Những bài viết cùng tác giả
Đây
là một loạt ba bài đăng trong Thế Kỷ 21
để tranh luận với ông Bằng Vũ vì ông cho
rằng Tú Xương có đi thi chữ quốc ngữ :
Địa
vị chữ quốc ngữ và chữ Pháp hồi đầu thế
kỷ XX.
Tú
Xương có thi chữ quốc ngữ hay không ?
Ai
cứng đầu ?
I - Khoa cử thời cái cách
Địa vị chữ quốc ngữ và chữ Pháp hồi
đầu thế kỷ XX
Sau khi chinh phục nước ta bằng vũ lực, Pháp
nghiên cứu phép cai trị của "dân bản xứ",
nhận thấy quyền hành nằm cả trong tay vua
quan. Câu hỏi họ đặt ra lúc ấy là nên giữ
hay nên bỏ chế độ cũ ? Sau khi thử đi tính
lại, họ quyết định duy trì trật tự có sẵn,
chỉ "chặt bớt tay chân" nhà vua để giảm
sức phản kháng của triều đình bằng cách tước
hết quyền hành của các quan, biến bọn này
thành những người thừa hành mệnh lệnh của
họ, do đó Khoa cử được tiếp tục tổ chức. Để
tỏ ra "nước mẹ" vẫn quan tâm đến vấn đề
khai hoá "dân bản xứ" và cũng thể theo lời
yêu cầu của một số trí thức của ta, nhà nước
Bảo hộ đưa ra những đề nghị cải cách Khoa
cử.
Theo
Bằng Vũ (Thế kỷ 21, số 14) thì nghị
định cải cách do Toàn quyền Doumer ký từ
6/6/1898. Tôi chưa được đọc nghị định này
(1) song tôi nghĩ chính nó là cha đẻ ra đạo
dụ Thành Thái năm thứ XVIII (1906) bắt các
Thí sinh phải thi môn chữ Pháp kể từ 1903
theo Doumer, kể từ 1907 theo Thành Thái. Tại
sao phải đợi 8 năm triều đình ta mới "biến" được nghị định của Doumer thành sắc dụ ? -
Có thể do sĩ phu nhao nhao phản đối và triều
đình cũng nhận thấy khó lòng thực hiện nổi
chính lệnh của Doumer trong một thời gian
quá ngắn cho nên sau khi bàn ra tán vào,
triều đình mới quyết định, năm 1906, thành
lập một Hội đồng Học vụ để quy định phép học
và phép thi, băt đầu áp dụng từ năm 1907.
Như thế có nghĩa là những khoa thi Hương năm
1900, 1903, 1906 vẫn được tổ chức y như cũ,
chữ Hán vẫn chiếm địa vị độc tôn.
Về
phép thi Hương, Hội đồng quyết định như sau
:
Kỳ
1 : (cũng gọi là trường 1) : 5 đạo văn
sách hỏi về luân lý, sử, địa, luật, chính
trị, viết bằng chữ Hán,
Kỳ
2 : 3 bài luận quốc ngữ (văn, sử, địa,
cách trí).
Kỳ
3 : 2 bài chữ Pháp :
- 1 bài
chữ Pháp dịch ra quốc ngữ,
- 1 bài
chữ Hán dịch ra chữ Pháp.
Kỳ
4 = Phúc hạch :
- 1 luận
chữ Hán,
- 1 luận
chữ quốc ngữ,
- 1 bài
chữ Pháp dịch ra chữ Hán.
(Đại
nam điển lệ, tr. 397).
Ta
nhận thấy mỗi khoa vẫn chỉ có bốn kỳ như
thường lệ, nhưng kể từ nay chữ quốc ngữ và
chữ Pháp đều là những môn thi bắt buộc như
chữ Hán.
Ta
cũng nhận thấy chữ Nôm không được nhắc đến.
Chữ Nôm tuy được đặt ra từ lâu và đã cống
hiến cho nền văn học nước nhà những áng văn
thơ bất hủ, song trừ một vài trường hợp đặc
biệt như dưới thời Mạc Mậu Hợp, đề mục kỳ đệ
tứ khoa Tiến sĩ năm 1565 là một bài phú Nôm
(2) và dưới thời Quang Trung, kỳ thi Hương ở
Nghệ An khoa 1789 bài làm viết bằng chữ Nôm
tuy đầu bài vẫn bằng chữ Hán - Nguyễn Thiếp
tức La Sơn Phu tử làm Đề điệu (3) - còn thì
chữ Nho vẫn chiếm địa vị độc tôn, thứ nhất
dưới triều Nguyễn. Nhà nước phong kiến coi
chữ Hán mới đủ nghiêm túc để " chở đạo ", để
bàn những vấn đề " kinh bang tế thế ", chữ
Nôm chỉ được dùng những lúc giải trí, vui
chơi ngẫu hứng, tuyệt nhiên không được có
mặt trong các kỳ thi, bởi Khoa cử kén người
ra gánh vác những việc " quốc gia dại sự " nên không dùng dến thứ chữ
" nôm na mách qué
" ấy !
Trên
nguyên tác, chương trình cải cách sẽ được áp
dụng từ năm 1907, song trung bình ba năm mới
có một khoa thi, mà năm 1906 vừa trùng với
Khoa thi Hương năm Bính Ngọ, nên chỉ có thể
thực sự áp dụng cải cách vào khoa kế tiếp,
năm 1909, trừ phi có ân khoa, tức là một
khoa ngoại lệ được tổ chức vào những dịp vui
mừng đặc biệt như vua mới lên ngôi chẳng
hạn. Năm 1907 quả vua Duy Tân lên kế vị vua
cha Thành Thái vừa bị hạ bệ, song tôi không
nghe nói có ân khoa nào trong dịp này.
Đáng
lẽ quyết định của Hội đồng được áp dụng kể
từ 1909, nhưng có thể vì sĩ phu phản đối hay
vì chính quyền nhận thấy khó lòng thực hiện
được nên đến năm 1908 lại thành lập thêm một
Hội đồng Cải cách Học vụ (Conseil de
Perfectionnement de l?enseignement indigène)
sửa lại những quyết định năm 1906 của Hội
đồng Học vụ như sau :
a)
Thi Hương
Kỳ 1 :
5 đạo văn sách,
Kỳ 2 : 2 bài luận chữ Hán,
Kỳ 3 :
3 bài luận chữ quốc ngữ.
Trúng kỳ
1 mới được vào thi kỳ 2, trúng kỳ 2 mới được
vào thi kỳ 3, trúng cả ba kỳ, ai tình nguyện
thi chữ Pháp sẽ dịch một bài chữ Pháp ra chữ
quốc ngữ, ai không thi không b?t buộc.
