
Hạm đội Baltic trên vùng biển Singapore
Tảng sáng ngày 31-3-1905, từng chiếc khu trục hạm
Nga từ từ ló dạng ở cửa biển vịnh Cam Ranh còn quyện
sương mù. Những chiếc tàu này vượt cửa Bé vào vịnh
trước để tìm nơi thả neo an toàn cho đoàn tàu 45
chiếc của hạm đội Baltic (Novikoff-Priboy, trang
95), tức hạm đội Thái Bình Dương II, dưới quyền chỉ
huy của Đề đốc Rozhestvensky. Chỉ trong vòng hai
tiếng đồng hồ sau, hạm đội Baltic thả neo, "đậu
thành năm hàng song song với những chiến hạm bọc sắt
lớn án ngữ cửa vịnh" (Hough, trang 137). Sau 28 ngày
vượt trùng dương từ đảo Madagascar thuộc Pháp, Cam
Ranh là bến cảng nghỉ chân đầu tiên sau một hải
trình dài 4.500 hải lý của hạm đội này. Cam Ranh
cũng là trạm tiếp tế nhiên liệu và lương thực cuối
cùng trước khi đoàn tàu khổng lồ này lên đường đi
Vladivostock nhằm trợ chiến cho hạm đội Thái Bình
Dương I đang chiến đấu với hải quân Nhật trên vùng
biển Bắc Á đã hơn một năm. Cam Ranh còn là điểm hẹn
với hạm đội Thái Bình Dương III của Đề đốc
Nebogatoff hãy còn theo sau đó.
Cam Ranh một thời từng là bến cảng khá nhộn nhịp
của hải quân Pháp. Vào thời điểm năm 1905, quân cảng
này đã "đượm vẻ hoang vắng điêu tàn". Nhưng dù sao
Cam Ranh vẫn nổi danh là một "hải cảng thiên nhiên
toàn bích, an toàn, rộng rãi, mặt nước phẳng lặng
như tờ". Chiến hạm Nga tuy đã lỗi thời, nhưng những
giàn cự pháo 12 ly và 10 ly trang bị trên tàu là lý
do khiến nhiều người cho rằng hải quân Nga "chỉ có
thể thua trận trong trường hợp khả năng pháo kích
của họ quá tồi". Bởi vậy, sau khi hạm đội Baltic hạ
neo ở Cam Ranh, báo chí ở Singapore, Manila,
Malacca, Sài Gòn, Hồng Kông và những thành phố nhiều
người Hoa sinh sống ở ven biển Thái Bình Dương không
ngớt bàn tán về một trận hải chiến vô tiền khoáng
hậu sắp diễn ra.
Ngày 2-4-1905, đề đốc Pháp de Jonquières, Phó tư
lệnh hải quân Pháp ở Thái Bình Dương, dẫn tuần dương
hạm Descartes ghé thăm xã giao hạm đội Nga. Nhưng
khi de Jonquières trở lại ngày 22-4, tuy vẫn giữ
thái độ hòa nhã, đề đốc Pháp yêu cầu hạm đội Nga
phải nhổ neo trong vòng 24 tiếng đồng hồ.
Trước yêu sách đột ngột của chính quyền Đông
Dương, đúng 1 giờ trưa hôm sau, Rozhestvensky ra
lệnh nhổ neo và cho hạm đội Baltic "dàn thành đội
ngũ ngoài cửa vịnh Cam Ranh". Quang cảnh hoành tráng
của hạm đội Nga lúc bấy giờ được mô tả trên báo The
Times (Anh) như sau : "Các chiến hạm Nga dàn thành
một hình cánh cung dài như vô tận, trải dài từ mũi
Valera sang tận mũi bên này của bán đảo Cam Ranh".
Sau khi de Jonquières trịnh trọng tiễn chân soái hạm
của Rozhestvensky ra đến cửa vịnh, nhằm tránh trách
nhiệm cho Pháp là đã cho phép hạm đội Nga vào tiếp
nhiên liệu và lương thực trong một thời gian khá
lâu, ông đánh điện về sở chỉ huy với lời lẽ khôn
khéo, tựa hồ như chẳng hay biết gì cả về tình hình
chiến sự Nhật-Nga: "Hạm đội Nga đã rời bờ biển An
Nam và đang tiến về hướng Đông. Không rõ sẽ đi đâu"!
Sự thật thì sau khi tuần dương hạm của de Jonquières
vừa đi khuất, Rozhestvensky lại đưa hạm đội của mình
vào ẩn náu, lần này ở vịnh Vân Phong, cách cửa Bé
không xa. Trên thực tế Rozhestvensky chỉ ra khỏi bờ
biển Việt Nam vào ngày 14-5-1905, sau khi hạm đội
Thái Bình Dương III của Đề đốc Nebogatoff bắt kịp và
đã lấy thêm than đá.
