Vị tướng văn võ song toàn và cuộc chinh phạt tới Hội An
Nguyễn Nghiễm (1707 - 1775) - thân phụ của đại thi hào Nguyễn Du -
là một tác gia Hán Nôm có đóng góp rất đa diện. Về sử học, ông có
tác phẩm Việt sử bị lãm, về địa chí ông có tác phẩm Lạng
Sơn Đoàn thành đồ. Riêng về mặt văn học, ông có tác phẩm văn
xuôi Quân trung liên vịnh (hiện đã thất lạc) và một số bài
văn bia (trong đó có tấm bia gia huấn Tích thiện gia huấn bi ký
hiện đặt tại miếu làng Tiên Điền soạn năm 1765, khi ông đang giữ
chức Binh bộ thị lang).
Nguyễn Nghiễm có sở trường về Nôm. Cố Lê nhạc chương thi văn tập
lục (A.1186 và VHv.2658, Viện Hán Nôm) có chép được 5 bản Nhạc
chương Nôm của các Nho thần triều Lê gồm Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Hoãn,
Lê Quý Đôn, Nguyễn Huy Oánh, Mai Thế Uông. Đây là 5 bản Nhạc chương
được tấu lên cùng với âm nhạc trong lễ tế ở cung miếu họ Trịnh. Phát
hiện về nhạc chương Nôm được dùng trong cung miếu nhà Trịnh mà tác
giả là các bậc đại bút tiêu biểu cho các nho sĩ phong kiến sẽ bổ
sung thêm cho những hiểu biết về văn học các thế kỷ XVII và XVIII.
Việc dùng nhạc chương Nôm trong nghi lễ cung miếu cũng như việc các
trí thức lớn của thời đại sáng tác nhạc chương Nôm theo yêu cầu của
chúa Trịnh đặt trong bối cảnh văn hóa, xã hội và văn học bấy giờ,
cho thấy đây là một thời đại tương đối cởi mở với nhiều xu hướng.
Các bản Nhạc chương Nôm đời Lê cho thấy thời đại này đang xây dựng
cho riêng một lề lối “y - quan - lễ - nhạc” khác Trung Hoa, khẳng
định sự độc lập và riêng khác của văn hóa Việt, trong thế đối thoại
với Trung Hoa. Đáng tiếc là sau đó, triều Nguyễn đã không nối tiếp
được điều này.
Năm Ất Mùi (1775) trên đường chinh phạt, quân của Chúa Trịnh đã
chiếm lĩnh Hội An. Tả tướng quân Nguyễn Nghiễm bấy giờ đã cùng các
tướng lĩnh đề thơ ở Miếu Quan Công (nay gọi là Chùa Ông) tại Hội An.
Nguyễn Nghiễm mở đầu bằng bài xướng, sau đó các Tiến sĩ Uông Sĩ Điển
và Nguyễn Lệnh Tân họa theo nguyên vận. Chùm thơ đề vịnh đó đã được
khắc vào một biển gỗ sơn màu đỏ hiện còn treo ngay tại bái đường của
Miếu Quan Công ở Hội An.
Bài thơ đề vịnh Miếu Quan Công của Nguyễn Nghiễm là một bài thơ
thuộc thể tài đề vịnh. Và cũng là một trong số ít bài thơ chữ Hán
của Nguyễn Nghiễm mà chúng ta còn biết được.
Tâm sự trước thời cuộc
Theo Nguyễn Phước Tương thì “thực sự quân Trịnh đã gây cảnh đổ
nát nặng nề cho cảng thị Hội An và chỉ chừa lại cách kiến trúc tín
ngưỡng như miếu Quan Công, chùa Phật Quan Âm, cung Thiên Hậu, hội
quán Dương Thương, đình Vạn Thọ ...” (tập
san Văn hóa Hội An, tháng 9/1998). Bài thơ của Nguyễn Nghiễm không
những cho thấy một Quan Công Miếu vẫn còn đó sau cơn binh lửa. Và
còn hơn thế, Nguyễn Nghiễm, vị tướng cầm quân đã đến thăm đền và gửi
gắm tâm sự của mình trước thời cuộc, mượn chuyện Quan Vân Trường chỉ
có nhà Hán để nói lòng mình chỉ có nhà Lê, mượn chuyện dưới mắt Vân
Trường không có chuyện “tam phân thiên hạ” để nói chuyện không có
Đàng Trong - Đàng Ngoài, không có Trịnh - Nguyễn mà chỉ có nhà Lê.