Kỳ 4 =
Phúc hạch :
1 bài
luận chữ Hán (kinh sử)
1 bài
luận chữ quốc ngữ (cách trí, địa dư, sử)
b)
Thi Hội
Kỳ 1 :
7 đạo văn (kinh, truyện (4), Nam sử, B?c
sử, Thái tây liệt quốc sử, cách trí, địa dư,
luật nước nhà).
Kỳ 2 :
1 bài
chiếu dụ
1 bài tấu
sớ
1 biểu
văn (5)
cả 3 đều
bằng chữ Hán, văn kim
Kỳ 3 :
1 luận
bằng chữ Hán
1 luận
chữ quốc ngữ
Kỳ 4 :
7 đạo sách văn (địa dư, chính trị Đông
dương, chính trị nước ta, nhân vật nước ta,
hiến chương sáu Bộ, thời vụ) (6).
Ta
nhận thấy lần này thi Hương có thêm một kỳ
đặc biệt dành cho những ai tình nguyện thi
chữ Pháp. Câu thơ " Bốn kỳ trọn vẹn, thêm kỳ
nữa " có phải đã được Tú Xương viết sau khi
có quyết định này không ? - Chắc chắn là
không, bởi vì nhà thơ đã mất ngay từ năm
trước (1907), ta chỉ có thể phỏng đoán rằng
tuy dự tính cải cách đến 1908 mới chính thức
công bố, song dân chúng đã được nghe phong
thanh từ trước.
Sau
khi công bố, chương trình cải cách có được
triệt để áp dụng không ? Tôi thu thập được
đầy đủ chi tiết hai khoa thi Hương 1909 và
thi Hội 1910, xin chép cả ra đây :
a)
Thi Hương khoa 1909, trường Hà Nam (7)
5/11/1909
Kỳ 1 :
5 đạo văn sách (tu thân, ngũ luân,
Nghiêu Thuấn và Khổng Tử, Khoa cử Trung quốc
và Khoa cử thời nhà Lê, phép cai trị Đông
Dương).
Kỳ 1
có 3068 Thí sinh, 934 người đỗ, được phép
thi kỳ 2.
5/11/1909
Kỳ 2 :
2 bài luận chữ Hán (kinh, sử)
408
người đỗ, được dự thi kỳ 3.
2/12/1909
Kỳ 3 :
3 bài luận quốc ngữ (văn, địa dư, khoa
học và tính đố).
261
người đỗ, được vào Phúc hạch.
8/12/1909
Kỳ thi
đặc biệt dành cho những ai tình nguyện
thi chữ Pháp. Đề mục là một bài chữ Pháp đơn
giản, dịch ra chữ quốc ngữ.
32
người thi, 20 người đỗ.
11/12/1909
Kỳ 4 =
Phúc hạch :
1 bài
luận chữ Hán
1 bài
luận chữ quốc ngữ
đều hỏi
về đạo trị nước.
Lấy đỗ
50 Cử nhân và 150 Tú tài
16/12/1909
Yết
bảng và lễ Xướng danh.
b)
Thi Hội khoa 1910 (8)
Kỳ
1 : 10 đạo văn sách (chứ không phải 7)
hỏi về kinh, truyện, Nam sử, B?c sử. Chỉ làm
6 bài cũng đủ, ai giỏi muốn làm nhiều hơn
càng tốt.
Kỳ 2 :
1 bài
chiếu dụ
1 sớ, tấu
1 biểu
cả 3 đều
bằng chữ Hán, văn kim
Kỳ 3 :
1 bài
luận chữ Hán
2 bài
luận quốc ngữ (đầu bài bằng chữ Hán, bài làm
viết quốc ngữ).
Kỳ 4 :
10 đạo văn hỏi sách hỏi về Thái tây,
cách trí, địa dư nước nhà, nhân vật nước nhà
và thời sự.
Ai
trúng cả ba kỳ đầu và tình nguyện thi chữ
Pháp sẽ dịch một bài chữ Pháp ra quốc ngữ.
Đầu bài sẽ do tòa Khâm sứ ra, chọn một đường
quan (quan lớn) ở kinh, người Việt hiểu chữ
Pháp chấm. Theo Quốc Triều Đăng Khoa Lục
thì các khoa thi Hội năm 1901, 1904 và
1907 vẫn được tổ chức như cũ, nghĩa là chữ
Hán chiếm địa vị độc tôn.
Tóm
lại hai khoa thi Hương năm 1909 và thi Hội
năm 1910 đích thực là hai khoa đầu tiên áp
dụng chương trình cải cách như đã chua rõ
trong Quốc Triều Đăng Khoa Lục và
Concours triennal du Tonkin, 1909 (9).
Ta thấy chữ quốc ngữ nay được nâng lên địa
vị ngang với chữ Hán, chữ Pháp mới chỉ là
môn thi phụ, "tình nguyện" chứ không bắt
buộc. Theo Robert de la Susse (10) thì đến
khoa 1912 chữ Pháp vẫn chỉ là môn tình
nguyện. Về quốc ngữ, khoa trước (1909) đầu
bài ra bằng chữ Hán, Thí sinh cũng làm bài
bằng chữ Hán rồi phiên âm ra quốc ngữ khiến
những ai không biết chữ Hán đọc không hiểu
(11), kỳ này đề mục ra thẳng bằng quốc ngữ.
Phải đợi
đến khoa 1915, theo Trần Văn Giáp chữ Pháp
mới trở nên một môn thi b?t buộc vào kỳ đệ
tam. Tiếng gọi là môn thi b?t buộc nhưng chữ
Pháp lúc ấy chưa thể sánh ngang với chữ Hán,
Thí sinh chỉ phải dịch một bài chữ quốc ngữ
ra chữ Pháp chứ chưa đủ khả năng viết một
bài tràng giang đại hải như khi viết luận
chữ Hán.
