|
Quỳnh khi c̣n bé độ bảy tám
tuổi, chơi nghịch đă khác người,
lấy tàu chuối làm cờ, lá sen làm lọng,
Quỳnh lại tinh ranh; trẻ con trong làng mắc
lừa luôn. Một hôm trời tháng tám, sáng trăng,
Quỳnh chơi với lũ trẻ ở sân, bỗng
Quỳnh bảo:
- Chúng bay làm kiệu tao ngồi, rồi tao đưa
đi xem một người đầu to bằng cái
bồ.
Lũ trẻ tưởng thật, tranh nhau làm kiệu
rước Quỳnh đi bảy, tám ṿng quanh sân,
mệt thở không ra hơị Quỳnh thấy
thế bảo:
- Đứng đợi đây, tao đi châm lửa
soi cho mà xem.
Lũ trẻ sợ quá, không dám xem, chỉ những
đứa lớn ở lạị Quỳnh lấy
lửa thắp đèn xong đâu đấy, rồi tḥ
đầu che ngọn đèn, bảo lũ trẻ:
- Ḱa! Trông vào vách kia ḱa! Ông to đầu đă ra
đấy!
Anh nào cũng nh́n nhớn nhơ nhớn nhác, thấy
bóng đầu Quỳnh ở vách to bằng cái bồ
thật. Lũ trẻ biết Quỳnh xỏ, quay ra
bắt Quỳnh làm kiệu đền. Quỳnh
chạy vào trong buồng đóng kín cửa lại, kêu
ầm lên. Ông bố tưởng là trẻ đánh,
cầm roi chạy ra, lũ trẻ chạy tán loạn.
***
Một hôm, nhà có giỗ, làm
thịt lợn mời khách khứa đông lắm.
Thấy Quỳnh hay nghịch, ai cũng cḥng ghẹo chơị
Đương lúc Quỳnh xem làm thịt lợn, có
một ông Tú tên lá Cát thường tự phụ hay
chữ chạy đến béo tai, bảo:
- Tao ra một câu đối, đối được
tao tha cho: - Lợn cấn ăn
cám tốn
Quỳnh đối ngay:
- Chó khôn chớ cắn càn
Ông Tú lại ra một câu nữa, câu này có ư tự
phụ ḿnh là ông Tú:
- Trời sinh ông Tú Cát
Quỳnh lại đối:
- Đất nứt con bọ
hung
Ông Tú phải lỡm, tịt mắt. Mọt người
cười ầm cả lên.
***
Đồn rằng Quỳnh sinh cùng
thời với Thị Điểm. Quan Bảng sinh ra
thị Điểm, dạy học tṛ đông lắm.
Quỳnh ngày ngày giả vờ đến xem b́nh văn,
để ngấp nghé cô Điểm. Học tṛ
biết ư, vào thưa với quan Bản, ngài bắt vào
hỏi. Quỳnh thưa:
- Tôi là học tṛ, thấy trường quan lớn b́nh
văn, tôi đến nghe trộm.
Quan Bảng nói:
- Ta biết hết rồi, anh đừng giả danh
học tṛ mà bắt chước tuồng chim
chuột. Có phải học tṛ th́ ta ra cho một câu
đối, không đối được th́ đánh
đ̣n!
Quỳnh vâng. Quan Bảng ra một câu:
- Thằng quỷ ôm cái
dấu, đứng cửa khôi nguyên
Quỳnh ứng khẩu đối ngay:
- Con mộc dựa cây bàng, ḍm
nhà bảng Nhăn
Quan Bảng thấy Quỳnh xuất khẩu thành chương
có bụng yêu, giữ Quỳnh lại nuôi ăn
học. Quỳnh học tấn tới lắm, kỳ nào
văn cũng được đọc. Từ ngày trường
quan Bảng có Quỳnh, bao nhiêu học tṛ danh sĩ
đều phải nhận Quỳnh tài giỏi hơn
cả. Quan Bảng thấy Quỳnh học giỏi, có
ư muốn gả cô Điểm cho, mà cô Điểm
nghe cũng thuận. Quỳnh biết rằng cô Điểm
vào tay ḿnh rồi, thoả được ước
nguyền, song tính tinh nghịch, cứ đùa cợt
luôn. Cô Điểm đứng đắn, thùy mị
không ứa chớt nhả, Quỳnh lại càng
ghẹo dai.
