Ai là chủ khảo trường Hà Nam khoa Đinh Dậu
(1897): Đồng Sĩ Vịnh hay Cao Xuân Dục?
Trước
khi vào chính đề, tôi xin nói qua về Trường
Hà Nam, Khoa Đinh Dậu và Cao Xuân Dục.
I - Trường Hà Nam khác Trường Nam Định ở
điểm nào ?
Triều
Nguyễn có tất cả 8 trường, sau rút lại còn 5
là : Gia Định, Thừa Thiên, Thanh Hoá, Nghệ
An và Hà Nam.
Trường
Hà Nam là hai trường Hà Nội và Nam Định hợp
thí ở Nam Định sau khi trường Hà bị lính
Pháp chiếm, phải đóng cửa từ năm 1882. Khoa
cuối của trường là khoa Kỷ Mão (1879).
Năm
1884, sĩ tử hai trường này phải vài Thanh
Hoá hợp thí, nên gọi là "Khoá Thanh ". Lý
do chính thức : trường Hà bị đóng cửa,
trường Nam bị đốt từ năm 1883. Lý do khác :
sĩ tử Bắc hà nổi loạn chống Hoà ước Giáp
thân (Patenôtre 1884).
1884, sĩ tử hai trường
này phải vào Thanh Hoá
Đến
1886, vua Đồng Khánh mới cho hai trường hợp
thí ở Nam Định, lấy tên chung là "trường Hà
Nam". Từ đó, nhân vì loạn lạc, thành lệ hợp
thí ở Nam cho đến khoa cuối là khoa Ất Mão
(1915). Dựa vào đây, ta có thể đưa ra hai
nhận xét :
1) Tú
Xương không thể viết hai câu thơ sau đây
trước năm 1886 :
"
Được gần trường ốc vùng Nam Định,
Thua mãi anh em đám Bắc kỳ ".
2) Nguyễn
Tuân trong truyện "Báo oán" (Vang
bóng một thời đặt khoa cuối của trường Hà
Nam vào năm Mậu Ngọ (1918), thực ra đấy là
khoa cuối của miền Trung (và đây là một
trong những " kỳ thị " của triều Nguyễn đối
với sĩ tử Bắc hà).
Như
vậy " trường Hà Nam " dùng để trỏ vào đám sĩ
tử thuộc vùng Hà Nội và vùng Nam Định (1),
còn " trường Nam Định " trỏ vào cái trường
xây bằng gạch ngói ở ngoại thành Nam.
Theo
Trần Văn Giáp, và một số người khác, thì
trường Nam xây ở làng Năng Tĩnh. Chính ông
Giáp đã đến thăm tận nơi khi trường " chỉ
còn chơ vơ cái nhà Thập đạo (2) ", nhưng Tú
Xương, trong bài " Phú Hỏng thi " viết khác
:
" Năm vua
Thành Thái mười hai,
Lại mở
khoa thi Mỹ Trọng ".
Vậy
thì trường thi nằm ở đâu, Năng Tĩnh hay Mỹ
Trọng ? Nếu vào thời Lê hay Nguyễn sơ,
trường thi còn bằng nhà tranh, vách nứa, sau
mỗi kỳ thi phá đi để lấy chỗ trồng trọt, cầy
cấy thì chuyện di chuyển trường không khó,
còn nếu trường bằng gạch thì không thể mỗi
chốc phá đi xây lại được. Sử chép rằng từ
1845, trường Nam theo chỉ thị của vua Thiệu
Trị, được xây cất bằng gạch ngói theo mẫu
mực trường Ninh Bắc (Thừa Thiên) chỉ trừ
chỗ cho sĩ tử ngồi thi vẫn để đất trống, học
trò đi thi vẫn phải mang lều chõng như xưa.
Trường đã bằng gạch, không di chuyển được,
nên tôi tạm đặt nằm giữa hai làng Năng Tĩnh
và Mỹ Trọng, ở chân thành Nam, vì theo Ngô
Vi Liễn cả hai làng này cùng thuộc tổng Mỹ
Trọng và ở cạnh nhau.
II - Khoa Đinh Dậu có gì đặc biệt ?
1) Trước
hết chúng ta có loạt ảnh của Salles chụp
cảnh trường Hà Nam. Đây là những sử liệu rất
hiếm và quý báu.
2) Nhà
thơ Trần Tế Xương (hay Kế Xương) khoa này
nghiễm nhiên đội danh " ông Tú " đi thi, dù
chỉ là " Tú rốt bảng trong năm Giáp Ngọ
(1894) ".