Nói
vậy không có nghĩa là tiếng Pháp lúc đầu
không được "dân bản xứ" hoan nghênh, đã có
người từ hoan nghênh đi đến khâm phục sát
đất, đề nghị nên dùng "tiếng Pháp làm quốc
văn" và vứt bỏ tiếng ta đi. Trong Nam
Phong số 22 (1919) Thượng Chi (Phạm
Quỳnh) đã trích lại lập luận của một "thức
giả" (12) : "Nói thương tiếc tiếng An Nam
vẫn là hay lắm, nhưng một tiếng nghèo nàn
kém cỏi như tiếng An Nam mình thương sao cho
đặng ? Chi bằng ta liệu sớm mà bỏ đi, mà
theo học một thứ tiếng rất hay, rất đẹp, rất
cao thượng, rất hoàn toàn là tiếng
Pháp...Tiếng An Nam ta không đủ dùng, không
biết còn tập luyện đến bao giờ mới thành
được một thứ tiếng hoàn toàn ? Tiếng Pháp
không đợi ta tập luyện đã là một tiếng hoàn
toàn...Ta thông đồng được với mấy trăm triệu
người trên thế giới, chẳng hơn là dùng tiếng
An Nam chỉ ngót 20 triệu người hiểu được mà
thôi...Hiện tình không những Nam kỳ mà ngay
ở Bắc kỳ phàm bọn thượng lưu giao thiệp với
nhau toàn dùng tiếng Pháp cả ; tiếng An Nam
không ai bảo bỏ mà tự nhiên cũng bỏ, vì dùng
nó không tiện bằng tiếng Pháp...Không mấy
nỗi mà cả xã hội ta sẽ dùng tiếng Pháp làm
cái tiếng phổ thông. Đó là kết quả tự nhiên
của Tây học, dầu không muốn cũng không
được... "Tôi có thằng con nhỏ từ thuở biết nói
tôi cho vào học trường Tây, nói thuần tiếng
Tây ; nay nó không nói một tí tiếng ta nào
nữa ". Đọc mà bàng hoàng. Dĩ nhiên Thượng
Chi đã phản đối từng điểm cái đề nghị kỳ
quặc của ông Tây da vàng này.
Về
phần chữ quốc ngữ thì ngay từ bước đầu đã
chiếm được một địa vị khả quan trong các
khoa thi, tuy chưa đánh bật được chữ Nho ra
ngoài. Tuy thế, dân chúng lại không "nhất
trí". Trừ những bậc sáng suốt như Trần
Quý
Cáp hay nhóm "Đông Kinh Nghĩa Thục" v.v... đề cao chữ quốc ngữ, phần đông vẫn bảo
thủ, khinh bỉ thứ chữ do các giáo sĩ ngoại
quốc đặt ra. Đấy là thành phần trí thức,
người dân quê xem ra lại còn bảo thủ hơn,
nếu ta dựa vào mấy bài đăng trong Nam
Phong :
Nguyên
Tất Tế, Tri phủ Mỹ Đức, trong Nam Phong
số 21, viết :
"Trong 100 người có đến
60 người có thể miệng đọc tay viết được (chữ
Nho) trên dưới thông dụng thành ra chữ bản
quốc... Nhiều khi tôi bảo Tổng sư dậy trẻ
thuần bằng quốc ngữ cho chóng thì bố mẹ đem
ngay con đi tìm thầy khác. Hỏi cớ sao, người
ta đáp : "Quốc ngữ mất dấu, chữ nọ ra chữ
kia, nếu không học Nho, chắc sau con cháu
lẫn cả tên ông vải...Thấy trường Pháp Việt
mở ra cũng biết cho con học đó thì dễ kiếm
ăn, ngặt vì nhà nghèo, một quyển "lecture"
(tập đọc) giá 7 hào, đắt hơn 4 quyển Tứ
truyện (Tứ thư), một tập giấy Tây giá hào
rưỡi, đắt bằng 100 tờ giấy Nam ; mình làm mồ
hôi, nước mắt nửa năm trời không đủ tiền gửi
con vàotrường học một tháng, đành cho con
học Nho vậy, để biên ký việc nhà " (13).
Trần
Duy Nhất, (Nam Phong số 47) đặt câu
hỏi : "Tại sao mà sự quốc dân giáo dục không
có cơ tiến bộ ? ". Theo tác giả thì phần
đông cho" học quốc ngữ là vô dụng". Chỉ vì
nghị định bắt người ra làm Tổng Lý phải biết
chữ quốc ngữ nên khi nào sắp đi làm họ sẽ
học rút. Họ nói "Học làm quái gì chữ cò
quăm mách qué ấy ? Chữ Thánh hiền nào lại có
chữ thánh thế ? Thánh nào lại dậy nhảm nhí
những con cua, con ốc ấy ? đến đàn bà, trẻ
con cũng thừa biết nữa là " (14).
Bởi những người này đơn giản nghĩ rằng
học chữ quốc ngữ hiểu ngay, không phải học
nghĩa như chữ Nho, nên cho rằng không khó,
không học cũng biết, không cần học, và tin
tưởng rằng "học
quốc ngữ thì đến già đời cũng không làm gì
được". Đến khấn vái tổ tiên cũng dùng
chữ Nho, sợ chữ Nôm sai lạc, gia phả, chúc
thư, văn tự, văn tế, đơn từ đều bằng chữ
Nho. Khi nhà cầm quyền cưỡng ép bắt họ cho
con em đi học chữ quốc ngữ hay chữ Pháp thì
có người "coi chỗ học đường hầu như giám thất, mà cho
đi học là một cái tội, phải bắt bớ, phải
chạy bậy mới được thả ra" (15).
Người
dân quê hồi đầu thế kỷ tôn trọng chữ Hán
không có gì lạ bởi Khoa cử chỉ mới bị bãi bỏ
từ năm 1919, nhưng đến 1970 mà họ vẫn tôn
trọng chữ Nho thì quả là điều đáng cho ta
lưu ý. Nguyễn Văn Xuân, trong Phong Trào
Duy Tân (1970) viết : "Ở thôn quê hiện
nay, đôi nơi vẫn còn cái tục trọng chữ thánh
hiền, người ta dùng bất kỳ thứ giấy quốc
ngữ, Tây, Mỹ để biến thành giấy vệ sinh,
nhưng giấy có chữ Nho thì tuyệt nhiên không
bao giờ !" (16), mặc dầu khi ấy chữ quốc
ngữ đã chiếm một địa vị vượt xa chữ Hán. Cho
nên nói rằng đạo Nho thâm nhập cốt tuỷ của
dân ta không phải là nói ngoa vậy.
Chatenay-Malabry tháng 8, 1990
(Thế Kỷ 21, số 18, tháng 10, 1990)
Chú thích
(1) -
Phan Kế Bính, (Việt Nam Phong Tục),
Trần Văn Giáp (Khai Trí Tiến Đức Tập san
số 2 và 3) đều không đả động đến nghị
định của P. Doumer chỉ có Đại Nam Điển Lệ
(tr. 369) nhắc tới" nghị định của Thống
sứ Bắc kỳ".
(2) -
Trần Lê Sáng, Phùng Khắc Hoan, Hà
Nội, 1985, tr. 30.
(3) -
Nguyễn Trọng Thuật, "Vấn đề quốc văn",
Nam Phong số 182, 3-1933, tr. 271.
(4) -
Kinh = những lời giảng dậy của Khổng Tử
ở phần đầu các kinh sách.
Truyện
= những lời giảng giải thêm của môn đệ
Khổng Tử ở phần cuối kinh sách.
(5) -
Chiếu = lời vua ban cho thần dân.