***
Một cô gái ở thôn
Hoằng Tŕ có con trâu chết đă ba ngày, trâu trương
lên thối um mà bọn chức dịch trong làng
vẫn cứ làm khó dễ, chưa cho chôn. Cô đợi
măi không được, bèn mang đơn lên tŕnh quan
huyện.
Trên đường đi, đến một chỗ
lầy lội, cô gặp một anh chàng ra dáng học
tṛ. Anh kia hỏi thăm biết chuyện, mượn
cô lá đơn xem lỡ tay đánh rơi xuống bùn.
Cô gái bắt đền. Anh học tṛ liền đem
giấy bút ra, thảo ngay tờ đơn khác cho
cộ Đơn rằng:
Ta là gái goá kẻ tŕ
Nếu trâu không chết việc chi lụy đờỉ
Lội đồng váy hếch đơn rơi
Ta phải cậy người mần lại đơn
ni
Quan tri ơi hỡi quan tri!
Xác trâu chết để ba ngày thối hoăng
Xét đơn phải xử công bằng
Không th́ búc... cho thằng mần đơn.
Anh kia viết xong, cô gái thật thà cầm đơn
vào tŕnh quan. Xem xét chữ nghĩa và lời lẽ, viên
tri huyện nghi hoặc, hỏi cô gái ai là người
cô đă nhờ viết đơn. Cô gái kể rơ
mọi chuyện chuyện đă xẩy ra trên
đường. Tri huyện lặng người,
biết ngay kẻ đó là Trạng Quỳnh chứ không
ai khác. Tuy tức v́ bị chửi xỏ, quan cũng
đành chấp thuận cho cô gái kia được
về chôn trâu mà không phải nộp phạt.
***
Quỳnh có người
bạn làm giáo thụ xứ Bắc Ninh. Vợ
sống ở quê thuộc làng Nam Ngạn, tỉnh Thanh
Hoá. Người vợ xa chồng, thỉnh thoảng
ngứa nghề, tằng tịu với mấy tay
chức dịch trong làng. Đă thế, nghe ai nhắc
đến phu quân, lại c̣n giả vờ ghen bóng
ghen gió.
Ông giáo thụ ở xa, quanh năm cặm cụi
dậy dỗ mấy đứa học tṛ nhỏ. Lương
bổng của ông chẳng được bao nhiêu,
bởi thế ông tiêu xài tằn tiện, chẳng dám
ăn uống ǵ. Khổ như thế mà ba, bốn năm
ông mới dám về thăm quê một lần.
Không may năm ấy thiên tai mùa màng thất bát,
kiếm cái ăn đă khó th́ đám học tṛ
lấy đâu ra tiền trả tiền học. Năm
ấy cũng là kỳ hẹn ông giáo về thăm nhà,
ông giáo thụ không đủ lộ phí nên đành
thất hứa với vợ, nằm ĺ ở tỉnh
Bắc. Bà giáo thụ suốt ruột, phần lại
mong tiền, nhờ người nhà đi t́m. Tên người
nhà đi t́m đến nơi, kể ông nghe vài
thứ, ông bảo nó đưa về cho bà hộ lá
thư, chứ c̣n việc về th́ không thành. Trong thư,
ông than vắn, thở dài, hẹn với vợ sang năm
th́ may ra có thể về được.
