Những bài
cùng tác giả
Đầu tháng Chín năm 1940, trên chuyến tàu suốt ra Hà
Nội, tôi ngồi bên cạnh va-li sách vở quần áo. Trí óc
thật lo lắng không yên. Khi tàu đỗ xuống ga, tôi sẽ
đến ở trọ nơi nào? Tôi không có gia đình quen ở Hà
Nội. Những người thuộc lớp đàn anh ở cùng Tỉnh đã
học ở Hà Nội như anh Trần Chánh Thành, Trần Ngũ
Phương, Nguyễn Tích... thì đã lâu lắm tôi không liên
lạc, không biết rõ họ ở địa chỉ nào. Những bạn cùng
lứa thì chỉ lất vất ở Huế. Ngày đó, sự học không
được phát triển như bây giờ. Trường Collège Qui Nhơn
mỗi năm chỉ nhận vào 45 học sinh đệ nhất niên (tương
đương với lớp đệ Thất bây giờ). Đó là trường Trung
học công lập duy nhất thu nhận học sinh của hơn tám
Tỉnh miền nam Trung phần, từ Quảng Nam đến Bình
Thuận. Cứ đổ đồng một lớp đệ Nhất niên như thế chỉ
thu nhận của mỗi Tỉnh năm, sáu người học sinh xuất
sắc hơn cả. Lên đến năm đệ Tứ, thì trong số 45 học
sinh, chỉ còn lại chừng 30, 35 người là cùng. Sự
tuyển chọn học sinh thật khó khăn, sự học bị hạn chế
khiến cho số học sinh Trung học lúc đó còn ít thua
số sinh viên Đại học ngày nay. Bởi lẽ ngày nay trung
bình hàng năm mỗi Tỉnh có chừng 40, 50 học sinh vào
học các lớp Dự bị Đại học.
Vậy đích thực là tôi không thể có một người bạn học
đồng hành cùng tôi sẽ chung chia những ngày xa lạ ở
thủ đô.
Sau mấy ngày suy nghĩ cân nhắc, tôi quyết định: Nếu
không có dịp may gặp một người nào chỉ đường dẫn lối
thì sẽ xuống ga Hà Nội rồi thuê xe chở đến tòa soạn
báo Ngày Nay ở 80 đường Quan Thánh. Tôi sẽ gặp một
vị nào đó trong Tự lực Văn đoàn, ông Khái Hưng hay
Nhất Linh, hay Hoàng Đạo, Thế Lữ... tôi sẽ trình bày
trường hợp của mình và nhờ giới thiệu cho một nhà
trọ. Điều đó chắc không khó. Những căn gác, những
nhà trọ chắc chắn là không hiếm. Tôi hi vọng là được
giới thiệu đến một gác trọ nên thơ như gác trọ nơi
nhân vật Dũng “rũ áo phong sương.” Tôi tin rằng
những nhà văn lớn mà tôi hâm mộ đó sẽ ân cần hỏi han
tôi, sẽ sung sướng nghe tôi nói lòng hâm mộ của tôi
đối với họ, sẽ hết lòng chọn chỉ cho tôi một nhà trọ
thật tử tế. Văn chương nghệ thuật, tôi nghĩ, là một
niềm cảm thông lớn. Người ta có thể nhờ nó mà quen
nhau, mà thân nhau mặc dù ở xa xôi chưa hề biết mặt
nhau. Có chung một niềm say mê là người ta đã hiểu
nhau, đã tin cậy nhau được rồi, không kể tuổi tác
cách biệt.
Nhưng khi tàu dừng ở ga Thanh Hóa, tôi chợt gặp một
người quen, anh Tùy, một huynh trưởng Hướng đạo. Anh
cho biết là anh có công tác về Hà-nội và dĩ nhiên là
với tinh thần Hướng đạo, anh tự nguyện sẽ lo tìm nhà
trọ cho tôi.
Xuống ga Hà-nội, anh đưa tôi về nhà số 11 ngõ Tràng
An ở gần chợ Hôm. Tôi sống ở đó với những bạn mới:
anh Phạm Cương, anh Nguyễn Thái, anh Ngô Mạnh
Duyên... Tuy vậy, vẫn đinh ninh là khi có dịp rảnh
tôi sẽ đi thăm tòa soạn Ngày Nay liền, như lòng vẫn
hằng mong ước.
