Vua Trần Nhân Tông

Vua Trần Nhân Tông tên thực là Trần Khâm, quê ở làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, Nam định; sinh năm 1258, mất năm 1308, làm Vua được 14 năm rồi đi tu ở núi Yên Tử, khai sáng ra phái Trúc Lâm trong Phật giáo Việt nam. Nhà vua sáng tác khá nhiều thơ văn.

     Sau khi đại thắng trận Bạch Ðằng năm 1288 và kết thúc vẻ vang công cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Nguyên, Trần Hưng Ðạo rước Vua Nhân Tông cùng Thượng hoàng Thánh Tông về Thăng Long. Vua mở tiệc khao thưởng tướng sĩ, và truyền cho dân chúng mở hội vui chơi ba ngày ba đêm, gọi là "thái bình diên yến".

     Tương truyền rằng trong mấy hôm đó, người ta thấy ở chân các con ngựa đá tạc ra để chầu hầu trước các miếu, điện đều có dính bùn. Người ta cho rằng chính các ngựa đá và muôn vật vô tri của đất nước đều có tham gia đánh giặc. Việc đến tai Vua Trần Nhân Tông. Nhân lúc vui mừng, Vua liền ứng khẩu ngâm hai câu thơ rằng:

Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu

Dịch:

Xã tắc hai phen bon ngựa đá
Non sông nghìn thuở vững âu vàng.