Biểu
= bài văn của thần dân dâng lên vua để
bầy tỏ điều gì.
Sớ
= tờ điều trần dâng lên vua.
(6) -
Nguyễn Sĩ Giác, dịch giả, Đại Nam Điển
Lệ, Saigon : Viện Đại Học Saigon, 1962.
(7 & 9) -
Concours triennel du Tonkin, 1909.
Hanoi-Haiphong : nhà in Extrême-Orient, tr.
7 "Cette épreuve (facultative) de français,
de même que la troisième épreuve de langue
annamite était une innovation car dans les
précédents concours toutes les compositions
étaient rédigées en chinois". (Kỳ thi chữ
Pháp (tình nguyện) này cũng như kỳ thi
trường ba bằng chữ quốc ngữ là một điều
mới lạ, vì trong các khoa thi trước, tất cả
mọi bài làm đều viết bằng chữ Hán).
(8) - Cao
Xuân Dục, Quốc Triều Đăng Khoa Lục,
dịch giả Lê Mạnh Liêu. Saigon : Bộ Quốc Gia
Giáo Dục, 1962.
(10) -
Robert de la Susse, " Les concours
littéraires en Annam ", Revue
Indochinoise N°2, 1913.
(11) -
Một số người Pháp biết quốc ngữ được cử ra
phụ giúp quan chấm trường.
12 -
Thượng Chi (Phạm Quỳnh) "chữ Pháp có làm
quốc văn An nam được không ?", Nam Phong
số 22, 4-1919, tr. 279-86.
13 -
Nguyễn Tất Tế, "Bàn về việc học của quốc
dân. Chữ Nho có bỏ được không ?", Nam
Phong số 21, 3-1919, tr. 197-201.
14 - Trần
Duy Nhất, "Tại sao mà sự quốc dân giáo dục
không có cơ tiến bộ ?", Nam Phong số
47, 5-1921. Tr. 386-405.
15 -
Nguyễn Văn Xuân, Phong Trào Duy Tân,
Saigon : Lá Bối,1970.
II - Tú Xương có thi chữ quốc ngữ
hay không ?
Thế
Kỷ 21, số 20, đăng bài "Từ nghị định Doumer
1898 đến dụ Thành Thái 1906" của nhà nghiên
cứu Bằng Vũ hàm ý trách tôi đã " phỏng đoán
" Tú Xương chỉ "nghe phong thanh" chuyện
cải cách khoa cử khi viết câu thơ :
"Bốn kỳ trọn vẹn, thêm kỳ nữa"
Nếu
trong bài "Địa vị chữ quốc ngữ và chữ Pháp
hồi đầu thế kỷ XX" (Thế kỷ 21, số 18) tôi
chỉ lược lại những tài liệu tôi đã đọc thì
nay xin trích thêm để chứng tỏ chỉ từ năm
1909 ta mới thi chữ quốc ngữ.
Trích
: "Le concours triennal du Tonkin pour
1909 a eu lieu à Nam Định du 6
novembreau 16 décembre, dans les conditions
déterminées par l'arrêt du 30 mars 1908" (Khoa thi Hương ở Bắc kỳ năm 1909 tại trường
Nam Định bắt đầu ngày 6/11 và kết thúc ngày
16/12, tổ chức theo nghị định ngày
30/3/1908).
Sau
cái tựa dài dòng đến phần trích lại nghị
định do J. Morel ký tại Hà Nội ngày
30/3/1908, được Bonhoure duyệt và ký ngày
3/4/1908. Ta thấy mỗi khoa gồm bốn kỳ thi
bắt buộc, trong đó có môn thi quốc ngữ, và
thêm một kỳ thi tình nguyện chữ Pháp. Bài vở
sẽ được chấm từ 0 đến 20 điểm.
Tiếp
đó là bài diễn văn của viên Thống sứ Bắc kỳ
Simoni đọc bằng tiếng Pháp và được Án sát
tỉnh Nam Định đọc lại bằng chữ Hán, trong có
câu :
"Grâce au quốc ngữ, la pensée occidentale
peut être rapidement diffusée au Tonkin dans
toutes les classes de la population. Ce
concours comprendra donc une épreuve de
langue annamite.
Avant
peu d'années, tous les Annamites cultivés
auront à coeur de parler le langage de la
nation qui les protège ; c'est en vue de
préparer cet avenir prochain qu'une épreuve
de langue française facultative a été
inscrite au nouveau programme ".
(Nhờ
chữ quốc ngữ, những luồng tư tưởng Tây
phương sẽ có thể truyền bá nhanh chóng ở Bắc
kỳ đến mọi tầng lớp dân chúng. Vì vậy khoa
này gồm có một kỳ thi bằng quốc ngữ.
Chẳng
bao lâu, tất cả thành phần trí thức An Nam
sẽ thích thú sử dụng tiếng của nhà nước Bảo
hộ, chính vì để chuẩn bị cho một tương lai
gần đây mà một bài thi tình nguyện bằng chữ
Pháp đã được ghi vào chương trình mới).
Sau
bài diễn văn đến chi tiết các đề mục khoa
1909 như tôi đã chép trong Thế kỷ 21,
số 18. Về môn thi chữ Pháp có một câu tuy đã
trích kỳ trước, nay xin trích lại vì nó nói
rất rõ :
"Cette épreuve facultative de français, de
même que la troisième épreuve de langue
annamite était une innovation car dans les
précédents concours toutes les compositions
étaient rédigées en chinois". Kỳ thi chữ
Pháp (tình nguyện) này cũng như kỳ thi
trường ba bằng chữ quốc ngữ là một điều mới
lạ vì trong các khoa thi trước tất cả mọi
bài viết đều bằng chữ Hán).
Cho
rằng một tài liệu này chưa đủ để tin, tôi
xin nêu thêm Quốc Triều Đăng Khoa Lục
của Cao Xuân Dục :
"Khoa
Canh Tuất, niên hiệu Duy Tân thứ tư (1910)" (tức là Khoa thi Hội theo liền với khoa thi
Hương 1909).
Lệ
thi khoa này đổi định như sau :
Kỳ đệ nhất : 10 đạo văn sách v.v...(như
đã chép trong Thế Kỷ 21, số 18)...Khi chấm
bài đổi phân ra điểm (1) kể từ 0 đến 20
điểm, quyển nào 10 điểm trở lên là hạng
trúng...
...Kỳ đệ tam viết riêng bài luận chữ Nho
ra một quyển, bài luận chữ quốc ngữ ra một
quyển bằng giấy tây. Sau khi nộp quyển do
Viện Đề Tuyển soạn cùng một hiệu, như quyển
chữ Nho đánh số "giáp nhất hiệu" thì quyển
quốc ngữ cũng hiệu "giáp nhất hiệu" rồi
mới rọc phách cả (2).
