ông Cống, cách nhà Năm Nhiều chừng vài trăm
thước. Chị bán xôi chè và cơm rượu. Miệng con nhà buôn gặp ai cũng
mời cười, nhưng Năm Nhiều ngây thơ cứ tưởng nụ cười đó, nhất là con
mắt liếc chỉ dành cho anh. Thành ra anh hăng hái tuyên bố rằng anh
đã ghiền món chè “bột lọc bọc đậu phộng” của chị. Những bữa ế hàng,
nồi chè còn đầy thì chị Ba càng phung phí mắt liếc và nụ cười với
anh. Chị dám nắm tay anh mà kéo - bàn tay tinh khiết chỉ quen cầm
nắm nhang - bắt lại ngồi ăn giùm cho chị một chén chè. Anh đau khổ
từ chối, bảo rằng không có tiền thì chị cuời:
- Ăn đi rồi bữa nào có trả cho em.
Tiếng “em” ngọt ngào làm nhột sau
ót anh. Từ xưa đến giờ chưa ai xưng hô với anh như vậy, kể cả lũ em
gái. Đứa nào cũng xưng “tui” một cách lạt lẽo cộc lốc. Anh lợi dụng
tình thế liếc trả lại chị một cái rồi uể oải lại ngồi húp chén chè.
Uể oải, vì nghĩ đến đồng bạc lát nữa không biết phải mượn của ai để
trả.
Có lần chị Ba Răng Vàng hỏi:
- Sao anh Năm không lấy vợ?
Năm Nhiều thầm nghĩ: “Đàn bà con
gái ở thành phố bạo dạn quá trời. Dám hỏi đàn ông điều đó”. Anh mỉm
cười lấy giọng nửa đùa nửa thiệt.
- Tôi nghèo mà ai thèm lấy.
- Xì! Có anh hà tiện thì có. Cưới
vợ về sợ nó ăn hết gạo chớ gì!
Đó không phải là sự thật, vừa
không phải là câu nói mà anh mong đợi. Anh muốn chị Ba nói rằng “Tôi
thương anh lắm. Tôi muốn lấy anh”. Nhưng chị Ba chỉ mê mải ngồi rửa
cái chén và sau cùng cầm lấy đồng bạc anh đưa bỏ kỹ vào túi, cài kim
băng cẩn thận. |
Một hôm chị Ba gánh chè vào sân
nhà anh nhằm lúc có những người bạn nhàn tản của anh đang ngồi nói
chuyện trời trăng. Aên vặt là một tính hay lây nên một người ăn chơi
rồi tất cả bọn cùng ăn. Gặp được bữa bán mau tay, chị ba cười nói
vui vẻ. Một một bạn hỏi:
- Chị Ba sống một mình không biết
buồn à?
- Buồn chớ. Nhưng biết sống với ai
cho có hai mình?
- Để tôi làm mối anh Năm Nhiều cho
chị.
Chị cười:
- Em nghèo, lại tản cư mà. Anh
Nhiều đâu có thèm em.
Năm Nhiều cười híp hai con mắt,
không biết nói sao. Tối đó anh trằn trọc không ngủ được. Hôm sau bần
thần không làm gì được. Cứ hay mỉm cười một mình và lát lát nhìn vào
chiếc gương soi. Mẹ anh thấy chị Ba năng ghé bán chè thì tỏ ý không
bằng lòng, nhất là bà tiếc những đồng bạc anh đã trả cho chị. Bà lên
tiếng chỉ trích:
- Cái con cười cười, liếc liếc,
ngó như con đĩ.
Bị chạm tự ái, anh cãi ngay:
- Bà này nói lạ, chuyện của người
ta..
- Chuyện của người ta tao nói
không được sao? Ai biểu mày bênh?
- Bênh cái gì? Năm Nhiều sừng sộ.
- Vậy mà mày nói không bênh hả? Nó
là mẹ mày đó.
Rồi không cần chuyển tiếp, bà khóc
bù lu bù loa:
- Mày bênh con đĩ, mày chửi lại mẹ
mày. Bớ làng xóm ơi, thằng Nhiều nó chửi tui. Bớ làng xóm ơi, thằng
Nhiều nó muốn giết tui. Nó cắt cổ tui đây, bớ làng xóm ơi!
Năm Nhiều tức quá mà không làm gì
được, sẵn chân, đá luôn cái ấm ăn lông lốc ra chái bếp. Nước văng
vãi tung tóe ra đầy đất. Thế là hai mẹ con giận nhau, tránh mặt
nhau. Bà mẹ bỏ cơm. Anh ngồi ăn mà không nói một lời. Không khí tràn
đầy thù hằn. Nhưng oái oăm thay, ngày hôm sau lại nhằm vào ngày giỗ.
Phải mua sắm, nấu nướng, phải sắp dọn bàn thờ, phải mời mọc họ
hàng... Hai mẹ con đành phải hòa với nhau để chung lo việc cúng
kính.
Mối u tình anh dành ch chị Ba Răng
Vàng nung nấu trong lòng anh cho đến một tối kia anh cầm cây gậy đi
canh ở xích hậu. Đi qua đám bắp ông chánh Bát, anh nghe có tiếng nhỏ
to rì rầm lấy tư cách là tuần phiên, anh dõng dạc hỏi to:
- Ai đó?
Có tiếng trả lời yếu ớt:
- Dạ tôi.
- Tôi là ai?
Anh bước trờ tới: chị Ba Răng
Vàng.
- Còn ai kia?
Anh nổi giận quát lớn.
- Tôi
- Tôi là ai? Nói mau.
- Tao.