Tên người nhà mang thư trở về. Trên
đường đi, t́nh cờ lại cùng đường
với Quỳnh. Hai người tṛ chuyện vui vẻ
nhân đấy hắn khoe lá thư nọ với
Quỳnh. Xem thư, Quỳnh biết việc thầy giáo
thụ, ngẫm thấy t́nh cảnh thật vừa
đáng thương, vừa đáng trách. Quỳnh
lựa lúc đánh tráo lá thư, thay vào đó một
bài thơ do ḿnh đặt rạ
Thơ rằng:
Này lời giáo thụ
gởi về quê
Nhắn nhủ bà bay chớ ngứa nghề
Cơi Bắc anh mang thằng củ lẳng
Miền Nam em giữ cái trai he
Hăy c̣n vương vít như hang thỏ
Hay đă ṭ ho quá lỗ trê
Dù có thế nào đành chịu vậy
Hai ba năm nữa đợi anh về .
***
Làng của Quỳnh có hai thôn, trong
những thôn ấy có lắm kẻ giầu có nhưng
biếng nhác, cậy thần cậy thế nên
chẳng ai dám động tới chúng. Bọn này quanh
năm suốt tháng chỉ biết hết đàn đúm
rượu chè rồi lại cờ bạc ăn chơị
Đă thế, chúng lại hiếu danh, thường
nhờ cậy hoặc nịnh nọt người có
quyền thế giúp cho chúng chút phẩm hàm để
trở nên ông nọ bà kia mà vênh váo với đờị
Một hôm, Quỳnh ở kinh đô về thăm nhà,
nghe kể về bọn ấy, liền sai gia nhân
gọi bọn vô công dồi nghề đó đến,
bảo:
- Ta đang có thời cơ giúp được các ông
trở thành ông nọ bà kia đấỵ Nếu
muốn th́ mau mau về thu xếp chập tối
lại đây cùng ta đánh chén rồi sáng mai cùng
chẩy kinh luôn thể.
Cả bọn mừng quưnh, lậy lấy lậy để
rồi ba chân bốn cẳng chạy về nhà. Chúng
cứ tưởng rằng ḿnh như đă là "ông
nọ bà kia" rồ nên vừa bước chân vào
nhà, có kẻ đă la toáng với vợ:
- C̣n đứng đó nh́n cái ǵ hả? Có mau vào thu
xếp đồ đạc cho tôi đi hầu quan trên
không nào!
Mấy mụ vợ biết chuyện, cũng thấy
sướng rơn trong bụng y như thể đă là
các bà lớn rồi vậỵ Vội vàng xếp khăn
áo cho các ông lên đường vào kinh đô mà
chộp lấy cái thời cơ bằng vàng này!
Chỉ một lúc sau, bọn chúng đă tề tựu
tại nhà Quỳnh với đầy đủ khăn
gói, hành trang. Chẳng ai bảo ai, cả bọn giành
phần nhau nấu nướng bầy tiệc. Đến
khi trời vừa tối th́ mâm bàn cũng xong. Ôi thôi,
biết bao là món ngon vật lạ bầy đầy bàn,
mâm nào mâm nấy ú ụ. Sau đó cả bọn
ngồi vào đánh chén, rượu rót tràn lan,
tất cả đều vui mừng phấn chấn v́
sắp trở nên ông nọ bà kiạ Đến
gần khuya th́ cả bọn say khướt, có tên say
mềm nhũn cả người ra, nằm la liệt
như chết rồi, lúc ấy, Quỳnh bèn sai gia nhân
cơng tên nọ về nhà tên kiạ Trời tối om
om, chập chà chập choạng, các bà vợ không
để ư ǵ cả, luôn mồm mắng nhiếc anh
chàng say mà cứ tưởng là chồng ḿnh "sướng
đời chưa!", rồi ôm thốc vào buồng
mà lục đục cả đêm!
Sáng hôm sau th́ thật là toá hoả! Cả bọn
đều té ngửa và ôm đầu kêu trời,
nhất là mấy bà th́ thiếu điều đào
đất mà chui xuống cho đỡ xấu hổ.
Việc đến tai Quỳnh ,Quỳnh cười
bảo:
- Th́ tôi đă giúp cho thành "Ông nọ, bà kia,"
rồi c̣n ǵ nữa .
***
Phía trước nhà Quỳnh là
một cánh đồng sâu rộng vài chục mẫu.