Những thương nhân Pháp cung cấp lương thực đủ
loại cho hạm đội, từ trái cây, rau tươi, cho đến bột
mì, đồ hộp hay thịt gà, thịt bò. Những hàng này bán
"với giá cao kinh khủng, chưa nói những mặt hàng xa
xỉ có lời lớn như rượu vang hay rượu mạnh". Bởi vậy,
có thể hiểu tại sao chính phủ Đông Pháp đã chần chừ,
không muốn nhanh chóng chấp hành lệnh trục xuất hạm
đội Nga (Hough, trang 135).
Thương nhân người Việt cũng thường mang thực phẩm
ra bán bằng ghe (Novikoff-Priboy, trang 97). Đặc
biệt vào đêm 16- 4-1905, biết thủy thủ Nga sẽ ăn
mừng lễ Phục sinh, ghe thuyền của các thương nhân
người Việt chở gà vịt, rượu đế ra bán cho tới khuya.
Thủy thủ Nga nhận xét là các mặt hàng do người "An
Nam" chở ra bán giá phải chăng, đặc biệt họ tấm tắc
tán thưởng món rượu đế, khen là "mỹ tửu" giống rượu
Vodka của người Nga.
***
Có ai ngờ trong những ghe ra bán thực phẩm trên
tàu Nga lúc ấy lại có chiếc ghe chở ba người giả
dạng thương nhân để quan sát tận mắt văn minh cơ khí
của phương Tây qua lăng kính là chiến hạm Nga! Đó là
ba chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu Trinh và Trần
Quý Cáp trong chuyến Nam Du năm 1905.
Trong tự truyện của mình, Huỳnh Thúc Kháng ghi
lại việc lên xem tàu Nga như sau : "Lúc đi ngang qua
Nha Trang, được tin chiến hạm Nga đậu tại Cam Ranh,
bèn giả khách buôn, thuê thuyền đánh cá, mua trứng
gà cùng trái cây các thứ, lên thuyền Nga xem rất
khoái. Đấy chẳng qua vì tính thiếu niên hiếu kỳ, chứ
không có ý gì". Trong ba chí sĩ nói trên, chỉ có
Huỳnh Thúc Kháng để lại cứ liệu về cuộc "thám sát"
độc đáo này. Cũng dễ hiểu thôi, vì Trần Quý Cáp thì
mất sớm, ba năm sau (1908), khi phong trào Dân biến
ở miền Trung bột phát, cụ bị sát hại ở Khánh Hòa.
Còn Phan Châu Trinh thì ít khi đề cập đến việc riêng
tư trong các trước tác văn xuôi (hầu hết là chính
luận), hay nếu có nhắc tới chuyện riêng chăng nữa
thì cũng chỉ để làm sáng tỏ những công việc chung có
liên quan tới đồng bào, đất nước.
Cách đây khá lâu, khi đọc những dòng trên đây của
Huỳnh Thúc Kháng, người viết không khỏi lấy làm lạ.
Đã đành Huỳnh Thúc Kháng là người có trí nhớ tuyệt
vời, hầu như chẳng bao giờ lẫn lộn, bởi vậy chúng
tôi tin việc các cụ tự mình "tạo điều kiện" để lên
quan sát chiến hạm Nga 100 năm trước đây. Tuy nhiên,
vì sao một việc kỳ thú và có ý nghĩa như vậy mà từ
trước tới nay ít thấy ai nhắc đến! Thắc mắc ấy cứ
lởn vởn trong đầu. Chuyện mạo hiểm của các cụ khiến
chúng tôi nhớ lại một mẩu chuyện tương tự xảy ra ở
Nhật vào giữa thập niên 1850. Khi chiến thuyền của
Đề đốc Perry (Mỹ) đến Nhật, Yoshida Shôin nhận thấy
cần phải tìm hiểu về phương Tây nên đã táo bạo chèo
thuyền nhỏ ra biển rồi tìm cách đột nhập lên tàu của
Perry để tìm đường du học. Kế hoạch không thành,
Shôin bị bắt và bị giao trả lại cho phía Nhật, rồi
bị giam lỏng một thời gian. Qua những hành động quả
cảm trong cuộc đời vỏn vẹn 29 năm, sau khi mất,
Shôin được người Nhật xem là "người đi tiên phong
của phong trào dẫn đến Minh Trị Duy tân". Một chi
tiết ít được biết tới, nhưng cụ Ngô Đức Kế có thuật
lại rằng khi quan tỉnh lên án đày Huỳnh Thúc Kháng
ra Côn Đảo (1908) "có dẫn việc đi xem thuyền Nga mà
bắt tội".
