|
Vua Lư Thánh Tông (1054- 1072), tên thực là
Nhật Tôn, đă 40 tuổi mà không có con, nên hết
sức lo lắng cho việc kế vị sau này.
Ỷ Lan - có thuyết cho rằng
tên thật của bà là Lê Thị Yến Loan - là
một cô gái hái dâu, chăn tằm ở ngoại thành
Thăng Long thời Lư. Ỷ Lan ra đời ở làng
Thổ Lỗi (làng Sủi sau đổi là Siêu
Loại, nay là xă Dương Xá, huyện Gia Lâm - Hà
Nội) - năm nào không rơ, sử sách chỉ ghi
lờ mờ: bà mất ở kinh thành Thăng Long vào
năm 1117 - trên dưới 70 tuổi - thời Lư Nhân
Tông. Sách Mộng khê bút đàm của Thẩm
Hoạt có chép "Nhật Tôn (tức Lư Thánh Tông)
mất, Càn Đức (Lư Nhân Tông) lên, dùng quan là Lư
Thượng Cát (Lư Thường Kiệt) và mẹ là
thái phi Lê Thị Yến Loan cùng coi việc nước".
Câu chuyện Yến Loan vào cung vua Lư, đó là một
giai thoại người người đều nghe,
đều biết.
Thuở ấy vào năm Quư Măo (1063) Lư Thánh Tông đă
đến bốn mươi tuổi. Vua chưa có con
trai để truyền ngôi báu, đêm ngày triều
thần lo ngại. Vua bèn thân hành đi cầu tự
khắp các chùa chiền, miếu mạo nhưng không
hiệu nghiệm, Lư Thánh Tông lo lắng cho triều
đ́nh nhà Lư và xă tắc Đại Việt. Một
sớm mùa xuân, vua về viếng thăm chùa Dâu
(tổng Dương quang phủ Thuận Thành) dân làng
mở hội nghênh giá. Thánh Tông hoàng đế cùng ḥa
vào dân chúng trong hội làng đông vui. Trai gái, già
trẻ các làng đều ra rước vua. Đoàn xa
giá của vua đi đến đâu, các làng lân
cận nô nức, đổ xô về phía ấy. Duy
chỉ cô thôn nữ xinh đẹp của làng Sủi
vẫn điềm nhiên hái dâu, xem việc ngự giá
của vua không có quan hệ ǵ đến ḿnh. Cô gái
vẫn miệt mài bên băi dâu, mặc cho đoàn
ngự diễu qua. Lư Thánh Tông lấy làm lạ, bèn
cho đ̣i người con gái có vẻ "kiêu căng"
đang đứng bên nương dâu kề gốc lan
ấy đến trước kiệu rồng để
hỏi. Vua ngồi trên kiệu trông thấy
lấy làm lạ, truyền gọi lại hỏi, người
con gái ứng đối trôi chảy mạch lạc,
không có vẻ ǵ là luống cuống sợ hăi
Qua câu chuyện, Vua Lư hết
sức chú ư đến giọng nói thanh thoát như
tiếng chuông của cô ta, và khi Vua tỏ lời khen,
th́ nàng mỉm cười mà hát một câu hát như
sau:
Người
thanh th́ tiếng cũng thanh
Chuông kêu đánh ở góc đ́nh cũng kêu.