Chừng sau đó một tháng, nhân ngày Chủ Nhật, tôi ghé
lại 80 đường Quan Thánh. Đó là một buổi sáng đầu mùa
Thu. Ông Khái Hưng ra tiếp tôi ở tận cổng. Ông mời
tôi lên lầu, vào phòng làm việc của ông. Ông mặc sơ
mi ngắn bằng chỉ đan. Người ông nhỏ nhắn, gầy. Cái
áo đan bó sát người càng làm cho ông gầy thêm. Mặt
ông không đẹp như tôi vẫn hằng tưởng tượng qua các
tác phẩm của ông. Tôi tự giới thiệu là một học sinh
ở từ Miền Nam xa xôi, đã đọc ông và sung sướng nay
được gặp mặt. Ông bắt tôi tả rõ miền quê của tôi,
cảm nghĩ của bạn trẻ chúng tôi khi đọc văn ông. Chốc
chốc giữa những câu nói, mắt tôi chăm chú nhìn vào
cái sọ người ông đặt trên đầu bàn viết. Tôi sợ sự
đến thăm của tôi làm mất thì giờ ông nên cứ chuẩn bị
đứng dậy cáo từ mấy lần. Ông giữ tôi lại vừa nói: - Xin cứ ngồi nói chuyện chơi tự nhiên. Tôi độ rày
chả bận gì hết. Tờ Ngày Nay đã bị Chính phủ bắt đình
bản rồi, còn báo đâu nữa mà lo bài? Có tờ tuần báo
Chủ Nhật đang xin giấy phép.
- Ông có tin rằng sẽ được giấy phép?
- Chắc sẽ được.
Nói chuyện với một nhà văn thật là khó. Tôi cứ nghĩ
rằng những điều mình nói, họ đều đã biết hết rồi,
những lý luận mình đưa ra họ cũng đã đoán được hết.
Vả lại, biết chuyện gì mà nói? Nói lời ái mộ họ thì
mình đã nói trong ba phút đầu tiên gặp gỡ. Phê bình
tác phẩm của họ thì mình không có đủ sự vô lễ để
làm. Nhắc đến những cuộc bút chiến thì vô lễ chẳng
kém bởi mình sẽ đưa ra những lý lẽ của đối phương
họ. Ông Khái Hưng lúc bấy giờ vừa bị ông Từ Ngọc cho
là đã ăn cắp cốt truyện dự thi của ông để viết
truyện dài Thoát Ly. Ông Nhất Linh thì bị nhóm Tân
Dân phê bình nặng nề ở quyển Đoạn Tuyệt. Cô Loan bị
chê là gái mới hỗn láo với đối với mẹ chồng. Con dao
rọc sách vô tình giết anh Thân, giải phóng được cho
cô Loan nhưng không giải phóng được cho những cô gái
mới đồng cảnh ngộ với cô. Bởi vì muốn đoạn tuyệt với
chế độ gia đình cũ, chẳng lẽ cô gái nào cũng phải hi
vọng vẩn vơ ở một trường hợp ngẫu nhiên như trường
hợp con dao rọc sách. Người ta cho nhóm Tự lực Văn
đoàn chỉ ưa đả phá mà không có một đề án xây dựng
cho hợp lý. Ông Nguyễn Công Hoan bên nhóm Tân Dân
(mà Ngày Nay gọi là “Động Tân Dân” bởi vì nơi này
chuyên môn sản xuất các truyện kiếm hiệp kiếm tiên,
quái khách hiệp khách) viết cuốn Cô giáo Minh, đưa
ra một nhân vật cũng mới như cô Loan nhưng khéo dung
hòa mới cũ mà gia đình êm đẹp, lấy đạo đức cảm hóa
được cả một bà mẹ chồng cổ hủ và đanh ác. Đối đầu
quyết liệt với Tự lực Văn đoàn là nhóm Tân Dân. Họ
có cơ quan ngôn luận là tờ Tiểu thuyết thứ bảy, Ích
hữu, Phổ thông bán nguyệt san, Tao đàn. Tôi nói: - Dạo này các báo đang hô hào cải cách lối viết chữ
Quốc ngữ, ông có đọc?
- Có.
- Ý ông nghĩ sao?