Một người đàn ông đứng dậy, bước
lại gần anh. Nhìn vào mặt thấy rõ là xã Tám, anh vội vàng bước lui
một bước, đưa tay trái lên gãi đầu theo thói quen, lí nhí nói:
- Dạ thưa cậu.
- Mày đi canh hả?
- Dạ.
- Ừ thôi đi đi.
Năm Nhiều lê cái gậy nặng nề bước.
Quả đúng như lời mẹ anh nói, con đó là con đĩ. Nhưng quên một con đĩ
không phải là điều dễ, nhất là khi người ta không có người đàn bà
đứng đắn nào để mà nhớ như anh Năm. Có thể anh ngồi nhớ đến đến đôi
môi dày của chị Gần và tự trách mình đã quá bạc tình đối với người
yêu cũ (cứ tạm nhận là như vậy). Những người rụt rè như anh thường
có ý nghĩ tẩn mẩn quanh co như vậy. Không đi tới mà cũng không bước
lui, không có cái gì dứt khoát hết. Trong khi đó thì những người đàn
bà dứt khoát hơn anh. Chị Gần chọn con đường phiêu lưu thay người
anh rể. Dễ thường hôm nay chị đã có người chồng mới rồi. Chị Ba Răng
Vàng thì chọn ông xã Tám và vài người khác bạo dạn, thực tế hơn anh.
Người ta trả lại anh cho cái bàn thờ uy nghiêm và khoảng hẹp trước
bàn thờ. Anh khỏi phải chọn. Như một cái bóng mờ, anh cứ chập chờn
trong cái khung cảnh âm u của khói hương và ánh đèn sáp.
Người thất vọng vì tình đều khó
ngủ, anh Năm Nhiều không thoát khỏi thông lệ đó. Nhưng khác với
những người văn minh uống thuốc ngủ vào trường hợp tương tự, anh Năm
Nhiều chỉ biết lăn qua trở lại trên bộ ván. Cái gối bị dày vò một
cách tàn nhẫn như tâm hồn của anh vậy. Khi trằn trọc đã chán, anh
chợt thiếp đi thì chợt anh bàng hoàng tỉnh giấc mơ quái đản, trong
đó anh vụt một gậy vào đầu chị Ba Răng Vàng hay vào hông ông xã Tám,
gây nên một vụ án tình đẫm máu mà chỉ vì mấy con chó hầm hè ầm ĩ
trước nhà. Chúng cãi nhau vì tình, tranh giành nhau, cấu xé nhau
mãnh liệt, ồn ào chớ không chịu bại trận thầm lặng như anh. Trong
đêm tối, anh lắng nghe tiếng từng con một và anh cố gắng phân biệt
tâm tính của mỗi con. Gầm gừ hàng tràng dài trước mái hiên nhà để đe
dọa ai là tiếng của con Vàng nhà anh. Đúng là anh chàng nhút nhát,
nhút nhát như chính anh vậy. Tiếng sủa ông ổng, mạnh dạn là tiếng
một con chó lạ, anh không biết của ai. Con này có vẻ thách thức, sẵn
sàng lao mình vào chiến đấu, nếu có con nào muốn. Một tiếng sủa rời
rạc, bàng quan xuất phát từ sân nhà ở xế trước mặt. Đó là con Mực
của bà Từ. Nó đã có tuổi, thận thủy kém suy, nên giọng sủa có vẻ là
một kẻ đã nếm đủ mùi đời, bây giờ muốn xuất thế, muốn người ta để
mình ngủ yên. Xa xa hơn là một số những tiếng gầm ghè lẫn lộn. Rồi
vụt nhiên nổi lên những tiếng cấu xé, tiếng những thân hình quần
nhau lăn lết trên mặt đường, tiếng “căng cẳng” của một anh chàng bại
trận bị cắn đau.
Năm Nhiều giận vì bị phá giấc ngủ,
anh mở cửa bước ra.
Anh rón rén lại góc rào lượm một
viên đá, nhắm ném mạnh vào một con chó khá đẫy đà. Bị trúng đá, nó
kêu ăng ẳng mấy tiếng bỏ chạy, nhưng cách đó không xa, nó đứng dừng
lại. Mấy con chó khác im lặng lảng dần. Chỉ có con chó bà Từ vẫn rời
rạc sủa những tiếng uể oải.
Nhìn chuỗi sao Bắc đẩu đuôi chổng
ngược lên cao, anh bần thần bước vào nhà, đóng chốt cửa lại. Nhưng
vừa đặt mình xuống ván thì những tiếng sủa lại nổi lên, hợp tấu trở
lại. Anh chợt nhớ rằng tháng này là Mười và hình như anh đã có nghe
ai nói rằng những con chó hoạt động mạnh về ái tình trong tháng này.
Ngày anh xin con Vàng về nuôi, nó đau ruột bỏ ăn và đi tiêu lỏng,
tưởng chết mất. Một ông cụ láng giềng sang chơi bày nấu canh rau
diếp cá cho nó ăn, rồi cụ dặn:
- Chó tháng Năm. Khó nuôi lắm.