Ai cũng
biết Tú Xương " lảo đảo trường ốc " rất
nhiều (tám khoa mà chỉ được " một tí Tú tài
quèn " và ngâm vịnh về thi cử cũng không ít,
riêng khoa này ông để lại cho chúng ta ít
nhất hai bài, một vịnh " Chủ khảo Cao Xuân
Dục " và một vịnh cảnh đi thi :
" Nhà
nước ba năm mở một khoa,
Trường
Nam thi lẫn với trường Hà.
Lôi
thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ
quan trường (3) miệng thét loa.
Lọng cắm
rợp trời, quan Sứ đến,
Váy lê
quét đất, mụ đầm ra.
Nhân
tài đất Bắc nào ai đó
?
Ngoảnh
cổ mà trông lại nước nhà !
3)
Toàn quyền Paul Doumer vừa ở Pháp sang nhậm
chức, lần đầu chứng kiến cảnh thi của ta (và
cũng là
lần đầu trường Nam có một " quan Tây
to " đến dự lễ Xướng danh và phát quà thưởng
(1 đồng hồ vàng hay bạc v.v...). Sau này
trong hồi ký L'Indo-Chine
française (Souvenirs) Doumer dành mấy tờ
nhắc lại quang cảnh trường thi, nhưng vì
không hiểu rõ nên viết nhiều điều sai lầm,
chẳng hạn : sĩ tử vào trường được mang theo
người hầu, trong khi thầy ngồi làm văn thì
tớ nằm khểnh một góc đợi giờ sửa soạn cơm
nước v.v...có lẽ Doumer đã lầm quan trường
với Thí sinh ? Doumer còn ở lại đến 1901 mới
về nước, và được chứng kiến thêm khoa 1900
nữa ở Nam Định.
4)
Không khí trường Hà Nam và thành Nam
Định lúc ấy rất sôi nổi vì hai vấn đề :
- Chữ
Hán sắp bị bỏ hẳn, chữ Quốc ngữ bắt đầu
được dự tính thay thế và sĩ tử còn phải làm
toán bằng con số Ả rập nữa. Lúc ấy tinh thần
ái quốc đang cao, học chữ Quốc ngữ thường bị
ngộ nhận là " vọng ngoại " và "vô sỉ" nên
nhiều người không chịu học, bỏ thi. (Trần
Quý Cáp thuộc số người hiếm, nhìn nhận ưu
điểm của Quốc ngữ, gọi là " hồn trong nước
").
-Nhưng
sôi nổi hơn nữa là phong trào chống Pháp
đang hăng của " Kỳ Đồng (1875-1929) tên thực
là Nguyễn Văn Cẩm, trẻ tuổi và thông minh
nên được mệnh danh là " Kỳ Đồng ". Vì chống
Pháp, năm 1887 đã bị " gửi " sang học 9 năm
Alger (Bắc Phi). Năm 1896 về nước, tiếp tục
hoạt động và liên kết với Đề Thám nên đến
1901 lại bị đầy sang Tahiti (theo Nguyễn
Tuân, sau thành bạn của hoạ sĩ Gauguin).
Vì có
vụ " Kỳ Đồng " nên Pháp phòng biến động
chuẩn bị rất ngặt : từ một tuần trước đã cho
hai pháo thuyền Avalanche và Le Jacquin chĩa
mũi vào trường thi dọa nạt. Doumer nói cứng
rằng ông ta tin chắc chắn không ai dám làm
gì, bọn nổi loạn chẳng qua là hạng thi hỏng
bất đắc chí, tuy vậy vẫn nên thị uy để cảnh
cáo những phần tử còn nuôi ý báo động.
5)
Khoa này tại trường Nghệ An, nhà cách mạng
Phan Bội Châu, vì một lý do không được nêu
ra, đã can án " Hoài hiệp văn tự nhập
trường, chung thân bất đắc ứng thí " tức là
" mang sách có chữ viết vào trường, bị phạt
cấm suốt đời không được đi thi ".
III - Cao Xuân Dục
Tuy
làm quan đến nhất phẩm và là một trong "Trứ
Trụ Triều Đình ", song có lẽ Cao Xuân Dục
được ít người biết.
Cao
Xuân Dục (1842 ? 1923), hiệu là Tử Phát,
người xã Thịnh Khanh, huyện Đông Thành, tỉnh
Nghệ An, đỗ Cử nhân năm 1877, làm quan đến
Học bộ Thượng Thư, hàm Đông Các Đại Học Sĩ
(hàm = có trách nhiệm mà không ăn lương),
tước An Xuân Nam.