Quyển
chữ Nho chiếu lệ các khoa trước, cũng do các
viên lại phòng viết ngay ngắn phân minh ra
rồi đệ giao các quan trường chấm (3). Quyển
quốc ngữ không phải sao ra như chữ Nho, giao
ngay cho các quan trường chấm.
...Các
khoản khác đều theo lệ cũ ".
Nếu
khoa 1910 không phải là khoa đầu tiên cải
cách thi Hội thì Cao Xuân Dục đã không dành
tới bốn trang rưỡi để ghi chú những chi tiết
khoa này. Cứ xem những khoa trước và sau
khoa Canh Tuất cũng thấy rõ :
--
Khoa 1913 : Cao Xuân Dục chỉ dành chưa đầy
nửa trang để ghi những điểm đáng lưu ý của
khoa này , có hai chỗ liên quan đến cải cách
:
1) Các
Cống sĩ làm văn thi kỳ đệ nhất và đệ tứ đổi
dùng 5 đạo văn sách thôi...
2)
Nguyên lệ trước đầu bài quốc ngữ ra bằng chữ
Hán, nay Toà Khâm sứ bàn xin ra đầu bài cũng
bằng quốc ngữ...(4).
--
Khoa 1907 : những đặc điểm khoa này chỉ gồm
vỏn vẹn có mấy dòng : " Kỳ thi Hội này viên
Sử quán Tổng tài Cao Xuân Dục tâu xin, được
Vua ưng, cho các Cống sĩ vào thi đóng vi lẫn
lộn chứ không chia vi Giáp, Ất như trước
(nguyên lệ trước các Cống sĩ quán từ Quảng
Bình trở về Nam thì vào vi Giáp, các Cống sĩ
quán tự tỉnh Hà Tĩnh trở ra B?c thì vào vi
Ất (5).
Cả
Quốc Triều Đăng Khoa Lục và Le
concours triennal...đều cùng ghi tỉ mỉ,
nhưng với tư cách một người đã từng nhiều
phen làm khảo quan, Cao Xuân Dục chú trọng
đến phép chấm thi, còn tác giả cuốn Le
concours triennal...thì quan sát với con
mắt một người ngoại quốc nên ghi chép đầy đủ
các đề mục, ngày thi, số Thí sinh và số Tân
khoa...Mỗi người nhìn theo một khía cạnh,
ráp cả hai lại ta có một cái nhìn khá rõ về
hai khoa cải cách đầu tiên.
Một
bằng chứng nữa tỏ ra khoa 1909 mới bắt đầu
thi quốc ngữ là con số Thí sinh trường Hà
Nam khoa này sụt hẳn đi.
Theo
Nguyễn Tuân (Chuyện Nghề) thì
Khoa 1891
có 9000 người dự
Khoa 1894
có 11000 người dự
(Le
Petit Journal số 245 : có 60 người đỗ)
Trong
Bút Nghiên (trang 190) Chu Thiên đưa
ra những con số sau :
Khoa 1889
có 7760 người
Khoa 1891
có 9772 người
Khoa 1894
có 11872 người
Theo
Doumer
Khoa 1897
có 10000 người
Theo
Le concours triennal...thì
Khoa 1909
chỉ còn có 3068 Thí sinh.
Tôi
nghĩ sở dĩ Thí sinh trường Hà Nam khoa 1909
sút hẳn đi vì khoa này các thầy khoá lần đầu
phải thi quốc ngữ (chữ Pháp là môn tình
nguyện nên không kể) có nhiều người không
chịu học chữ quốc ngữ bởi quốc ngữ do các
giáo sĩ Tây phương đặt ra nên nhiều nhà Nho
thiếu cảm tình với quốc ngữ, cho học quốc
ngữ là "vong bản", là "vọng ngoại" v.v...thà bỏ hẳn thi cử. (Đây là một hi sinh
to lớn vì các thầy Khóa trọn đời đi học chỉ
cốt thi đỗ ra làm quan, nay bỏ thi tức là
c?t hết đường tiến thủ).
Ngược
lại, những khoa cuối thế kỷ 19, con số Thí
sinh trường Hà Nam lại tăng vọt hẳn lên chỉ
vì sĩ tử nghe phong thanh (6) sẽ có cải cách
nay mai nên đổ xô nhau đi thi vớt mấy khoa
cuối. Trung bình số người thi mỗi trường từ
3000 đến 5000, đặc biệt trường Hà Nam đông
đảo hơn vì hợp thí hai trường Hà Nội và Nam
Định. Tại sao lại hợp thí và phải ở Nam Định
? Như tôi đã trình bầy trong bài "Ai làm chủ
khảo trường Hà Nam khoa Đinh Dậu ?"
(Thế Kỷ 21, số 2) trường Hà Nội bị lính
Pháp chiếm, phải đóng cửa, khoa cuối của
trường Hà là khoa 1879.
Đến
năm 1884, trường Nam Định bị quân Pháp đốt,
chưa sửa sang kịp, lại nhân sĩ tử miền Bắc
náo loạn phản đối hoà ước Giáp Thân
(Patenôtre), nhà cầm quyền bắt các Thí sinh
cả hai trường phải vào Thanh Hoá hợp thí,
khoá này gọi là "Khoá Thanh", chỉ có trên
2000 người dự.
Mãi
đến 1886, khi vua Đồng Khánh lên ngôi mới
cho hai trường Hà Nội và Nam Định hợp thí ở
Nam Định, sau vì loạn lạc thành lệ. Ta
thường dùng lẫn lộn "trường Nam Định " với
"trường Hà Nam", nếu muốn phân biệt rõ thì "trường Nam Định
" trỏ vào cái trường bằng
gạch ngói ở ngoại thành Nam, còn " trường Hà
Nam "trỏ vào đám sĩ tử của hai trường Hà
Nội và Nam Định hợp thí tại trường Nam Định.
Theo
nhà nghiên cứu Bằng Vũ thì "các thí nghiệm
đem quốc ngữ và chữ Pháp vào các kỳ thi chỉ
xẩy ra đơn độc tại trường thi Nam Định",
những chi tiết tôi đưa ra trên đây đều thuộc
trường Hà Nam, như thế không có gì là không
ổn.
Tôi
không được rõ nhà nghiên cứu Bằng Vũ dựa vào
tài liệu nào khi viết trường Nam là "thí
điểm độc nhất" ? Theo Robert de la Susse
thì chương trình cải cách được áp dụng cùng
một lúc cả ở miền Trung.
Ngay
trang đầu Robert de la Susse đã nói rõ ông
chỉ cho biết những chi tiết ở các trường
miền Trung chứ không viết về trường Nam Định
: "La note qui va suivre...ne vise que les
concours ayant lieu en Annam. Je ne suis
donc entré dans aucun détail concernant
le concours de Nam Định".