Anh không hỏi “chó tháng Năm” nghĩ
là thế nào, nhưng anh đinh ninh rằng chắc hẳn mẹ nó thụ thai vào
tháng Năm. Vậy thì tháng Năm và tháng Muời là hai tháng ái tình mạnh
nhất của loài chó. A! Phải có những đêm trằn trọc vì tình, anh Năm
Nhiều mới phát kiến được mối tình có định kỳ của loài chó. Không
phải việc này mới xảy ra lần đầu nhưng mà đúng là lần đầu anh để ý
đến điều đó. Người ta kể chuyện rằng nhà độc tài Hitler vì một đêm
mất ngủ mà nghĩ ra được phương pháp phòng thủ một đảo nào đó - tôi
quên mất tên - khiến các chiến lược gia đại tài nào cũng phải phục
là kỳ diệu. Năm Nhiều là một người tầm thường. Nhưng đó chẳng phải
là cũng nhờ ái tình mà anh đã tìm hiểu cuộc đời xảy ra xung quanh
anh một cách đầy đủ hơn xưa đó sao? Những sự phát kiến vụn vặt đó,
tiếc thay, người bàng quan là mẹ anh không hề biết đến. Bà chỉ, một
cách thiển cận, tính nhẩm số tuổi của anh mỗi năm mỗi cao, nhìn mái
tóc của bà trong gương mỗi ngày mỗi thêm bạc mà lo lắng tìm vợ cho
anh.
- Con Mừng đó, mày coi được không?
Nó xấu người mà cấy hái giỏi. Của tư riêng của nó nghe đâu được tới
ba chục giạ lúa.
Nhưng Năm Nhiều chỉ ậm ừ rồi bắt
sang chuyện khác.
- Hay là con Tỵ? Tuổi nó cũng
ngang với tuổi mày đấy. Mày sanh tháng hai, còn nó sanh tháng mười
một. Mẹ nó cũng hiền lành như tao. Ý tao ưng đám này hơn.
Nhưng Năm Nhiều cũng lại im lặng.
Đối với người con gái nào anh cũng không phản đối mà cũng không tán
thành. Nếu bị hỏi riết lắm thì anh trả lời “để con coi đã”. Để bao
lâu, anh không nói rõ. Thật ra thì anh có “coi” gì đâu? Anh chỉ thản
nhiên nhìn những người con gái tuần tự lấy chồng. anh trang trọng
đến giúp gia đình họ nấu cỗ cúng - lại cúng! - và nấu cỗ dọn hai họ.
Phải nhìn anh vin nhẹ vào cành cây bông điệp để lựa bẻ từng cành,
xếp tỉ mỉ vào lọ hoa đặt thận trọng lên bàn thờ, phải nhìn anh mặt
đỏ rực lấm tấm mồ hôi xào nấu nếm ngửi trong bếp, nghiêm trang và
say mê như một nhà khoa học đứng trước bầu thủy tinh và ống nghiệm
thì mới hiểu rõ cái lòng chí thành của anh đối với tục lệ, cái lòng
vị tha của anh đối với những con con gái. Tâm hồn anh như một bãi sa
mạc, trên đó họa chăng chỉ còn dấu chân của hai người đàn bà đã đi
qua. Mẹ anh lấy đó làm một điều phiền lòng. Đã gần đất xa trời mà
không có lấy nổi một đứa cháu nội để ẵm. Nhưng làm sao bây giờ. Bạn
của anh quanh quẩn chỉ có mấy người đàn ông biết lợi dụng bình trà
và chiếu cố tận tình những bữa giỗ. Nước trà, đó không phải là sở
thích của những người đàn bà đang rộ yêu đương. Tóm lại, cứ như thế,
Năm Nhiều đi sâu mãi vào cuộc đời, chật vật trong cái diện tích hẹp
của khoảng trống trước bàn thờ.
Lâu lâu ghé về thăm quê hương, tôi
không quên tạt lại thăm anh, tìm một vài thay đổi nơi anh. Làn da
nơi gò má bớt bóng đi, cái miệng móp thêm vì vài cái răng đã gãy,
hàng râu thưa đâm tua tủa vì lười biếng cạo và đôi mắt mỏi mệt thêm.
Ngược lại, hai bàn thờ và cái khám thấy phong phú hơn xưa vì chiến
tranh chấm dứt, anh có phương tiện để bổ túc thêm món thiếu sót.
Đó là một dãy bóng đèn điện đứt
râu anh sưu tầm ở đâu về và đựng đầy nước có pha màu xanh, vàng, đỏ,
tím. Đó là những nhánh hoa bằng giấy rẻ tiền màu úa bị bụi bám. Đó
là những cái cỗ bồng bằng đất, trên đắp đầy ụ những nải chuối, trái
quýt, trái bưởi cũng bằng đất nung có tráng men và pha màu lòe loẹt.
Những món hàng giả này choán nhiều chỗ trên bàn thờ. Nếu một ngày
kia anh sắm thêm một mớ dĩa xôi giả, đĩa bánh tét, bánh in giả, đĩa
thịt gà, thịt heo giả - cũng bằng đất có tráng men và pha màu - thì
không biết còn chỗ đâu để sắp những món ăn thiệt. Tôi mời anh có dịp
vào Nha Trang chơi với tôi. Mắt anh sáng lên.
- Ừ! Tôi cũng kiếm dịp vào Nha
Trang chơi. Nghe nói chùa hội trong đó to lắm, ngày lễ vía, ngày rằm
mùng một, khách thập phương đến cúng dường hàng trăm người. Hôm Phật
đản nghe có cộ đèn và phóng sanh đăng.
Thôi đúng rồi, đúng sở thích của
anh Năm rồi. Ngày tôi còn nhỏ, tôi nhớ anh không bỏ sót một bữa làm
chay nào. Chùa ở xa làng đến hai cây số mà lúc bấy giờ anh đang ở
giúp việc cho nhà tôi nên không thể tự do muốn đi đâu thì đi. Muốn
được đi coi làm chay, anh bày tôi vào khóc với mẹ tôi đòi đi cho
được. Anh nói:
- Mày cứ khóc rồi nằm lăn xuống
đất. Má mày có nói đi xuống chùa xa không đi được thì mày trả lời là
có tao cõng. |
Tôi làm theo lời anh, vào năn nỉ
mẹ cho đi chùa. Mẹ tôi đang bận tay chưa kịp nghe hết câu thì tôi đã
nằm dài xuống đất lăn hai vòng, rồi vừa cào cấu vừa khóc rùm lên.