- Tôi thấy có nhiều đề nghị không được hợp lý. Chẳng
hạn lấy chữ F thay chữ PH. Đành rằng thay PH bằng F
thì ta sẽ viết mau hơn, tiết kiệm được một ít thì
giờ và một ít mực, nhưng cho chính xác mà nói thì
cách đọc chữ F và chữ PH có khác nhau. Chữ F hơi gió
phát âm mạnh hơn...
Ông phì hơi thật mạnh để đọc chữ filou, famille,
enfant.
- ... Còn chữ PH thì hơi gió nhẹ lắm. Như đọc chữ
philosophie. Tiếng Việt Nam không phát âm mạnh,
tương đương như chữ F.
Giọng nói của ông dịu dàng. Lời nhận định hay phê
bình cũng đều khiêm tốn. Tôi nghĩ rằng ông có thể
lớn tiếng mạt sát vài người kiến thức hẹp hòi mà
thích đưa những nhận xét cao quá tầm của họ.
Trong khi ông mời nước, tôi lưu ý nhìn một cậu bé
chừng bảy, tám tuổi da mặt trắng và đôi mắt rất sáng
lại đứng tựa vào đùi ông. Ông đưa tay vuốt đầu cậu
bé và giới thiệu với tôi: - Đây là con của anh Nhất Linh. Anh Nhất Linh cho
tôi làm con nuôi.
Sau này, bà Dương Đình Tây bạn thân của bà Khái Hưng
thường kể chuyện cho tôi nghe về trường hợp hiếm
muộn của bà Khái Hưng.
Qua khung cửa sổ, tôi nhìn những cây bàng, những cây
sấu mọc hai bên đường, vươn cành chi chít đan dày
trên tầng cao. Lòng tôi rung động êm đềm khi nghĩ
rằng chính những cây bàng này đã gây xúc cảm cho ông
Nhất Linh và đã được ông đem vào “lời nói đầu” của
cuốn Đôi bạn.
Một lần sau đến thăm ông Khái Hưng --tôi nhớ rằng
sau khi tuần báo Chủ Nhật phát hành,-- tôi được gặp
cả ông Nhất Linh. Trời hơi lạnh, nên ông Nhất Linh
thắt ca-vát. Vầng trán cao, đôi mắt sáng. Nét đẹp
quắc thước.
Ông hỏi tôi về miền tôi ở và nói rằng ông đã có dịp
đi ô-tô qua một lần. Trí nhớ của ông tốt, ông nhắc
lại những cái tên: Đèo Cả... Tuy Hòa... Sông Cầu...
Đèo Cù Mông... và tôi giúp ông nhớ rõ hơn vị trí của
những địa danh đó. Ông khen phong cảnh nơi miền tôi
đẹp. Tôi không biết ông có nói xã giao không hay là
ông chịu ảnh hưởng của các tác giả người Pháp. Hầu
hết các tác giả người Pháp nào đã đi trên đường
thiên lý cũng đều khen cảnh trí thiên nhiên của tỉnh
Phú Yên là đẹp. Tôi nhớ một tác giả đã viết cảm
tưởng khi đứng trên đầu núi nhìn xuống thành phố
Sông Cầu: “... từ cảnh trí núi non Auvergne, người
ta rơi xuống cảnh trí quần đảo Nam Thái Bình Dương”
(d’Auvergne, on tombe en Polynésie).
Sau đó, ông Nhất Linh thổi hắc tiêu cho chúng tôi
nghe.
Vừa lúc ấy, có tiếng xe đậu ở trước cổng. Tiếng chân
người đi lên thang lầu. Ông Nhất Linh giới thiệu: - Ông Hoàng Đạo.
Ông Hoàng Đạo mặc sơ mi ngắn và quần tây. Dáng khỏe
mạnh, chững chạc. Khuôn mặt vuông. Ông ít nói chuyện
nhất trong ba người. Dường như chỉ là những lời trao
đổi ngắn ngủi về tình hình báo mới ra, về sự giao
thiệp giữa phái bộ Nhật và Toàn quyền Decoux. Lời
nói của ông thận trọng. Trong khi ông Nhất Linh thổi
hắc tiêu tiếp thì ông lại đứng cạnh cửa sổ nhìn ra
ngoài trời.
Linh hồn chống đối của nhóm Phong Hóa – Ngày Nay đó.