Trang
4 viết về trường thi ở Huế : "Le concours
se compose de quatre épreuves...des
dissertations en caractères, des
sujets de quốc ngữ obligatoires et un sujet
de français facultatif encore en 1912".
(Khoa thi gồm bốn trường...chữ Hán và chữ
quốc ngữ là những môn thi b?t buộc, chữ Pháp
mãi đến 1912 cũng vẫn còn là môn thi tình
nguyện). Chữ " encore " chứng tỏ trước khoa
1912, ít nhất cũng có một khoa mà chữ Pháp
là môn thi tình nguyện ở trường Thừa Thiên.
Vấn đề
khó giải quyết là biết rằng đến 1909 mới bắt
đầu thi quốc ngữ và Tú Xương mất từ hai năm
trước (1907) tại sao lại có bài "Cũng đi
thi" khiến người đọc có thể hiểu Tú Xương
đã thi quốc ngữ ?
Cũng đi thi
Tấp
tểnh người đi, tớ cũng đi,
Cũng lều, cũng chõng, cũng đi thi.
Tiễn chân cô mất hai đồng chẵn,
Sờ
bụng thầy không một chữ gì !
Lộc nước còn mong thêm giải ngạch ;
Phúc nhà may được sạch trường quy.
Bốn kỳ trọn vẹn thêm kỳ nữa, (7)
Á,
ớ, u, ơ, ngọn bút chì.
Đọc bài
này ta có thể hiểu, trong một khoa nào đó
không chua rõ, Tú Xương đã thi cả năm
trường, trong có môn thi quốc ngữ, và lần
này đặc biệt được "sạch trường quy". Dựa
vào bài thơ, nhà nghiên cứu Bằng Vũ đã phản
đối khi tôi phỏng đoán rằng Tú Xương chỉ " nghe phong thanh
" chuyện cải cách, và viết
: Tôi luôn luôn kính trọng Tú Xương và
nghĩ ông không phải con người nhìn "vỏ dưa" ra
"vỏ dừa". Từ trước tới nay, các nhà
nghiên cứu đã có chê Tú Xương về một số mặt,
nhưng tuyệt nhiên chưa thấy ai trách nhà thơ
hiện thực này "nghe phong thanh" một sự
việc rồi gắn việc đó vào bàn chân ông. Sự
việc ông dự một kỳ thi Hương "bốn kỳ trọn
vẹn", lại đèo "thêm kỳ nữa", ông đã trung
thực ghi nhận như các văn bản xưa cũ nhất đã
sao chép ".
Trước
hết, đối với tôi, "những văn bản xưa cũ
nhất" chưa hẳn đã chắc chắn sát với nguyên
bản nhất. Nếu quả thế thì các học giả Đông
Tây còn mất công nghiên cứu mọi văn bản để
hiệu đính làm gì ?
Thêm
nữa, vì " kính trọng"
Tú Xương mà tin ông
đã "trung thực ghi nhận"...theo tôi là một
lập luận dựa trên tình cảm, không phải trên
những bằng chứng cụ thể.
Vì nhà
nghiên cứu Bằng Vũ tin chắc chắn Tú Xương đã
đi thi quốc ngữ, bằng vào bài thơ "Cũng đi
thi", ta chỉ việc xét trong ba khoa thi
Hương Tú Xương đã dự sau khi nghị định
Doumer ra đời và trước khi nhà thơ mất (cũng
dựa vào văn thơ của Tú Xương) xem có khoa
nào nhà thơ thi cả năm kỳ, lại "sạch trường
quy" hay không thì biết. Ba khoa ấy là
1900, 1903 và 1906. Tôi đã soát lại, nếu Tú
Xương đi thi từ năm 15 tuổi thì đến 1906 là
vừa đúng tám khoa, trừ phi có ân khoa. Ba
khoa kể trên cùng dưới thời Thành Thái và
theo các tài liệu tôi được đọc thì không có
ân khoa nào.
--
Khoa 1900 bị loại ngay vòng đầu, nhờ
những chi tiết rất rõ rệt trong bài "Phú
hỏng thi khoa Canh Tý" (1900). Bài này khá
dài, tôi chỉ xin trích những câu có liên
quan đến vấn đề thi hỏng của Tú Xương.
... " Năm vua Thành Thái mười hai (1900)
Lại mở khoa thi Mỹ Trọng.
Kỳ
đề tam văn đã viết rồi,
Bảng đệ tứ chưa ra đã ngóng.
.....
Nào ngờ
Bảng nhỏ thấy tên,
Ngoại hàm còn trống...
Tức là
khoa này Tú Xương chỉ vào được đến tam
truờng là hỏng.. Khi xem bảng để vào thi kỳ
đệ tứ thì thấy tên mình trên "bảng nhỏ".
Tên nêu lên "bảng nhỏ" có nghĩa là không
những Tú Xương không "sạch trường quy" mà
còn phạm trường quy và lỗi rất nặng, lỗi nhẹ
chỉ bị đánh hỏng thôi, không bị nêu tên ra
bảng con. Vừa bị phạm trường quy, vừa không
được thi kỳ đệ tứ, dĩ nhiên không phải Tú
Xương viết bài "Cũng đi thi" năm 1900.
--
Khoa 1903, Quý Mão, xin xem bài :
Phận hẩm duyên ôi
Trách mình phận hẩm lại duyên ôi,
Đỗ
suốt hai trường, hỏng một tôi !
" Tế " đổi ra " Cao " mà chó thế !
" Kiện " trông ra " Tiệp " hỡi Trời ơi...
Theo Bảo
Vân, vì thi hỏng mãi, năm 1903 Tú Xương đổi
chữ lót "Tế Xương" ra "Cao Xương" nhưng
vẫn hỏng (8).
Câu "Đỗ suốt hai trường, hỏng một tôi "cho thấy
Tú Xương hỏng ngay từ trường hai vì đã nhầm
chữ "Kiện" với chữ "Tiệp", như thế tức
là Tú Xương không thi 5 trường và cũng không
"sạch trường quy" khoa 1903.
--
Khoa 1906 (Bính Ngọ). Ai cũng biết Tú
Xương lận đận với thi cử chỉ vì không thuộc
trường quy, nhờ câu thơ :
" Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy
! "
(Buồn vì hỏng thi)
Câu này cho thấy ít nhất khoa thứ 8, Tú
Xương lại phạm trường quy một lần nữa, mà khoa thứ
tám chính là khoa Bính Ngọ (1906) vì Tú Xương chỉ
thi tất cả có 8 khoa.