Thật tình là tôi đã đóng kịch quá dở. Tuồng lớp anh bày ra, tôi đã
lật đật thực hiện, hơi vội vàng, nên kém vẻ tự nhiên. May mà mẹ tôi
tính hay mủi lòng nên chỉ nhìn tôi một giây, mẹ tôi đã hỏi:
- Nhưng mà chùa xa con làm sao đi
được?
Tôi trả lời ngay:
- Anh Năm Nhiều cõng con.
Không ngờ rằng mưu mô do anh bày
ra nên mẹ tôi hối lộ cho anh năm xu và nhẹ nhàng phủ dụ:
- Chịu khó cõng em nó xuống chùa
chơi một lát. Đây cô cho năm xu để dành bỏ bùng binh. Nhớ về sớm kẻo
em nó buồn ngủ.
Thế là con ngựa hai chân ấy cõng
tôi như sao chạy tế.
Hôm nay con ngựa đã khá già rồi
nhưng dáng chừng còn ham coi làm chay cộ đèn. Tôi nói:
- Nha Trang thì còn nhiều thú vui
lắm. Anh vào, tôi mời anh đi coi chiếu bóng, đi tắm biển, đi coi sở
cá. Phố xá to lớn hơn Tuy Hòa nhiều. Có mấy khu Xóm Mới, Phước Hải
cất biệt thự trông cũng đẹp.
Nhưng anh lơ đãng đối với những
thú vui tôi vừa phác họa. Anh đợi tôi dứt lời, chậm rãi tiếp:
- Nghe nói Nha Trang nấu cỗ chay
vừa khéo vừa ngon. Chẳng là ngờ có nhiều “la ghim” ở Đà Lạt chở
xuống. Có cà rốt, khoai tây, xúp lơ thì dễ nấu. Ở ngoài mình quanh
quẩn có mấy món thường: bí ngô, bí chanh, đỗ phộng, bầu, mướp…
Tôi phải đi vào nội dung câu
chuyện của anh để anh vui lòng. Tôi hỏi:
- Anh nấu chay có ngon như nấu mặn
không?
- Cũng vậy. Có dầu nhiều, có đỗ
nành nhiều thì phải ngon. Nấu chay khéo thì đâu có thua nấu mặn.
Cũng đủ giò, chả, nem, gỏi… cũng đủ thịt gà, thịt heo, tôm, cá… có
điều này cũng là rau cỏ mà nấu giả như thiệt.
- Ở nhà quê có đám chay nào lớn
chắc là họ phải “thỉnh” anh.
- Ờ, chỗ nào quen họ cũng “thỉnh”.
Anh nói chậm rãi, tin tưởng như
một ông thầy thuốc Nam tự phụ. “Nhất nghệ tinh nhất thân vinh”, câu
này có thể đem áp dụng vào anh, nhưng có lẽ chỉ đúng nửa câu, phần
trên. Vì thân anh vẫn cứ nghèo và đôi mắt càng nuốt khói bếp nhiều
càng mờ đục thêm và còn mang thêm một tật nheo nheo. Một ngày tháng
Bảy, con chó nhà tôi sủa ai trước cổng, rồi sủa dẫn đến nhà sau.
Người làm lên thưa rằng có một người khách lạ. Tôi ra phòng khách,
không thấy anh, bước ra nhà sau thì thấy anh đứng ngơ ngác nhìn. Anh
mặc bà ba đen và chân đi dép cao su lốp ô tô. Tôi vui vẻ mời anh lên
nhà trên. Anh rờ từng chiếc ghế, từng chiếc cộng hoa cắm ở chiếc lọ
đặt ở bàn nước. Anh nhìn lên trần nhà, mắt ngừng lại rất lâu ở chiếc
đèn nê ông dài. Tôi mời anh ngồi và anh ngồi rất khẽ, đít chỉ chiếm
một phần tư mặt ghế. Lưng thẳng đứng, rồi mắt lại đậu ở cái quạt
máy, ở cái radio. Tôi hỏi:
- Lâu quá anh mới vô thăm chơi. Ở
ngoài nhà làm ăn ra sao?
Anh đằng hắng ba cái liên tiếp rồi
mới nói:
- Cũng chẳng ra sao. Mùa màng mất
mát, làm ăn cứ mỗi ngày một lụn. Tôi định vô trong này kiếm việc
làm.
- Đã có chỗ làm chưa?
- Ông hương Kính ở ngoài làng vô
trong này được nửa tháng. Vừa rồi mới về quê và rủ tụi này vô làm ăn
- Hương Kính làm việc gì ở đây?
- Làm phu đổ đá ở sân bay.
- Lúc nãy anh nói đi vào cả tụi.
Vậy còn ai nữa?
- Thằng Đực con bà Lý, thằng Thành
móm và anh trùm Sáu.
Hiện giờ họ ở đâu?
- Dưới xóm chợ, chỗ nhà bà con của
hương Kính.
Tôi mời nước và thuốc lá. Tiện có
đĩa chuối đặt ở tủ ăn, tôi lấy mời nhưng anh từ chối.
- Tôi ít ăn thứ này lắm.
