Nguyễn Đăng Cảo

 

Thời Lê Trung Hưng, có Nguyễn Đăng Cảo là một người nổi tiếng trong việc ứng đối. Ông quê ở làng Hoài Bảo, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh; không rơ năm sinh và mất, chỉ biết ông đậu Thám hoa vào khoảng Lê Hi Tông (1676- 1705).

Tục truyền Nguyễn Đăng Cảo tính nết bừa băi, phóng túng, ngông ngạo, không coi ai vào đâu cả; ngoài thịt chó và rượu ngon không c̣n ham thích ǵ nữa.

      Ngày ông vào điện thí, đáng lẽ đỗ đầu, nhưng v́ tính ông như thế, triều đ́nh mới đánh xuống hàng thứ ba (Thám hoa). Ông cũng biết vậy, nên khi con giai ông là Nguyễn Đăng Tuân sinh con đầu ḷng là Nguyễn Đăng Đạo, mỗi lần bế cháu, ông thường nựng rằng:

 "Triều đ́nh ghét tao cứng cổ không cho đỗ Trạng nguyên, nhưng thằng bé này mà không cho đỗ Trạng th́ không được đâu!"

      Thường ngày ở trong triều, ông nói năng không kiêng sợ ǵ cả, do đó đă mấy lần bị biếm truất.

      Khi sứ nhà Thanh sang sách phong, đi đến trạm Xương Giang th́ dừng lại, đưa cho Chúa Trịnh một vuông gấm, viết một chữ càn thật to. Cả triều không ai giải đoán được, Chúa Trịnh phải đặc chỉ triệu ông vào để hỏi. Ông thưa rằng:
- Cái tṛ đánh đố nhỏ nhặt ấy, bơ bèn ǵ mà chúa thượng phải bận ḷng suy nghĩ.
Rồi ông cầm bút quệt đẫm mực viết một nét xổ để trả lời. Chúa hỏi duyên cớ, ông nói:
- Tượng của quẻ "càn" có 3 nét ngang thêm vào một nét xổ th́ thành chữ "vương", có thế thôi!.

      Thời gian ông làm chánh sứ sang cống nhà Thanh, một bữa đi qua một cái chùa rường cột hết sức lộng lẫy, viên sứ Thanh đi cùng theo mời ông đề cho mấy chữ "biển ngạch" (bức hoành phi), ông liền viết ngay hai chữ "trùng nhị". Cả phái bộ nhà Thanh đều phân vân không hiểu ư sứ giả Việt nam muốn nói ǵ. Cuối cùng, Nguyễn Đăng Cảo mới cười mà giải thích rằng:


- Đây là bốn chữ "Phong nguyệt vô biên", viết giản lược

      Phong nguyệt vô biên là chữ sẵn trong sách, có nghĩa là: Gió trăng vô tận không có bến bờ nào. Nhưng đồng thời cũng có nghĩa thứ hai là: Chữ phong chữ nguyệt mà không có nét ngoài biên. Bởi thế, ở đây, Nguyễn Đăng Cảo chỉ cần viết một phần của hai chữ ấy, tức là chỉ cần viết hai chữ trùng nhị là đă nói lên ư niệm cả câu Phong nguyệt vô biên.

      Thật là thông minh và dí dỏm, sứ nhà Thanh và những người đi cùng đều hết sức kính phục tài mẫn tiệp tuyệt vời của Nguyễn Đăng Cảo.

 

 

      Bấy giờ, vua Khang Hi nhà Măn Thanh sai sứ mang chiếu sang nước Nam, buộc mọi người phải gọt đầu gióc tóc như người Măn. Được tin ấy, vua Lê Hi Tông lo lắm, liền tức tốc cử Đăng Cảo lên ải Nam quan tiếp sứ Thanh để t́m cách thoái thác. Lên đến cửa ải, sau khi đă đem lẽ lợi hại ra biện luận với sứ giả, Đăng Cảo bèn làm một bài biểu gửi sứ giả mang về cho vua Thanh. Vua Thanh xem tờ biểu, phục tài hùng biện của Đăng Cảo, bèn hạ chiếu băi bỏ việc ấy đi.

          Ít lâu sau, Đăng Cảo có dịp sang sứ nhà Thanh, vua Thanh thấy Đăng Cảo hay chữ, liền ra một vế đối như sau:

Lăo khuyển lạc mao, do hướng đ́nh phệ nguyệt.

Nghĩa là: Chó già rụng lông, c̣n ngóng ra sân sủa nguyệt (trăng)

 

      Nghe câu đối đầy giọng khinh miệt, Đăng Cảo bực tức liền đối ngay lại một câu rằng:

Tiểu oa đoản cảnh, mạn cư tỉnh để khuy thiên.

Nghĩa là: ch con ngắn cổ, cũng ngồi đáy giếng ḍm trời.

      Câu trả lời thật ngang tàng, có ư mỉa bọn thống trị Măn thanh kiến thức hẹp ḥi, như ếch ngồi đáy giếng, tầm mắt chỉ thấy trời bằng miệng giếng chớ có biết đâu trời rộng bao la.

     Vua Thanh thấy Đăng Cảo đối đáp cứng cỏi, khen là người có dũng khí, và tỏ vẻ rất kính trọng ông. Từ đấy, triều Khang Hi nhà Thanh không sách nhiễu nước Nam ta nữa