Nếu
cho rằng lập luận này không vững, và tin là
Tú Xương đã thi cả năm trường và "sạch
trường quy" khoa này, vậy thì một người "nổi tiếng tài hoa" như Tú Xương, lẽ ra
không đỗ Cử nhân, cũng phải đỗ Tú tài, dù là
Tú tài đội bảng như năm 1894, đằng này Tú
Xương hiển nhiên không phải là "ông Cử" mà
cũng không ai gọi ông là "Tú kép", hoá ra
bài làm dở lắm hay sao ? Bảo Tú Xương làm
bài "dở", tôi nghĩ tội còn nặng hơn là nói
Tú Xương dùng óc tưởng tượng "vẽ" cảnh
mình đi thi quốc ngữ. Các văn, nghệ sĩ đều
là những người có óc tưởng tượng rất phong
phú và rất cần đến óc tưởng tượng khi sáng
tác. Nói Tú Xương nghe "phong
phanh" chuyện cải cách rồi viết bài thơ
"Cũng đi
thi " tôi không nghĩ là đã thiếu kính trọng
hay xúc phạm đến danh dự nhà thơ. Huống chi
Tú Xương đã từng thực sự " nghe phong
phanh " mà làm thơ :
Nghe nói khoa sau sắp đổi thi,
Các thầy đồ cổ đỗ mau đi.
Nếu không bia đá còn bia miệng,
Vứt bút lông đi, giắt bút chì. (9)
Giờ xin
bàn đến vấn đề Tú Xương có luôn luôn ghi
nhận "trung thực" hay không. Nếu ta có thể
tin Tú Xương "trung thực" trong câu :
" Ví phỏng chăm nghề
nghiên bút thì mười ba, mười bẩy đỗ những tự
bao giờ "
(Phú hỏng
thi khoa Canh Tý)
thì ta
cũng có thể đánh dấu hỏi khi Tú Xương viết :
...Cao lâu thường ăn quỵt,
Thổ, đĩ lại chơi lường... "
(Tự
vịnh)
Đến bài :
" Hán tự chẳng biết Hán "...
thì không
cần phải đánh dấu hỏi cho mất thì giờ, hiển
nhiên Tú Xương biết chữ Hán.
Lại đến bài :
" Ngày mai tớ hỏng tớ đi ngay "...
rõ ràng
nhà thơ nói ngoa, thi hỏng xong vẫn nằm nhà
chứ không hề " sang Tầu " và cũng chẳng " tếch sang Tây
".
Nhà
thơ cũng đã có lần công nhận ra miệng là
mình viết chuyện tưởng tuợng :
" Ông trông lên bảng thấy tên ông,
Ông nốc rượu vào, ông nói ngông :
Trên bảng, 52 thầy Cử đội,
Bốn kỳ, mười bẩy cái ưu thông "...
Trung
bình mỗi trường thi lấy 50 người đỗ Cử, nếu
khoa ấy vua " gia ơn " cho lấy thêm ba người
nữa (Tú Xương đỗ thứ nhất, 52 người kia phải
đội ông) thì bốn kỳ Tú Xương cũng không thể
có được mười bẩy cái " ưu thông " bởi mỗi kỳ
chỉ có bốn khảo quan chấm : Sơ khảo, Phúc
khảo, Giám khảo (Nội trường) và Chánh, Phó
Chủ khảo hay Phân khảo (Ngoại trường) dù cho
ai cũng phê bài của ông " ưu " thì ông cũng
chỉ lĩnh được có mười sáu cái " ưu thông " chứ không thể có
" mười bẩy " cái được.
Bài
này có thể bảo tại Tú Xương đùa, nhưng còn
bài :
" Nào có ra gì cái chữ Nho ?
Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co !
Chi bằng đi học làm thầy Phán,
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò ".
Ai đọc mà
chẳng tưởng Tú Xương đã sống dưới thời Khoa
cử tàn rồi ? Thật ra Tú Xương mất từ năm
1907, mà khoa thi Hương cuối cùng ở miền Bắc
là khoa 1915, và khoa thi Hội cuối cùng là
khoa 1919.
Tóm
Lại, nhà nghiên cứu Bằng
Vũ có quyền tin Tú
Xương đã thực sự đi thi quốc ngữ, tôi cũng
có quyền tin đến 95% Tú Xương chưa kịp đi
thi quốc ngữ đã mất, 5% còn lại xin hẹn khi
nào có thêm tài liệu sẽ công bố, dù tài liệu
đó chứng tỏ tôi sai lầm.
Châtenay-Malabry, tháng giêng, 1991
(Thế kỷ 21, số 23, tháng 3, 1991)
Chú thích
(1) -
Dưới triều Nguyễn, lúc đầu thi Hội chấm cũng
lấy các hạng ưu, bình, thứ v.v...như thi
Hương. Từ 1829, đổi ra lấy phân số, tức là
đỗ " ưu " được 9, 10 phân, " ưu thứ " được
7, 8 phân v.v... Đến 1910 lại đổi ra chấm
lấy điểm từ 0 đến 20.
(2) - Rọc
phách là đánh dấu trên tờ đầu quyển thi rồi
gập đôi lại, xé ra lấy nửa có mang tên họ
Thí sinh cất đi, cái ấy gọi là cái phách.
Khi quyển thi chấm xong, đem ráp lại với
phách thấy đúng khớp là biết tên họ tác giả.
Rọc phách cốt để khảo quan chấm thi cho công
bình.
(3) -
Cũng vì muốn khảo quan không nhận ra tự dạng
các Cống sĩ thi Hội nên quyển thi được các " ông Nghè bút thiếp
" sao lại rồi đưa cho
khảo quan chấm bản sao. Những " ông Nghè bút
thiếp " này chưa từng đỗ ông Nghè, mà chỉ là
những người viết chữ đẹp, ngay ngắn, rõ
ràng, nên được chọn làm công việc sao lại
quyển thi của những ông Nghè tương lai.
(4) - Đề
mục kỳ trước bằng chữ Hán, Thí sinh cũng
viết bằng chữ Hán rồi phiên âm ra quốc ngữ
khiến những người Pháp chấm bài, không biết
chữ Hán, không hiểu. Lần này Tòa Khâm yêu
cầu ra đề bằng chữ quốc ngữ.
(5) - Đây
là một trong những " kỳ thị " của nhà Nguyễn
đối với sĩ phu miền Bắc. Miền Nam, miền B?c
thi riêng, có đầu bài riêng và cách chấm
cũng khác nhau.
(6) -
Chuyện sĩ tử " nghe phong thanh " là chuyện
có thật, xin xem Chuyện Nghề của
Nguyễn Tuân viết về khoa Đinh Dậu (1897).