Tôi ngạc nhiên
- Kìa, ngoài nhà thấy anh cúng
chuối luôn mà.
- À, vậy mà ít ăn. Cúng thì cúng
chớ rồi lũ trẻ nó chia nhau.
- Thế thì ăn kẹo vậy.
Tôi vừa nói vừa vội vã đứng dậy
lại mở tủ lấy kẹo. Nhưng anh đưa tay ngăn:
- Thôi đừng phiền. Tôi không ăn
đâu. Buổi sáng chỉ uống miếng nước trà.
A! không ngờ cuộc sống của anh
thanh đạm dường đó. Tôi nhìn đôi vai gầy và nói:
- Anh ăn ít nên gầy.
- Hồi giờ tôi vẫn ăn ít vậy. Mỗi
bữa chỉ có ba sét chén.
Tôi tìm trong dĩ vãng xem anh có
nói thật không. Nhưng lạ, sao tôi không còn nhớ một kỷ niệm nào về
việc ăn uống của anh hết. Anh sống ở nhà tôi có đến bốn năm năm, thế
mà hồi tưởng lại, tôi không thể nào hình dung ra anh cầm chén cơm
hay gắp miếng thịt hay nhai nhồm nhoàm ra sao. Tôi có thể thấy như
hiện ra trước mắt, anh vấn điếu thuốc và ghé vào chiếc đèn dầu lửa
để đốt, hoặc anh đứng ở bàn ăn - ăn đứng chớ không ngồi bao giờ -
một chân chõi ngang vào chân đứng thẳng, y như cái chùa Một Cột còn
thì tuyệt nhiên không nhớ cái miệng anh nhai ra làm sao. Lẽ cố nhiên
là hình dung ra anh hai tay nâng bó hương nghi ngút khói, đứng khấn
vái trước bàn thờ thì càng dễ hơn nhiều.
Sau vài câu chuyện, anh đứng dậy
cáo từ. Tôi hỏi đi đâu thì anh bảo xuống ở chung nhà với hương Kính
để mai đi làm. Tôi nói:
- Anh cứ ở đây với tôi rồi ngày
ngày đi làm cũng được. Nhà tôi rộng rãi mà.
Nhưng anh không chịu.
- Để xuống ở chung cả tụi cho dễ.
Ngày ngày có xe đưa đến công trường.
- Thế anh đã biết là anh sẽ làm
công việc gì chưa?
- Chưa, đợi đến mai sẽ hay.
Khi anh bước theo tôi ra cửa, anh
chợt dừng lại, đứng sờ mó vào những quyển sách dày dựng ở kệ sách.
Anh nhón lấy hai quyển, âu yếm nhìn vào gáy da rồi lật xem vài tờ.
Anh mỉm cười (à, lâu lắm rồi tôi mới bắt gặp nụ cười của anh) nhìn
tôi nói:
- Bây giờ chú học hành giỏi. Có
nhớ ngày cúng khai tâm chú ăn cái đầu gà không?
Kỷ niệm ăn đầu gà làm tôi yêu mến
anh nhiều. Chắc anh đang hãnh diện mà nghĩ rằng những cuốn sách chữ
Tây đó (chữ gì hay ho khó hiểu khiến cho con người ta giỏi được cũng
là chữ Tây hết, theo anh quan niệm) làm món trang sức cho trí óc của
tôi, làm phương tiện cho tôi sinh sống khá đầy đủ cũng nhờ anh mà
có. Nếu không có sự chăm sóc chu đáo của thì bữa cúng khai tâm đã
không có và tôi cũng sẽ chỉ u mê tầm thường, lớn lên đủ để làm ông
hương, ông giáo là cùng. Tóm lại, cái tôi hiện tại chính là tác phẩm
của anh, cái tác phẩm mà anh cho là đã thành công quá sức mong mỏi
và đáng để anh hãnh diện. Tôi êm đềm đặt một tay lên vai anh, nơi
cái xương quai xanh gồ ra dưới lần áo mỏng rồi nói:
- Tôi học được là cũng nhờ ba cái
lạy và cái đầu gà của anh đó.
Đưa anh ra khỏi cổng, đi với anh
một quãng đường, rồi tôi gọi xe và trả tiền trước, bảo xe đạp xuống
xóm chợ. Tôi dặn anh thỉnh thoảng có thì giờ rảnh thì ghé lại cho
biết tình hình công ăn việc làm.
Mười ngày sau anh mới trở lại. Anh
cho biết là anh đã đi làm từ sáng hôm đó và anh chuyên môn làm phu
hồ.
- Sao anh lại làm phu hồ? Tôi hỏi.
Phu hồ là công việc của đàn bà mà.
- Tôi yếu sức, không đổ đá, rải đá
được. Phải làm phu hồ vậy.
- Mỗi ngày công được bao nhiêu ?
- Ba mươi lăm đồng.
Tôi tự nhiên nhìn xuống đôi bàn
tay của anh. Thật là lam lũ phong trần, nhưng tôi cũng ngầm mong một
cách yếu ớt rằng đôi bàn tay ấy, lần này, không đến nỗi chịu câm nữa
bên cạnh những cô phụ hồ nhí nhảnh lẫn lộn xung quanh anh. Chợt anh
ấp úng ngỏ lời mượn tôi hai trăm đồng.
- Ngày kia nhằm bữa giỗ ông già
tôi mà chưa tới kỳ lãnh phơi. Chú cho tôi mượn đỡ hai trăm đồng, mai
về quê, rồi hôm sau vô tôi lãnh lương sẽ trả lại.