Thuở c̣n sống ở quê, hàng ngày muốn đi
tắt sang làng bên hoặc vào lối xóm, Quỳnh
phải vượt một chặng lầy tới mười
săi nước. Mùa mưa, mẹ con người kéo te
bên hàng xóm có chiếc thuyền thúng nhỏ, thường
chở giúp "ông Cống" qua chỗ lội, không
lấy tiền.
Thấm thoát mười năm trôi qua.
Khi đă ra làm quan ở kinh đô và tiếng
Trạng đă vang danh khắp nơi, một lần
về thăm quê Quỳnh gặp lại bà hàng xóm. Bà
phàn nàn:
- Ông Trạng ơi, tôi hiếm hoi chỉ có một
đứa con trai. Cái thằng năm xưa vẫn
chở thúng đưa ông qua chỗ lội ấy, nay
sắp phải lo vợ cho nó mà một đồng
một chữ không có. Tôi chẳng biết vay mượn
ở đâu, ông có cách ǵ giúp mẹ con tôi với!
Tiếng tăm Trạng lừng lẫy thật, nhưng
làm quan thanh liêm như ông, thời buổi ấy nuôi
miệng cũng đă khó. Thương người
mẹ nghèo hiếm hoi, nhưng biết t́m cách ǵ
để bà ta có tiền cưới vợ cho con bây
giờ? Bỗng Quỳnh hỏi bà hàng xóm:
- Này mẹ con nhà bác lâu nay vẫn c̣n chở thúng
đấy chứ?
- Thưa ông Trạng, không chở th́ lấy ǵ mà
ăn? Có điều khách ít lắm, ngày chỉ
được một, hai chuyến góp vào tiền kéo
te bán tép, may ra mới đủ đong gạo!
Quỳnh ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
- Thôi được, bác cứ về bỏ trầu
xin cưới cho cháu đi. Tôi bấm độn
đoán biết thế nào quăng đầu tháng sau
mẹ con bác cũng kiếm được khoản
tiền kha khá!
Bà hàng xóm buồn bă nghĩ ông Trạng nói cho vui câu
chuyện.
Giữa cánh đồng nước sâu nổi lên
một cồn đất cao. Mấy hôm nay người
ta thấy trên cồn đất hiện lên một cái
cḥi lợp lá gồi h́nh tứ giác, nóc phất
phới ngọn cờ xanh đuôi nheo.
Chẳng rơ nguyên cớ từ đâu, người ta
kháo nhau: "Trạng Quỳnh ở kinh về thăm
quê dựng lều thơ trên g̣ giữa đồng nước
để xướng, họa liền trong ba ngày".
Người nọ truyền người kia, nhưng
kẻ khá giả trong làng, trong xă rủ nhau đi xem.
Những người đến đầu tiên
thất vọng ngay. Họ ghé mắt nh́n vào trong
chẳng thấy lầu thơ đâu cả, chỉ
thấy một đống thù lù như h́nh người
trùm chăn kín mít. Phía vách bên trên dán tờ giấy
điều có hàng chữ:
"Trạng đang lột ... cha đứa nào nói
với đứa nào!".
Tự nhiên tốn tiền đ̣, mất công toi, bao
nhiêu người bực ḿnh ngán ngẩm. Toán người
này về, vừa đặt chân lên cũng ngại câu
chửi, chẳng ai buồn nói với ai, đă
thấy toán khác, rồi toán khác nữa, lũ lượt
kéo tới, ṭ ṃ ra.
Người đi hỏi:
- Ơở ngoài ấy có ǵ hay không?
Người về đáp:
- Trạng lột ... cha đứa nào nói với đứa
nào!
Kỳ lạ thật! Trạng lột ... lại
cấm không ai được nói với ai. Thế th́
chắc phải có cái ǵ bí mật lạ lùng lắm!