Vua thấy cô gái ăn mặc quê
mùa, nhưng cử chỉ đoan trang dịu dàng,
lời lời phong nhă, đối đáp phân minh,
lễ nghĩa khác hẳn những người con gái
mà vua đă từng gặp. Vua yêu v́ sắc, trọng
v́ nết, nên cho cô gái theo long giá về kinh đô. Cô
gái làng quê được đón về cung vua ấy
là Yến Cô Nương xinh đẹp, nết na
của làng Siêu-Loại (Sủi). Nhưng Lư Thánh Tông
là ông vua chăm việc nước, luôn luôn thân chinh
dẹp giặc. Vua ít nhàn rỗi để ngự
tới cung Ỷ Lan. Đương lúc cung Ỷ Lan
vắng tiếng đàn, tiếng sáo, th́ bỗng
một hôm sau khi Thánh Tông đi trảy hội chùa
Thổ Lỗi, cung Ỷ Lan lại nhộn nhịp hơn
xưa. Yến Cô Nương nhờ "thông minh
vốn sẵn tư trời" được
học tập, trau dồi đă trở thành một
cung phi "nổi danh tài sắc một thời"
kinh sử làu thông, văn chương uyên bác. Lư Thánh
Tông đem ḷng yêu mến, phong làm Ỷ Lan phu nhân,
lấy tên cung Ỷ Lan và cũng có ư kỷ niệm cô
gái đứng tựa bên gốc lan, khi tuân lệnh
đến bệ kiến buổi đầu ở làng
Sủi (Siêu Loại).
Sau đó (1066), Ỷ Lan sinh hạ được
một hoàng tử lấy tên là Kiền Đức (Càn
Đức). Càn Đức trán cao, tay dài quá gối, thông
minh, tuấn tú, vua càng yêu dấu hơn, Yến Loan
được tôn là Ỷ Lan nguyên phi - đứng
đầu các cung phi, sau thái hậu; con trai được
lập làm thái tử.
Năm Kỷ Dậu (1069), Lư Thánh Tông thân chinh đi
đánh giặc ngoại xâm. Trong khi vua cùng Lư Thường
Kiệt ở ngoài biên cương, Ỷ Lan nguyên phi
đảm đang, chăm lo quốc sự, trị nước
điều khiển có kỷ cương khiến
thần dân thán phục, cơi nước được
yên vui. Lư Thánh Tông từ ngoài biên ải đánh
trận lâu ngày không thắng, chán nản rút quân quay
về. Về chưa đến nơi, nghe dân chúng Châu
Cư Liên (Tiên Lữ, Hải Hưng) ca ngợi nguyên
phi Ỷ Lan ở nhà trị nước rất
giỏi, ḷng dân cảm hóa, được suy tôn là bà
Quan Âm, vua Thánh Tông tự trách ḿnh: "Nguyên phi là
đàn bà c̣n làm được như thế, ta là
đàn ông há thua sao! Vua lại tiếp tục trở
ra đánh giặc, lần này thắng trận. Năm
đó, mùa hạ vua đem quân về ca khúc khải hoàn,
đại xá cho thiên hạ, giảm thuế khóa, phát
tiền lụa, thóc cho dân nghèo. Ỷ Lan rất nhân
từ dạy con ngoan, đào tạo con trở thành
một nhà vua anh minh sau này; lại lo cho dân giàu nước
mạnh, yêu thương nhân dân được
mọi người kính phục.
Năm Nhâm Tư (1072) tháng giêng mùa xuân, Lư Thánh Tông
mất ở điện Hội Tiên. Hoàng thái tử
Kiền Đức lên ngôi vua, tức vua Lư Nhân Tông.
Khi ấy vua mới lên bảy, tôn mẹ là ỶLan
nguyên phi lên làm Linh Nhân hoàng thái hậu. Ỷ Lan
vừa giúp coi triều chính, vừa làm nhiệm
vụ bà mẹ dạy dỗ con. Trong khi vua c̣n thơ
ấu, Ỷ Lan điều khiển cả quốc gia,
cùng tể tướng Lư Thường Kiệt chủ
trương đánh quân Tống xâm lược. Hai
lần quân Tống đến (1075, 1077) vua Lư Nhân Tông
chưa quá 10 tuổi, Ỷ Lan đă cùng Thái sư Lư
Đạo Thành lo việc binh lương chuyển ra
tiền tuyến. Trong lúc Tổ quốc lâm nguy Ỷ
Lan đă cùng Lư Thường Kiệt giữ vững
giang sơn, xă tắc; công ấy đời sau c̣n
nhắc măi.