Cao
Xuân Dục có hai người con đỗ Cử nhân và một
người đỗ Phó bảng (Cao Xuân Tiếu, được cử
làm Giám khảo trường Hà Nam cùng một khoa
với cha) và là nhạc gia Hoàng Tăng Bí.
Rất
trọng việc học, ông đã xuất tiền thuê người
chép lại những sách quí hiếm chia cho các
con giữ mỗi người một bản lưu lại về sau.
Chính ông cũng là tác giả hai bộ sách có giá
trị : Quốc triều Hương khoa lục
(chép tất cả các khoa thi Hương của tất
cả các trường dưới triều Nguyễn) và Quốc
triều Đăng khoa lục (chép các khoa thi
Tiến sĩ triều Nguyễn).
Mặc
dầu chỉ đỗ Hương thí, ông được cử đi chấm
thi Hội mấy lần,và hay nâng đỡ học trò.
Chính ông đã xin cho các Phó Bảng (4) được
hưởng những quyền lợi như các ông Nghè. Khi
ông làm Chủ khảo trường Hà Nam, Tú Xươngđã
vịnh ông như sau :
" Này này
Hương thí đỗ khoa nào ?
Nhân
hậu thay lòng quan Thượng Cao !
Người
ta thi chữ, ông thi phúc,
Dù dở,
dù hay cũng được vào ! "
IV - Ai là chủ khảo Trường Hà Nam khoa Đinh
Dậu ?
Theo ảnh của Salles thì Chủ khảo trường Hà
Nam khoa Đinh Dậu là Cao Xuân Dục. Salles là
một nhà nhiếp ảnh làm việc tỉ mỉ và có qui
củ, ban ngày chụp, ban đêm rửa ngay, sợ để
lâu khí hậu nóng bên ta sẽ làm hỏng kính ảnh
(lúc ấy chưa có phim). Hơn thế, Salles chua
rất rành mạch không những " năm " mà cả "
ngày, tháng " cùng tên họ, chức tước người
trong ảnh, với đủ cả các dấu sắc, huyền,
hỏi v.v...Trong loạt ảnh ấy có một chiếc chú
thích là " Thân Trọng Koái, Giám sát " (5)
(có lẽ ngày nay ta viết là " Quới " ?) chụp
một người còn trẻ măng. Rắc rối là năm
1941, Trần văn Giáp cũng sử dụng loạt ảnh
này trong Tập San Khai Trí Tiến Đức,
số 2 và 3, nhưng " Thân Trọng Koái " thì lại
biến thành " Nguyễn Gia Thoại, Phó Chủ khảo
". Dĩ nhiên Trần văn Giáp biết nhiều về thi
cử của ta, viết như thế hẳn có lí do, song
Salles là một người làm việc nghiêm túc,
biết tin ai ? Tôi trông cậy vào cuốn
Hương Khoa Lục để tìm ra manh mối. Cuốn
này không được phổ biến như cuốn Đăng
Khoa Lục (đã được dịch ra Quốc ngữ)
nhưng trường Bác cổ Viễn Đông (Ecole
d'Extrême Orient) ở Paris có một bản chữ
Hán. Thật chẳng khác nào "sét đánh ngang tai
" khi tôi thấy Cao Xuân Dục chép rằng ông là
Chủ khảo khoa 1894 còn Chủ khảo khoa 1897
thì lại là ... Đồng Sĩ Vịnh ! Thế là vụ Thân
Trọng Koái / Nguyễn Gia Thoại chưa giải
quyết xong lại nẩy ra vụ Cao Xuân Dục / Đồng
Sĩ Vịnh còn quan trọng hơn. Không lẽ Salles
cẩn thận như thế mà dự khoa 1894 lại chép
nhầm là khoa 1897 ? Còn nếu Salles quả dự
khoa 1897 thì moi đâu ra được cái tên " Cao
Xuân Dục "để đặt cho Chủ khảo khoa này, vốn
phải là Đồng Sĩ Vịnh, theo chính Cao Xuân
Dục ? Nếu Salles không lầm, Chủ khảo khoa
1897 đúng là Cao Xuân Dục thì chẳng lẽ Cao
Xuân Dục lại lầm, không rõ mình là Chủ khảo
khoa nào ?