Thế là một đồn mười, mười
đồn trăm ... Buổi đầu, đồn xướng
họa thơ, chỉ thu hút đám người hâm
mộ chữ nghĩa. Nhưng buổi sau thêm tiếng
đồn Trạng lột ... thôi th́ bất kể
trẻ già, trai gái ai cũng muốn tận mắt
được xem.
Mẹ con người hàng xóm đông khách quá, mẹ
một thúng, com một thúng, thu tiền đ̣ đếm
mỏi tay không xuể...
Mấy hôm sau, Quỳnh đến bảo với người
mẹ:
- Bây giờ chắc bác thừa tiền cưới dâu
rồi. Hăy bảo con trai bác đi dỡ cái
"lều thơ" mang lá gồi và tre nứa
về, nối thêm bếp mà làm cỗ!
Bấy giờ hai mẹ con và dân làng mới rơ
mẹo của ông Trạng cứu người nghèo.
Để tỏ ḷng kính trọng, người ta
gọi luôn cái cồn kia là cồn Trạng lột.
Hiện nay vẫn c̣n di tích ở giữa cánh đồng
sâu xă Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa.
***
Ở vùng Quỳnh dạy học có
một lăo trọc phú rất dốt nhưng lại thích
nói chữ. Thỉnh thoảng, lăo ḷ ṃ sang nhà
Quỳnh mượn sách, bảo là về đọc,
nhưng Quỳnh biết hắn chỉ đem cất vào
xó. Một lần, thấy hắn lấp ló ngoài
cổng, quỳnh vội vác ngay chiếc chơng tre ra sân,
cởi áo nằm phơi bụng. Lăo trọc phú bước
vào, thấy lạ, liền hỏi:
- Thầy cống làm ǵ thế ?
Quỳnh đáp :
- À, có ǵ đâu ! Hôm nay trời nắng, tôi đem sách
ra phơi cho khỏi mốc !
- Thế sách ở đâu ?
Quỳnh chỉ vào bụng :
- Sách ở trong này này !
Biết ḿnh bị đuổi khéo, tên trọc phú
lủi thủi ra về, trong ḷng tức lắm.
Lần khác, hắn cho người sang mời Quỳnh
đến nhà, để rửa mối nhục cũ,
hắn cũng bắt chước, cởi trần trùng
trục rồi nằm phơi bụng ra giữa
nắng mà đợi khách. Quỳnh vừa bước
vào, hắn cất giọng nhái:
- Hôm nay trời nắng, tôi đem sách ra phơi cho
khỏi mốc.
Bỗng Quỳnh cười toáng lên, lấy tay sờ
vào thân ḿnh hắn, nói:
- Láo toét ! Bụng ông th́ làm quái ǵ có sách mà phơi
chứ !
Lăo trọc phú trố mắt kinh ngạc :
- Sao thầy biết ?
Quỳnh cuối xuống vỗ nhẹ vào cái bụng
đầy mỡ núc ních nói :
- Ông nghe chứ, bụng ông nó đang kêu "bộp,
bộp "đây này ! Cơm, gà, cá, lợn... toàn
những thứ khó tiêu đầy cả ruột
thế này th́ c̣n chỗ đâu mà chứa sách cơ
chứ ! Thôi, ngồi dậy mà mặc áo vào nhà đi
thôi !
Lăo trọc phú cứng họng, không c̣n biết đối
đáp như thế nào, bèn lồm cồm ngồi
dậy, vào nhà một cách miễn cưỡng
***
Quỳnh nghe nói cách nơi
ḿnh dạy học một vài dặm có một tượng
đá rất thiêng, bèn hỏi học tṛ:
- Pho tượng ấy mang tên vị thần nào mà dân
chúng ai cũng sợ như thế?
Anh học tṛ thưa:
- Tŕnh thầy, không thần phật nào cả. Đấy
là pho tượng một người đàn bà ở
truồng, người ta gọi là tượng "Bà
Banh"
- Tượng ấy h́nh thù như thế nàỏ Anh
học tṛ có vẻ xấu hổ, nói:
- Pho tượng ấy trông kỳ cục lắm
thầy ạ! Đầu nghiêng về một phía,
miệng cười tủm tỉm, Cổ quấn
mấy ṿng chuỗi hạt, chân đi giầy bắt
chéo, c̣n hai tay chỉ vào "chỗ ấy" bên
cạnh tượng có đặt một chiếc chày
đá.