Tôi nhẩm tính tiền lương của anh
mỗi ngày, trừ đi tiền ăn tiêu và tôi thấy hai trăm đồng là một số
tiền không nhỏ. Tôi hỏi:
- Về tốn kém như vậy mà anh cũng
về sao? Thôi tạm ở trong này, chừng nào để dành dư giả hãy về một
lượt.
Anh lắc đầu.
- Tốn thì tốn mà không về không
được. Chẳng lẽ ngày kỵ, ngày giỗ mà lại…
Tôi lấy tiền đưa cho anh và anh
vội vàng cáo lui:
- Để kịp ra phố mua vài lạng bún
bắc thảo, da heo, kim châm và ghé chợ mua ít cái bắp sú.
Sau đó không biết bao lâu anh mới
lại nhà tôi. Hỏi anh đã để dành tiền khá chưa thì anh thản nhiên
nói:
- Đi làm chẳng được mấy ngày. Bữa
trước về đám giỗ rồi kế tiếp mấy bữa sau khuôn hội Quảng Đức nhờ ở
lại để nấu chay giùm cho chùa nhân ngày lễ Vu Lan. Nhân dịp lễ, chùa
khánh thành cái đại hồng chung mới đúc và có gia đình Phật tử toàn
quận cắm trại. Thức ba bốn đêm ròng nên bị bẻ mình đến bốn năm bữa.
Mới vô hôm kia. Vẻ thản nhiên của anh khiến tôi nghĩ đến thái độ
sống của anh mà tôi đã có lần ao ước. Tôi nhớ một buổi chiều chủ
nhật kia, tôi ghé thăm một người bạn. Ở nơi giếng nước nhà anh bạn,
một người đầy tớ gái đang xát vỏ đậu xanh. Trong khi chờ đợi anh bạn
thay áo để cùng đi thăm một người bạn khác, tôi bước ra sân nhìn dãy
nhà trước mặt.
Đó là một dãy nhà tôn vách ván kề
sát nhau, chạy dài dọc theo cái đầm nước. Trong một gian nhà kia,
một người đàn bà đang tắm hai trái đu đủ. Một dĩa quýt và một dĩa
chuối đã đặt trên một cái bàn nhỏ kê sát mái hiên đặt trước sân, tôi
nghĩ rằng nhà này là một cái quán.
Nhưng chợt có mùi nhang thơm ở đâu
bay đến. Tôi liên tưởng đến cái rá đậu xanh vừa rồi và tôi nghĩ rằng
mình đã lầm: nhà kia không phải là cái quán đâu, mà chắc là họ đang
sắp đặt một bữa cúng gì đây. Tôi nhớ đến đêm nay có trăng sáng. Thôi
đúng rồi, có lẽ ngày rằm rồi. Hỏi lại người bạn thì anh ta nói: “Ừ,
hôm nay rằm tháng Mười”. Tôi chợt buồn, nghĩ đến những bữa cúng êm
đềm mà mình cứ thản nhiên quên. Những ngày cúng rằm, cúng mùng một
chỉ có chị giúp việc nhà tôi là nhớ kỹ. Chị giữ tiền chợ nên liệu
nhớ mà mua sắm món gì đó tùy ý chị. Khi cỗ bàn đã đặt lên, chị giao
cho tôi nhiệm vụ đốt hương và khấn vái. Nhưng sao tôi vẫn nhọc nhằn
hết sức để mà tin rằng mình hiện đang hâm hưởng sự chở che ấy. Vào
những lúc ấy tôi nhớ đến vẻ mặt rạng rỡ của anh Năm Nhiều, tin tuởng
say sưa vào sự phù hộ của vị thần mà anh đang hướng tâm nghĩ tới. Có
một lòng tin như thế thật quý giá biết bao trong một cuộc sống đầy
cam go bất trắc, đầy những sự phi lý như người ta thường nói.
Như vậy, thì liệu tôi có sung
sướng gì hơn anh đâu, tôi, con người bận rộn khôn cùng, lo lắng khôn
cùng giữa vài tiện nghi nhỏ: cái xe để đi, cái quạt cho ngày hè, cái
máy hát để đỡ cô đơn và bữa cơm trưa có thịt. |
Bẵng đi vài tháng tôi không gặp
lại Năm Nhiều. Có lẽ nhớ nhà, nhớ xóm, nhớ cái bàn thờ, nhớ chùa,
nhớ khuôn hội, anh đã bỏ về quê rồi cũng nên. Nhưng một sáng chủ
nhật, dạo quanh chợ, tôi chợt gặp hương Kính đi với trùmg Sáu và
Thành. Thật là dễ nhận ra họ: quần áo bà ba, đội mũ và mắt lơ lơ láo
láo gặp gì cũng ngó. Tôi lên tiếng trước
- Ông Hương! mấy tháng nay làm ăn
ra sao?
Hương Kính thấy tôi, mừng rỡ, giơ
tay ra, tỏ ý muốn bắt.
- Làm ăn cũng thường. Có điều dang
nắng rát cổ rát mặt quá.
- Còn anh Thành và ông trùm?
Hai người cùng trả lời một lượt, ý
không khác nhau mấy.
- Cũng tàm tạm. Làm được tiền mà
để dành chẳng được bao nhiêu.
- Làm bao nhiêu ăn hết bấy nhiêu.
- Còn anh Năm Nhiều? Tôi hỏi: Có
còn ở làm trong này không? Sao không thấy đi chơi với mấy ông ?
Hương Kính trả lời:
- Anh Năm vẫn còn ở làm trong này,
nhưng không còn ở chung với lũ tôi nữa.
- Vậy chớ anh ấy ở đâu?