Sau
một thời gian loay hoay điều tra sách vở và
" chứng nhân " không đi đến kết quả nào, tôi
trở lại với mớ ảnh của Salles, thấy có một
chiếc chụp cảnh lễ Xướng Danh chú thích "
với sự hiện diện của các ông Doumer (Toàn
quyền), Lenormand (Công sứ Nam Định) và
Picanon (6) ", như thế là Doumer có mặt khi
Cao Xuân Dục làm Chủ khảo. Trong hồi ký,
Doumer cho biết ông ta sang Đông Dương ngày
21/1/1897,Doumer có thể lầm khi tả trường
thi, nhưng khi viết về sự nghiệp bản thân
ắt không nhầm. Rõ ràng Cao Xuân Dục không
thể làm Chủ khảo khoa 1894 được. Và người
cho Thí sinh Trần Tế Xương (hay Kế Xương) đỗ
Tú tài đội bảng chính là Đồng Sĩ Vịnh.
Đọc
lại mấy bài Tựa cuốn Đăng Khoa Lục
thì thấy không còn hồ nghi gì nữa : Cao Xuân
Dục đã hoàn tất cuốn Hương Khoa Lục
vào năm 1892, Đăng Khoa Lục vào năm
1893 và có ý sẽ tiếp tục chép thêm các khoa
sau dần dần. Song theo lời người bạn giúp
tôi tra cứu cuốn Hương
Khoa Lục (lưu
trữ tại Trường Viễn Đông Bác Cổ ở Paris) thì
nét bút của người chép phần sau khác hẳn
phần trước, tức là phần sau không chắc do
Cao Xuân Dục viết. Đăng Khoa Lục cũng
có hai bản, bản của ông Hoàng Xuân Hãn thiếu
mấy khoa sau, bản của Lê Mạnh Liêu dịch mới
đầy đủ. Đọc bài Tựa của Vũ Phạm Hàm ta có
thể nghĩ người viết tiếp chính là trưởng nam
của Cao Xuân Dục, tức Cao Xuân Tiếu. Song
Cao Xuân Tiếu cùng đi chấm thi khoa 1897 với
cha, chắc không thể lầm được. Trên bìa cuốn
Đăng Khoa Lục, quyển 1, đề rõ tên ba
người hiệu đính là Cao Xuân Tiếu, Đặng Văn
Thuỵ và Nguyễn Duy Nhiếp. Nếu ba người cùng
hiệu đính cuốn Hương Khoa Lục thì sự
lầm lẫn do hai người kia hợp lí hơn.
Vấn đề
" Ai là Chủ khảo... " đã giải quyết, nhưng
vẫn còn vụ Thân
Trọng Koái / Nguyễn Gia
Thoại cần phải " thanh toán ". Hương Khoa
Lục chỉ cho biết khi Cao Xuân Dục làm
Chủ khảo thì Nguyễn Gia Thoại làm Phó, nhưng
không thêm chi tiết nào. Lại cũng nhờ một
tấm ảnh khác của Salles mà vụ này được đưa
ra ánh sáng. Trong một chiếc ảnh chụp lễ
Xướng Danh ở Cổng Tiền môn, các quan theo
thứ tự phẩm trật ngồi ghế tréo chứng kiến,
có ông ngồi đầu hàng bên trái, mặt để râu,
bên cạnh tấm biển " Phụng chỉ ". Chúng ta
biết rằng : " Khi triều đình cử ban Giám
khảo xong, ông Chủ khảo được ban lá cờ "
Khâm sai ", ông Phó được lĩnh biển " Phụng
chỉ ". Như vậy ông có râu đích thực là Phó
Chủ khảo Nguyễn Gia Thoại không còn nghi ngờ
gì nữa, và khuôn mặt ông không giống mặt
Thân Trọng Koái một tí nào, Thân Trọng Koái
không có râu.
Vì sao
Trần văn Giáp lại chú thích như thế ? Có lẽ
thấy Salles " quên " không chụp ảnh riêng
ông Phó Chủ khảo mà lại chụp tới những hai
ông Giám sát nên ông Giáp nghĩ : " bớt một
ông Giám sát chắc không ai lưu ý chứ để
thiếu ông Phó Chủ khảo quan trọng như thế
thì có điều bất tiện. Oâng liền " mượn " tạm
ảnh Thân Trọng Koái, xoá tên thật đi và điền
Nguyễn Gia Thoại " vào. Với ông đây chỉ là
một ảnh " tượng trưng " cho ban Giám khảo đủ
bộ, còn đích thực là ảnh chụp Thân Trọng
Koái hay Nguyễn Gia Thoại thì với bọn hậu
sinh chúng ta không quan hệ. Dĩ nhiên đây
chỉ là một giả thuyết.