Tư thái của ông phù hợp với cốt cách của những bài
ông viết nhằm đả kích Chính phủ Bảo hộ. Ngòi bút của
ông không chừa một nhà cầm quyền nào: Toàn quyền
Brévié, Thống sứ Châtel, Khâm sứ Graffemil, Đốc lý
Virgitti, vua Bảo Đại, Thượng thư Phạm Quỳnh, Tổng
đốc Hoàng Trọng Phu... Ông đánh thẳng, lời chỉ trích
chân xác. Có chế diễu nhưng không hỗn xược. Dưới
thời thực dân phong kiến, quyền chính trị nằm trong
tay kẻ cầm quyền mà công nhiên chê bai chính quyền
--hầu như trong số báo nào cũng có,-- thì tôi tưởng
dưới thời Cộng hòa dân chủ ta ngày nay không có mấy
nhà văn nhà báo sánh kịp. Không cần nói xa nói gần,
không cần úp mở, không cần mượn giọng ỡm ờ nửa bỡn
nửa thiệt. Ngòi bút Hoàng Đạo là ngòi bút có trách
nhiệm, là ngòi bút vô úy. Ông đứng đó, trầm ngâm
nhìn ra ngoài trời. Tôi nhớ mãi cái dáng điệu đặc
biệt đó.
Sau này vì bận học hành tôi ít có thì giờ để tới
thăm các ông. Tuy nhiên mỗi lần đáp tàu điện đi
Bưởi, khi con tàu chạy qua chợ Đồng Xuân, chạy theo
đường Quan Thánh là tâm hồn tôi thấy mát mẻ êm đềm.
Tôi nhìn trụ cổng, nhìn lên dãy cửa sổ đang mở và
nghĩ rằng nơi đó những khối óc đang suy nghĩ, đang
sáng tạo, đang tỏa ra hào quang... nhưng phải đợi
một tuần sau, một tháng sau, nhờ máy in chạy rầm
rầm, nhờ hỏa xa và đường ô-tô Bưu chính, những tư
tưởng đó mới tới tay người đọc, ở Bắc và ở Nam, ở đô
thị đông đảo xa hoa và ở miền thôn quê “bùn lầy nước
đọng.”
Hơn một phần tư thế kỷ đã trôi qua, kể từ những ngày
đó. Tôi không gặp lại một ai trong ba người, kể cả
ông Nhất Linh đã di cư vào Nam, đã làm báo viết văn
trở lại và đã phải chọn một cái Chết. Cả ba người
đều đã chết, 58 tuổi, 51 tuổi, 41 tuổi. Người Việt
Nam không có phương tiện để chết già. Chết vì ăn
uống thiếu thốn, vì thuốc men thiếu thốn, vì những
tranh chấp liên miên.
Một người bạn tôi có ông anh làm bác sĩ bị bệnh niếu
độc không chữa được. - Chỉ còn đợi ngày chết, -bạn tôi nói
- Anh ấy năm nay được mấy mươi?
- Năm mươi bảy.
Tôi tự bảo: Thôi, thế cũng được. Xung quanh chúng ta
nhiều người ao ước một cái chết ngang tuổi đó. Giọng bạn tôi bùi ngùi: - Hôm tôi vào Sài Gòn ghé lại Grall thăm anh thì
nhằm lúc anh đã liệt lắm. Một bà Xơ người Pháp già
hơn tám mươi tuổi nhưng còn khỏe mạnh, trước là bà
giáo dạy anh ở những lớp Tiểu học và thương anh như
con, cũng ghé lại thăm. Khi tôi đưa tiễn bà ra hành
lang bệnh viện, bà chép miệng:
- Pauvre docteur-enfant! (tạm dịch: Tội nghiệp!
Thằng bác sĩ trẻ con!)
Tôi bàng hoàng bởi lời thương xót. Năm mươi bảy tuổi
chỉ mới là trẻ con, để mà chết. Nghĩ đến ba kiện
tướng của Tự lực Văn đoàn, tôi thấy lời xót thương
kia càng dư sức bén nhọn của sự thật tàn nhẫn. Riêng
đối với tôi, hình ảnh của ba ông để lại nơi tôi luôn
luôn là những hình ảnh mà tôi đã giữ lại từ những
ngày xa xôi đó, một ông Khái Hưng dịu dàng, một ông
Nhất Linh nghệ sĩ thổi hắc tiêu và một ông Hoàng Đạo
trầm ngâm đứng nhìn ra khung cửa.
VÕ HỒNG (tháng IV-1967) |