Đó là tâm sự mà Hy Tư Nguyễn Nghiễm ký thác, và thể hiện tấm lòng
trung quân của ông. Dưới đây là toàn văn các bài thơ này, mở đầu là
bài của Nguyễn Nghiễm
Sư để Hội An phố đề Quan Phu Tử miếu
Phiên âm:
Niết ngột Viêm đồ khảng khái thân
Đào viên huynh đệ tức quân thần
Trực tương trung nghĩa sư thiên cổ
Vô luận anh hùng địch vạn nhân
Tâm thượng Cao, Quan hoàn nhất thống
Mục trung Ngô, Nguỵ thất tam phân
Chí kiêm vạn quốc đồng chiêm phụng
Phỉ trực nguy nhiên hải thượng thần
Dịch nghĩa:
Đưa quân đến phố Hội An đề miếu Quan phu tử
Cơ đồ nhà Hán chông chênh, (ngài) tỏ tấm thân khảng khái,
Anh em nơi vườn Đào, cũng là vua tôi (của nhau),
Nêu tấm gương trung nghĩa, thầy của muôn đời.
Chẳng kể anh hùng, sức địch vạn người,
Tấm lòng hướng về Cao, Quang, mong giang sơn quy về một mối
Trong mắt nước Ngô nước Ngụy không còn chia làm ba
Cho đến ngày nay, muôn nước cùng chiêm bái kính phụng
Vòi vọi nguy nga như vị thần trên biển.
Vào tiết Đoan Dương, năm Ất Mùi, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 36 (1775).
Tiến sĩ khoa Tân Hợi, Đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu, phụng sai Tả
tướng quân, Nhập thị Tham tụng Hộ Bộ Thượng thư, Tri Đông các kiêm
Trung thư gián sử tổng tài, Đại Tư đồ, trí sĩ khởi phục, Trung tiệp
quân quản chưởng …Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm, Hy Tư viết.
Bài họa của Uông Sĩ Điển:
Phiên âm:
Phụng bình Nam Giới vụ kinh Hội An phố đề Quan Phu tử miếu thi
Vị quốc đan tâm hứa quốc thân
Nghĩa tai! Tư đệ. Tiết tư thần.
Anh thanh phỉ đán Thục tam tháo
Trung liệt đương cầu cổ nhất nhân
Trực bả Viêm đồ vi kỷ trái,
Khẳng giao xích đỉnh hứa thuỳ phân
Giác oa thế sự đô trần tích
Chính khí dương dương vạn cổ thần
Dịch nghĩa:
Vâng lệnh đi dẹp biên giới Phương Nam, qua phố Hội An
đề thơ Miếu Quan Phu tử
Lòng son vì nước, đem thân vì nước
Trung nghĩa thay! Người em ấy. Khí tiết thay! Người bề tôi ấy.
Tiếng anh hùng không chỉ kể trong ba người tiết tháo đất Thục.
Lòng trung liệt chỉ có thể tìm được ở một người xưa ấy thôi!
Sẵn sàng coi cơ đồ nhà Hán là trách nhiệm của bản thân mình
Sao có thể để ơ nghiệp đế vương cho người ta chia cắt.
Chuyện tranh giành nhau ở đời cũng chỉ đều là tàn tích cả
Chính khí lẫm liệt đáng là vị thần của muôn thuở.
Tiến sĩ khoa Bính Tuất, phụng thị nhật giảng, Thiêm sai Tri thị nội
thư tả công phiên, Đông Các Đại học sĩ Uông Sĩ Điển họa nguyên vận
bài của ngài Tả tướng quân Tham tụng (Nguyễn Nghiễm).
Bài hoạ của Nguyễn Lệnh Tân:
Phiên âm:
Cương thường sĩ trọng chí kỳ thân
Sất mã đa đao thế thượng thần
Tam quốc anh hùng vô đối thủ
Nhất trường trung liệt hữu hoàn nhân
Huy lưu Hoa Hạ thùy thiên cổ
Nghĩa tại Xuân Thu bính thập phần
Chính khí dương dương khung nhưỡng tịnh
Trấp niên danh tướng ức niên thần
Dịch nghĩa:
Đạo cương thường xem là trọng trách của kẻ sĩ và tự thân gánh vác
lấy,
Một ngựa giữa đường đao, đáng bề tôi (mẫu mực) ở đời.
Trong ba nước, là anh hùng không có đối thủ.
Trong các người trung liệt, đáng kể, có người ấy!
Vẻ rạng rỡ ngàn năm còn lưu ở đất Hoa Hạ
Nghĩa khí vẹn mười phần trong đời Xuân Thu,
Chí khí lẫm liệt sáng ngang trời đất.
Hai mươi năm là danh tướng, muôn năm sau là đấng thần linh.
Tiến sĩ khoa Quý Mùi, Hàn Lâm viện Thị giảng Phu Thiêm Nguyễn Lệnh
Tân hoạ lại nguyên vận bài thơ của ngài Tả tướng quân Tham tụng
(Nguyễn Nghiễm).
Hoàng triều Cảnh Hưng năm thứ 36 (1775, Ất Mùi) tháng Năm, kính đề.
* Các bài thơ dịch với sự cộng tác của TS. Cao Việt Anh (Viện
Nghiên cứu Hán Nôm)
|