Nhớ lại chuyện cũ, gần đây chúng tôi tìm đọc các
sách nói về hạm đội Baltic thử xem có cuốn nào ghi
lại thời gian hạm đội cập bến ở Cam Ranh hay chăng.
Chúng tôi tìm được hai cuốn sách tiếng Anh, một cuốn
đặc biệt nghiên cứu về hạm đội Baltic và một cuốn là
hồi ký của một sĩ quan Nga trên hạm đội Baltic còn
sống sót sau trận hải chiến với hải quân Nhật ở eo
biển Đối Mã. Cả hai cuốn thuật lại khá chi tiết
những sự việc xảy ra khi hạm đội vào đậu ở Cam Ranh.
Hai cuốn sách đó là : Richard Hough, The Fleet That
Had to Die (Hạm đội phải bị tiêu diệt-New York : The
Viking Press, 1958) và A. Novikoff-Priboy, Tsushima
(Eo biển Đối Mã) do Eden và Cedar Paul dịch từ tiếng
Nga sang tiếng Anh (New York : Alfred A. Knopt,
1937). Những thông tin về hạm đội Baltic trong thời
gian cập bến ở Cam Ranh trong phần đầu của bài viết
này phần lớn dựa theo hai nguồn tài liệu đó. Căn cứ
vào những thông tin này, chúng tôi mới biết chắc là
có khá nhiều ghe thuyền của thương nhân người Việt
ra bán thực phẩm cho thủy thủ và việc lên tàu cũng
khá dễ dàng - một phần có lẽ do nhu cầu cấp thiết
của thủy thủ người Nga về lương thực, đặc biệt là
các thức ăn tươi. Do đó, có thể suy luận việc giả
dạng làm thương nhân của ba nhà chí sĩ chắc hẳn cũng
không mấy khó khăn, điều cốt yếu là cần phải có óc
quả cảm, táo bạo và liều lĩnh thì mới dám nghĩ tới
kế hoạch đó.
Vậy trong bộ ba Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu Trinh
và Trần Quý Cáp, ai là người khởi xướng việc này?
Chắc hẳn người đó không phải là Huỳnh Thúc Kháng, vì
như nhà nghiên cứu Huỳnh Lý đã nhận xét, Huỳnh Thúc
Kháng "nhanh nhạy chốn trường ốc nhưng chất phác ở
ngoài đời". Phan Châu Trinh và Trần Quý Cáp tính
tình đã hăng say mà còn có tầm nhìn sâu rộng, đặc
biệt Phan Châu Trinh là người "từng trải và nhạy
bén" và chắc hẳn là nhân vật có đầu óc táo bạo nhất
trong ba người. Chỉ cần xem một vài hành động của cụ
Phan thì rõ. Ví dụ, chẳng bao lâu sau chuyến Nam Du,
khi nghe tin Phan Bội Châu đã sang Nhật - và chính
Nhật là nước đã thắng Nga, tiêu diệt hạm đội Baltic
mà Phan Châu Trinh đã quan sát tận mắt - Phan Châu
Trinh đã tìm cách lặn lội sang Quảng Đông để gặp
Phan Bội Châu, rồi từ đó cùng sang Nhật trong khoảng
hai tháng (vào năm 1906) để nhìn tận mắt đất nước
mới canh tân sau Minh Trị Duy tân. Rồi cũng chính
Phan Châu Trinh, sau khi được phóng thích từ lao tù
Côn Đảo, đã tìm đường sang nước Pháp để tìm con
đường giải cứu cho đồng bào. Tư tưởng táo bạo "Không
vào tận hang hùm sao bắt được cọp" được thể hiện
suốt cuộc đời xả thân vì đồng bào, vì nước quên mình
của cụ Phan. Bởi thế, chúng ta sẽ không ngạc nhiên
nếu trên thực tế, chính Phan Châu Trinh là người đầu
tiên ngỏ ý về cuộc "thám sát" văn minh phương Tây
táo bạo ngay ở vịnh Cam Ranh 100 năm trước đây.
Nhìn lại lịch sử nước nhà đầu thế kỷ 20, chúng
tôi không khỏi có cảm tưởng là bánh xe lịch sử dường
như chuyển mạnh từ năm 1905.
Đ ã
đăng trên Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn số 739 ngày
10/2/2005.
|
©
http://vietsciences.org
và
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences2.free.fr
- Vĩnh Sính |