Quỳnh bực ḿnh hỏi:
- Sao không đập vỡ quách đi cho rồỉ
Để cái của nợ ấy đứng trêu ngươi
làm ǵ?
- Thưa, "Bà Banh" dữ vía lắm ạ! Ai
đi qua đấy, muốn yên lành th́ phải
lặng lẽ đến cầm chiếc chầy đá,
đâm vào bộ phận kia một cái, mà phải làm
việc đó rất kính cẩn. Những ai không làm
hoặc chọc ghẹo tượng th́ khi về đến
nhà thế nào cũng bị méo miệng, trẹo tay,
vẹo cổ...
Một hôm, Quỳnh đến tận nơi có tượng
Bà Banh để xem thực hự Quỳnh đến
bên tượng, lấy chầy đá quẳng đi,
đoạn cầm bút đề tám câu thơ lên
bụng tượng:
Khéo đứng ru mà đứng
măi đây
Khen ai đẽo đá tạc nên mày
Trên cổ đếm đeo dăm chuỗi hạt
Dưới chân đứng chéo một đôi giầy
Cởi váy phất cờ trêu ghẹo tiểu
Để đồ bốc gạo thử thanh thầy
Có thiêng sao chẳng ngồi toà ngọc?
Khéo đứng ru mà đứng măi đấy!
Bài thơ Quỳnh viết xong chưa ráo mực,
mồ hôi tượng đá đă vă ra như
tắm. Từ đấy, không c̣n ai nghe nói rằng
"Ba Banh" thiêng nữa .
***
Gặp
khoa thi, Quỳnh ra ứng thị Đường đi
qua đền Sông, Quỳnh vào yết Chúa, xin Chúa phù
hộ cho, đỗ th́ xin trả lễ. Quỳnh ra
thi, quả nhiên đỗ thật. Vinh qui về,
Quỳnh mua một con ḅ mẹ, một con ḅ con, đem
đến lễ, Quỳnh quỳ xuống lạy,
rồi dắt con ḅ mẹ đến buộc vào tay
ngai mà khấn rằng:
- Chúa
có ḷng thương phù hộ cho Quỳnh được
đỗ, nay gọi là có một con ḅ để
trả lễ. Xin Chúa nhận chọ Chúa là chị,
xin lễ con lớn, c̣n con nhỏ, em xin đem về
khao dân.
Nói rồi, dắt con ḅ vè. Con ḅ mẹ thấy
dắt mất con đi, lồng lên chạy theo, làm
ngai Chúa đổ lổng chổng, long gẫy cả.
Quỳnh cười nói:
-
Chị thương em nghèo, trả không lấy, th́ em
xin đem về vậỵ
Nói rồi dắt cả hai mẹ con ḅ về.
***
Lại
một lần Qùynh vào yết đền, thấy chúa
có nhiều tiền, trông sướng mắt, định
vaỵ Quỳnh khấn:
- Em
độ này túng lắm, chị có tiền để
không, xin cho em vay để em buôn bán, kiếm ít
lờị
Nói rồi, khấn đài âm dương: "Sấp
th́ chia tư, chị cho em vay một phần, ngửa
th́ chia ba, chị cho một phần, chị mà
thuận cho một nửa th́ xin nhất âm nhất dương."
Thấy đằng nào Quỳnh cũng vay được,
mà ư Chúa th́ không muốn cho vay, v́ biết được
là cho vay, Quỳnh sẽ không trả, liền cứ làm
cho hai đồng tiền quay tít, chẳng sấp mà cũng
chẳng ngửạ Quỳnh thất thế vỗ tay
reo:
- Tiền
múa Chúa cười, thế là chị bằng ḷng cho
em vay cả rồi!
Nói xong, vác hết cả tiền về .
|