(7) - Bài
này tôi chép theo Bảo Vân, chỉ đổi câu 7 từ
" Ba kỳ " ra " Bốn kỳ " cho hợp ý nhà nghiên
cứu Bằng Vũ, tôi chưa từng nghiên cứu về Tú
Xương nên không có ý kiến.
(8) - Bảo
Vân, sđd, tr. 125
(9) -
Lãng Nhân, Giai Thoại Làng Nho Toàn Tập,
tr. 762
Sách tham khảo
- Bảo
Vân, Thơ nôm Yên Đổ, Tú Xương, Canada
: Quê Hương, 1980 ?
- Cao
Xuân Dục, Quốc Triều Đăng Khoa Lục,
Saigon : Bộ Quốc Gia Giáo Dục, 1962
- Chu
Thiên, Bút Nghiên, Đại Nam tái bản ở
Mỹ
- Paul
Doumer, L'Indo-Chine française
(Souvenirs) Paris : Vuibert et Nony,
1905
- Lãng
Nhân, Giai Thoại Làng Nho Toàn Tập,
Saigon : Nam Chi Tùng Thư, 1966, tái bản ở
Mỹ
- Le
Concours triennal du Tonkin pour 1909,
Hanoi-Haiphong, Imprimerie d?Extrême-Orient
- Nguyễn
Tuân, Chuyện Nghề, Hà-nội : Tác phẩm
mới, 1986.
Robert de
la Susse, Les Concours littéraires en Annam.
Extrait de la Revue Indochinoise n° 2
Février 1913, Hanoi-Haiphong, Imprimerie
d'Extrême-Orient.
III - Ai cứng đầu ?
Trong
Thế Kỷ 21, số 26, nhà nghiên cứu Bằng
Vũ tuyên bố ông " cứng đầu ", vẫn tin Tú
Xương đã đi thi quốc ngữ và khuyên tôi nên
đọc một số bài đăng trên các báo Việt và
Pháp. Nếu có dịp tất nhiên tôi sẽ tìm đọc.
Duy bài của A. Salles được nhà nghiên cứu
Bằng Vũ trích đăng một câu để bênh vực cho
thuyết của mình thì tôi thấy cần phải nhận
định lại ý nghĩa câu văn. Câu ấy như thế này
:
" Déjà, à la session de 1908, une épreuve
spéciale d'annamite et de français a été
introduite ".
1) Câu
này có thể hiểu Salles định nói : " ngay từ
khoa 1908 đã bắt đầu có đề tài chữ quốc ngữ
và chữ Pháp ". Song nghĩ lại thấy không ổn,
bởi thi Hương ba năm mới có một kỳ, tính từ
khoa Canh Tý (1900), tức khoa Tú Xương viết
bài " Phú hỏng thi ", thì các khoa kế tiếp
phải rơi vào những năm 1903, 1906, 1909 chứ
không phải 1908. Năm 1908 không có khoa thi
nào cả.
2) Cho
dù 1908 có khoa thi Hương đi chăng nữa thì
khi ấy nhà thơ cũng đã mất được một năm rồi
(1907).
3) Nếu
ta lại nhìn đến ngày tháng số báo đã đăng
bài của Salles, Bulletin du Comité de
l'Asie française, thì sẽ thấy ghi số
75, tháng 6 năm 1907. Vậy thì đúng lý ra nếu
muốn trỏ vào khoa thi sẽ được tổ chức vào
năm 1908, tức là một năm sau, thì Salles
không thể dùng những chữ "a été
introduite" mà phải viết "sera
introduite" nếu không sẽ sai văn phạm.
Theo
tôi, câu này phải hiểu là "đề nghị dùng chữ
quốc ngữ và chữ Pháp kể từ khoa 1908 đã được
(Hội đồng Học vụ) chấp thuận (từ năm 1906)" như thế những chữ
"a été" mới thích hợp.
Đến năm 1908, khi Hội đồng Cải cách Học vụ
nhóm họp lại thì chữ Pháp chỉ còn là một môn
thi tình nguyện mà thôi chứ không bắt buộc
nữa.
4)
Trong một bài trước, nhà nghiên cứu Bằng Vũ
tỏ ý tin rằng đề tài quốc ngữ được dùng ngay
từ kỳ thi Hương năm 1900, sau khi có nghị
định do Toàn quyền Doumer ký (1898). Nhưng
khoa 1900 Thí sinh chưa bắt buộc phải thi
chữ quốc ngữ, bằng chứng là nhà cách mạng
Phan Bội Châu, đỗ thủ khoa trường Nghệ năm
1900, chỉ "đọc được sơ sơ chữ quốc ngữ",
còn thì suốt thòi kỳ bị giam lỏng ở Bến Ngự,
vẫn thường xuyên phải có thư ký đi kèm để
ghi chép những sáng tác bằng quốc văn, cụ
Phan chỉ tự ghi lấy những bài viết bằng chữ
Hán. Ít nhất chúng ta cũng có tới hai chứng
nhân, Vương Đình Quang và Quang Đàm, đã từng
làm thư ký cho cụ Phan (1). Một người đã đi
thi chữ quốc ngữ lẽ nào còn cần phải có thư
ký để ghi chép hộ những sáng tác của mình
bằng chữ quốc ngữ ?
Trên
đây là để trả lời phần "ngoại lý", về "nội lý" nhà nghiên cứu Bằng Vũ cho biết ông
dựa vào bài thơ "Tấp tểnh người đi, tớ cũng
đi". Tôi xin nêu ra một thuyết không phải
là vô căn cứ : bài này chưa chắc đã do Tú
Xương viết. Lời lẽ tuy rất giống nhưng có
một chi tiết khiến người ta phải nghi ngờ:
"Tiễn chân cô mất hai đồng chẵn"
Nhà Tú
Xương ở phố Hàng Nâu, thành Nam Định, trường
thi nằm ở chân thành Nam, nghĩa là nhà của
Tú Xương không xa trường thi, cho nên không
có lý do gì để "cô Tú" "tiễn chân" chồng
mất "hai đồng". Người xưa tiễn các Thí
sinh đi thi vì lý do phần đông những người
này ở xa trường, thường khi cách sông phải
qua đò cho nên món tiền tiễn chân được gọi
là "tiền đò". Thực sự "tiền đò" không
những giúp Thí sinh qua đò mà giúp cả tiền
nhà trọ trong suốt cả thời kỳ thi dài năm
tuần. Nhà đã gần trường thi thì Tú Xương
không phải qua đò, cũng không phải ở trọ.
Cho nên :
Tú Xương
vẫn không đi thi chữ quốc ngữ !
Châtenay-Malabry, tháng 8, 1991
Thế Kỷ 21, số 29, tháng 9, 1001
1. Ông
già Bến Ngự, Hồi Ký (của nhiều người).
Huế Thuận Hoá, 1987, tr. 109, 134, 138.
|