(Thế
kỷ 21, số 2, tháng 6 , 1989)
Tài
liệu rút trong Khoa Cử ở Việt Nam
(chưa in)
Chú
thích :
1) Sĩ tử
trường Hà gồm các tỉnh : Hà Nội, Sơn Tây,
Tuyên Quang, Hưng Hoá, Thái Nguyên, Lạng
Sơn, Cao Bằng, Bắc Ninh.Sĩ tử trường Nam gồm
: Nam Định, Hưng Yên, Quảng Yên, Hải Dương.
2) Trong
trường thi, khu dành cho học trò có hai con
đường chạy gặp nhau, thành hình chữ thập,
chia khoảng đất này làm bốn vi, ở giữa chỗ
hai đường gặp nhau, người ta xây nhà Thập
Đạo, nơi các sĩ tử đến lấy dấu Nhật Trung và
nộp quyển v.v...
3) " Quan
trường " đây trỏ vào các ông Giám sát Ngự sử
ngồi trên chòi canh cao quá muốn truyền hiệu
lệnh gì phải dùng loa.
4) " Phó
bảng " triều Nguyễn khác với " Phụ Bảng "
các triều trước. " Phó Bảng " chỉ những
người thi Tiến sĩ không đỗ nhưng được điểm
cao ? cũng như những người đi thi Hương đỗ
Tú tài ? còn " Phụ Bảng " chỉ các ông Tiến
sĩ hạng ba (Tam Giáp Tiến sĩ) ; càng không
nên nhầm với " Bảng Nhãn " là các ông đỗ
Tiến sĩ hạng nhất, đứng sau Trạng nguyên.
Nhà Nguyễn theo lệ " Ngũ Bất Lập " của Minh
Mệnh đặt ra, không lấy Trạng nguyên, nên
Bảng Nhãn đương nhiên là người đỗ Tiến sĩ
cao nhất.
5) Giám
sát tuy thuộc hàng quan trường nhưng không
chấm thi mà phụ trách giám thị quan trường
và học trò.
Nguyễn
Tuân, trong Chuyện Nghề, nói có cả
Công sứ Darles cũng dự khoa này. Darles là
một trong " Bắc kỳ tứ hung " (ác) : " Nhất
Đac (Darles), nhì Ke (Eckert), tam Be
(Wintrebert), tứ Bích (Bride) " (Bride là
Chánh án phiên xử Phan Bội Châu năm 1925).
Sách tham khảo
- Đại
nam thực lục chính biên. Bản dịch của
Viện sử học Hà Nội, 1962 - 70.
Doumer
Paul, L'Indo-Chine française, Souvenirs
Paris : Vuibert & Nony, 1905.
Ngô Vi
Liễn, Nomenclature des Communes du
Tonkin. Hà Nội : Lê Văn tân, 1928.
Nguyễn
Tuân, Chuyện Nghề. Hà Nội : Tác phẩm
mới, 1986.
Trần Văn
Giáp, " Lược khảo về Khoa cử Việt Nam ",
Khai Trí Tiến Đức tập san số 2 & 3, Hà
Nội, Janvier-Juin 1941.
Bài
này viết xong từ năm 1989, hai năm sau tôi
được một người bạn sao chụp cho tập Lược
khảo về Khoa cử Việt Nam (trích trong
Tập san Khai Trí Tiến Đức, cũng xuất bản
năm 1941) của Trần Văn Giáp.
Điều đáng chú ý là đề tựa 10 chiếc ảnh của
Salles, ông Giáp viết :
"
Kỷ niệm thi Nam khoa, Thành Thái Giáp Ngọ và
Đinh Dậu (1894-1897) " .
Có
lẽ ông Giáp phân vân không rõ Salles phải
hay Cao Xuân Dục đúng nên ông đề tên cả hai
khoa, mặc dầu ảnh chỉ chụp có một khoa và
các khảo quan cũng chỉ được đề cử ra cho một
khoa mà thôi, đề tên cả hai khoa cho một lô
ảnh chụp một khoa như thế không ổn.
Phụ
đề của bài này trước là : " Nguyễn Khuyến
hay Cao Xuân Dục ? " nay xin sửa lại là : "
Đồng Sĩ Vịnh hay Cao Xuân Dục ? " vì Nguyễn
Khuyến chỉ là Phó Chủ khảo khoa 1894.
|