Thành móm toe toét miệng cười:
- Ồ! Bây giờ anh Năm Nhiều “ngon”
lắm. Ở nhà vợ mà.
- Vợ nào? Ở đâu?
Tôi vội vàng hỏi, nhưng hương Kính
vẫn một giọng ôn tồn chậm rãi:
- Anh Năm có gặp một chị bán đồ
vặt ở đầu chợ. Hai người quen nhau, rồi bây giờ anh về ở nhà chị ta.
Thật là chi tiết bất ngờ, quá sức
ước đoán của tôi. Năm Nhiều có vợ?
Sao đợi đến chừng này tuổi mới có
vợ mà vợ ra thế nào? Người đàn bà nào mà lại khéo thích ứng với ông
thầy tế tự có thành tích khả kính đó? Nếu do miệng Thành móm nói thì
tôi sẽ hồ nghi, cho là anh ta nói giỡn. Đằng này lại do hương Kính
nói. Tôi phải hỏi lại hương Kính kỹ hơn.
- Người vợ của anh Năm Nhiều ra
thế nào?
- Nghe nói chị ta góa chồng, được
bốn đứa con. Chị buôn bán hàng vặt, nước mắm, dầu, bánh kẹo, thuốc
lá ở đầu đường Bến Cá. Anh Năm hay qua lại mua thuốc hút. Rồi hai
người cảm tình với nhau.
- Họ cưới hỏi rồi sao?
- Cũng chẳng cưới xin gì. Thì…
phàm trai không vợ, gái không chồng gặp nhau. Anh Năm về ở đó cũng
nhàn. Ngày ngày đi làm với lũ tôi, trưa tối về nghỉ…
Thế thì hai năm rõ mười là Năm
Nhiều đã có ý trung nhân rồi. Thành vợ chồng hay không thì đó chỉ là
hình thức đi sau. Như vậy cũng đã là một biến cố quá lớn đối với một
người thánh thiện như anh. Nhân ngày chủ nhật rảnh, tôi muốn đi tìm
để nhìn thấy tận mắt cái hoàn cảnh mới của anh. Tôi nhờ hương Kính
chỉ đường.
Sau mười phút đi quanh qua quẹo
lại, bỏ con đường này bắt con đường khác, tôi đứng trước mặt nhà
anh. Đó là căn nhà gỗ mái tôn, hơi thấp. Trước hiên bày một cái kê
ván nhiều ngăn, sắp lộn xộn những cục xà bông chai nước cam, gói
thuốc. Mỗi thứ một ít, như là mẫu hàng để quảng cáo. Nằm dưới là vò
nước mắm, hũ dầu, là đống than, là những bó củi… Một cái lò than tắt
xếp giấu cạnh đó: chắc là buổi tối quán này bán thêm bắp nướng.
Ngồi giữ quán là một người đàn bà
đẫm thấp, nước da ngăm đen, đôi má bánh đúc. Hàm răng vồ và cái
miệng rộng, khiến tôi liên tưởng đến một cái miệng cá sấu nếu nhìn
người ấy cười. Nhưng lòng quý mến đối với anh Năm Nhiều mà tôi coi
như người thân trong nhà, khiến tôi nhìn người đàn bà với một con
mắt không nghiêm khắc. Hình như tôi đã chấp nhận chị là một người
quen rồi, mặc dù tôi vừa gặp chị lần đầu. Anh Năm Nhiều đã sống với
tôi quá nhiều quá khứ nên cái gì anh mến là tôi sẵn lòng mến theo.
Người đàn bà thấy tôi đứng dừng
trước quán liền đứng dậy đon đả mời:
- Thưa ông cần thuốc lá? Salem hay
Ruby?
Mặc dù không muốn, tôi cũng phải
nhận thấy một vẻ gì láu lỉnh trong giọng nói và lời đón trước ý
khách hàng quá lanh lẹ của chị. Tôi không ưa tính khôn ranh, liến
thoắng ấy nơi người đàn bà. Trong óc tôi đang xây dựng cho anh một
người đàn bà hiền lành, biết thưởng thức những cử chỉ đầy lễ nghi
mực độ của anh. Tôi nói:
- Tôi muốn hỏi anh Năm Nhiều.
- A, dạ có. Dạ để tôi kêu
Chị quay miệng vô nhà:
- Anh Năm ơi! Có khách hỏi anh.
Anh Năm!
Rồi chị quay sang tôi :
- Mời ông vào nhà. Tôi chần chừ
không bước vội, đợi nghe một tiếng đằng hắng, một tiếng guốc, một
tiếng trả lời chứng tỏ sự hiện diện thực của anh. Nhưng sao căn nhà
im lặng quá. Rồi chợt giữa khung cửa anh hiện ra, trọn vẹn là khuôn
mặt và khổ người của anh, lặng lẽ và nhẹ nhàng như một con mèo. Tôi
buột miệng:
- Anh Năm
Anh Năm cười:
- A, chú.
Tôi bước vào, ngồi ở cái bàn nước.
Căn phòng hẹp, bị choán bởi những
món hàng tạp hóa vặt vãnh dự trữ: thùng dầu, tỉn nước mắm, thạp gạo,
bịch thuốc…. Một cái đi văng gỗ, trên đặt một cái gối sẫm màu mồ
hôi, với một chỗ thõm ở giữa, dấu vết của cái đầu anh vừa đặt lên
đó. Kê giữa nhà là một cái bàn thờ khá bề bộn: bộ lư đèn đồng, bát
hương, cỗ bồng chuối, bình hoa huệ trắng. Một tấm hình lồng kính đặt
ở giữa, có phủ tấm vải đỏ. Một cái khám đóng ở trên cao, cũng với bộ
lư đèn nhưng nhỏ hơn. Ở dưới ghế lại có một cái thùng để thờ ông
thần tài. Chữ “tài thần” viết bằng chữ nho trên giấy hồng đơn, dán
lên mặt trong thùng. Một cái đèn hột vịt vặn nhỏ và một cây hương
đang cháy.