Ỷ Lan xuất thân là một thôn nữ, nên hiểu
thấu những khổ đau của người
phụ nữ nông dân v́ nghèo khổ phải đem thân
gán nợ cho nhà giàu, bà cho xuất của trong kho
chuộc về, và xây dựng chồng con hạnh phúc
cho họ. Về việc này Ngô Sĩ Liên đă có
lời bàn: "Con gái nghèo đến nỗi phải
đợ ḿnh làm mướn, con trai nghèo đến
nỗi không vợ đó là cùng dân của thiên
hạ. Thái hậu (tức Ỷ Lan) đổi
mệnh cho họ cũng là việc nhân chính
vậy!". Ỷ Lan không những sửa sang việc
quốc chính, tăng cường quân đội,
bố pḥng, chăm lo việc mở mang dân trí,
việc thi cử học hành và c̣n ban hành nhiều
điều ích quốc lợi dân. Ỷ Lan c̣n khuyên
vua làm điều thiện, trị điều ác. Bà
hiểu những gian nan của nông dân khi việc nông
trang cày bừa không có trâu cày.Ỷ Lan bảo vua
phạt tội nặng những kẻ trộm trâu và
giết trâu bừa băi; có lần bà đă nói với
vua: "Gần đây người kinh thành và làng
ấp đă có kẻ trốn đi chuyên nghề
trộm trâu. Nông dân cùng quẫn. Mấy nhà phải cày
chung một trâu. Trước đây, ta đă từng
mách việc ấy, và nhà nước đă ra lệnh
cấm. Nhưng nay việc giết trâu lại có
nhiều hơn trước". Nhân Tông bèn ra
lệnh phạt rất nặng những người
trộm và giết trâu, phạt cả vợ con và hàng
xóm v́ tội không tố giác.
Sống trong lầu son, gác tía mà lúc nào Ỷ Lan cũng
không quên đến người nghèo, Ỷ Lan vẫn
chăm sóc đến đời sống cùng cực
của nông dân lao động. Cũng như Lư Thánh Tông,
Ỷ Lan thường phát chẩn thóc lúa cho kẻ nghèo.
Bà sùng đạo Phật, ưa làm việc từ
thiện lập nhiều đ́nh chùa.
Bà thường lui tới các đ́nh chùa, trao đổi
với các tăng ni thuyết giáo đạo Phật.
Năm 1096, bà bày cỗ chay ở chùa Khai Quốc
(tức sau là chùa Trấn Quốc ở Thăng Long)
thết các sư. Tiệc xong, bà ngồi kê cứu
đạo Phật với các vị sư già học
rộng. Bà hỏi về nguồn gốc đạo
Phật ở các nước và ở ta. Bà có óc phán
đoán đ̣i hỏi các sư "nói có sách mách có
chứng". Chính nhờ câu chuyện giữa bà và các
vị sư thời Lư (sách Thiên uyển tập anh
ngữ lục đời Trần c̣n ghi lại tường
tận chuyện này), mà đến nay ta c̣n biết
gốc tích sự truyền bá đạo Phật vào nước
ta. Có lần bà đến chùa Phổ Minh (Từ Liêm)
tranh luận với sư Thông Biến về những
điều của Phật giáo. Bà cũng có làm
những bài kinh, có câu kệ c̣n truyền lại
đến ngày nay:
Sắc là không, không tức
sắc
Không là sắc, sắc tức không
Sắc? Không? thôi mặc cả,
Mới thấu được chân tông
(*)
Là một nữ nông dân nghèo, được hưởng
phú quư vinh hoa, bà vẫn cho là điều "sắc
sắc, không không", đó là phù vân... Bà là
một người phụ nữ vương giả,
ngọc ngà vàng son không làm vẩn đục tâm
hồn bà, cũng là một phụ nữ hiếm có
trong lịch sử ngh́n năm trước.
Ngày 25 tháng 7 năm Đinh Dậu, Hội tường
đại khánh năm thứ 8 (1117) đời Lư Nhân
Tông, bà mất, được hỏa táng, dâng
thụy là Phù Thánh Linh Nhân Hoàng thái hậu, mai táng
ở Thọ Lăng phủ Thiên Đức. Hiện
nay c̣n miếu thờ bà ở hai xă Cẩm Đới
và Cẩm Cầu huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
|