Sao quang cảnh nơi đây giống cảnh
nhà anh vậy? Sao anh khéo chọn được cái không khí âm u cố hữu của
anh ở ngay giữa thành phố náo nhiệt này? Một đường khói mảnh từ đầu
cây hương uốn mình nặng nhọc vươn lên. Mùi hương pha lẫn với mùi
thơm của hoa huệ hơi úa tạo cho cái không khí đang bao quanh tôi một
vẻ huyền bí, nhất là căn phòng hơi tối. Tôi hỏi anh:
- Anh về đây được bao lâu?
- Được hơn tháng nay.
Không biết nên hỏi gì nữa - thật
ra thì có nhiều câu hỏi quá nhưng đều không tiện nói ra tôi đành hỏi
đỡ một câu mà tôi đã một trước câu trả lời.
- Anh vẫn còn đi làm?
- Vẫn làm ở chỗ cũ. Bữa nay chủ
nhật, nghỉ.
Vừa lúc ấy có tiếng chị ở ngoài
hiên nói với vào:
- Mình ngó chừng giùm hàng một tí
nghe. Tôi chạy lại bà Ba già một chút.
Anh ừ và tôi mừng rằng không có
mặt chị tôi sẽ được nói chuyện với anh thong thả hơn. Tôi vào đề
liền:
- Chị buôn bán có khá không ?
Anh gật đầu:
- Cũng khá. Má con Liễu (Liễu chắc
là tên đứa con đầu lòng của chị) được cái tính chịu khó. Nó buôn bán
đủ thứ, bỏ món này bắt món khác. Cái quán này chỉ là phụ.
- Nghe nói chị được bốn đứa con.
- Phải, bốn đứa. Con Liễu, con Lý,
thằng Sự, con Lùn. Chồng nó đi lính, bị chết trận bốn năm nay.
- Làm sao quen nhau rồi lại hợp ý
nhau?
- Nó bán quán, mình năng tới lui
mua thuốc, mua thùng quẹt rồi sinh quen. Tính tôi ít oi, mua chỗ nào
quen một chỗ để tránh nói thách nói bớt. Có một bữa ghé lại thấy con
Lý nó nóng li bì rồi đổ nói xàm. Má nó chạy lăng xăng kiếm thuốc
kiếm thầy. Uống mấy ve tiêu ban lộ vẫn như không đã lo cuống lên,
mếu khóc… tôi thấy tội nghiệp, lễ cho nó mấy huyệt rồi sẵn hương đèn
đó, vái ông Táo cho nó. Sáng ra ghé lại thấy nó mát. Má nó cảm cái
ơn…
Aø! Thế là tôi hiểu rồi. Môi giới
bắt đầu là ném hương, là cái bàn thờ, là ông táo. Đúng vào sở trường
của anh. Tôi có thể tự mình chắp nối để hiểu mạch lạc câu chuyện. Kể
cũng không khó lắm. Một người đàn bà đơn chiếc và một người đàn ông
cũng đơn chiếc gặp nhau. Sự giúp đỡ xảy đến quá tự nhiên, vì như
trước kia ta đã biết: khi Năm Nhiều nghiêm trang khấn vái trước bàn
thờ thì vẻ mặt anh có một cái duyên đậm đà mà trung hậu. Khi yêu vẩn
vơ, người đàn bà không từ chối người đàn ông liến láu, nhưng để làm
chồng thì họ chọn người trung hậu. Đức tính ấy, anh Năm Nhiều có dư.
Tôi đó lấy ly nước anh đưa mời,
nhấm nháp vài ngụm rồi hỏi:
- Thế anh không định về quê nữa
sao?
- Có chớ. Đi đi về về chớ sao đâu?
Hăm bốn tháng này tôi phải về nhà đây. Hăm bốn là ngày kỵ bà ngoại
tôi. chú có nhắn gì thì nhắn, tôi về ngoài nói lại.
- Cám ơn anh, tôi vừa gởi thư
xong.
Như vậy là Năm Nhiều đã gặp được
một người đàn bà. Quả tình có chậm chạp thật đó, nhưng anh có dám
đòi hỏi gì hơn. Cái khung cảnh này thích hợp với anh biết bao! Đặt
anh ở vào nơi đây, giữa những bàn thờ trang nghiêm thật đúng cách
hết sức, như khi ta đặt con gà mái lên trên ổ trứng của nó.
Sau khi giã từ anh, trên đường về,
tôi nghĩ đến sự thành công chót cùng này của anh. Như thế cũng đủ
đền bù cho bao nhiêu thất bại anh đã nếm phải trong cuộc đời tình
ái, chỉ vì tấm lòng quá kính mộ tổ tiên và thần linh. Tôi chợt nhớ
đến một đoạn phụ trong câu ghi ở sách tử vi… “Mệnh thân có tử vi cư
Mão Dậu gặp Kiếp Không”, mười người thì chín người đi tu. Bằng vào
thực tại hôm nay thì chắc đó là số của anh rồi, và may mắn thay, anh
lại là người thứ mười nên số đã run rủi cho anh, cuối cùng gặp được
má con Liễu. |
©
http://vietsciences.free.fr Võ
Hồng |