Bài liên quan:
Nguyễn An
Những bài viết cùng tác giả
I.- Những hoạn quan ở nước ta
* Đời Lý
Lý Nhân Nghĩa
Lý Thường Kiệt
* Đời Trần
. Phạm Ứng Mộng
* Đời Lê
Lương Đăng
Hoàng Công Phụ
Phạm Huy Đỉnh
Hoàng Ngũ Phúc
* Đời Nguyễn
Lê văn Duyệt
II.- Chức vụ và phẩm phục
A/ Chức vụ
B/ Phẩm phục
* Đời Trần
* Nhà Lê
*Thời nhà Nguyễn
III.- Đời sống
* Tướng mạo và tính tình
* Cung giám viện
* Chùa Từ Hiếu
* Nghĩa địa
* Tháp Bồ Đề
IV.- Chú thích
Sử sách của ta chỉ chép tỉ mỉ từ đời Lý, trước đó
nước ta có hoạn quan hay không thì không rõ, nhưng
xét ra có lẽ chế độ hoạn quan của ta bắt chước Trung
quốc.
Theo các sách Chu lễ và Kinh lễ thì
đời nhà Chu các hoạn quan chỉ giữ việc quét dọn,
canh phòng, hầu hạ trong cung cấm, thường được gọi
là Tư nhân, hay Yêm doãn (yêm = thiến, doãn = trưởng
quan) sau mới đổi ra hoạn quan nghe tôn quý hơn. (Ở
Việt Nam thường gọi là : nội thị, quan thị, nội
giám, ông Giám, ông Bõ).
Tuy tổng số có thể lên đến 3000 người, nhưng chỉ
một số ít được giữ việc chuyển đạt mệnh lệnh của vua
đến các phi tần. Những người này đều có tên khắc chữ
vàng trên thẻ ngọc. Mỗi khi vua muốn triệu ai thì
chọn thẻ giao cho viên nội giám giữ việc ấy để đem
đèn đến treo trước cửa người cung phi được chọn. Cô
này thấy hiệu bèn trang điểm rồi trút bỏ xiêm y,
viên nội giám dùng một cái áo choàng rộng màu đỏ bọc
lại rồi ẵm đến tận cung vua. Sau đó viên này phải
ghi rõ ngày giờ vào sổ để nếu sau có sinh con trai
thì đó là bằng chứng.
Theo ông Hoàng Xuân Hãn thì từ cuối đời Hán hoạn
quan mới tiếm quyền trong triều, nắm giữ cả văn ban
lẫn võ ban, kết giao với các đại thần, gây vây
cánh...
Năm 1653, vua thấy hoạn quan lũng đoạn triều
chính thái quá bèn ra sắc lệnh không cho những người
này làm quan quá tứ phẩm, cấm dự bàn quốc sự, cấm
không đuợc giao hảo với các đại thần, nếu không sẽ
bị họa phân thây. Tuy nhiên, trên thực tế, đạo luật
này ít khi được áp dụng.
I.- Những
hoạn quan ở nước ta
* Đời Lý
Lý Nhân Nghĩa.
Nói đến hoạn quan đời Lý ai cũng nghĩ ngay đến
Lý Thường Kiệt nhưng viên hoạn quan đầu tiên được
nêu tên trong sử lại là Lý Nhân Nghĩa.
Năm 1028, vua Lý Thái Tổ băng hà, thái tử Phật
Mã lên ngôi, ba vương là Đông Chính, Dực Thánh và
Vũ Đức mưu phản, đem quân mai phục trong Long
Thành và ngoài cửa Quang Phục. Thái tử biết có
biến sai vệ sĩ phòng giữ và sai bọn hoạn quan đóng
các cửa điện, nhưng dùng dằng không nỡ quyết liệt
với anh em. Nội thị Lý Nhân Nghĩa xin ra đánh, tâu
: "Nay ba vương làm phản thì là anh em hay cừu
địch ?...Tiên đế cho điện hạ là người có đức, có
thể nối được chí nên lấy thiên hạ phó thác cho
điện hạ, nay giặc đến tận cửa cung mà ẩn nhẫn như
thế thì đối với sự phó thác của tiên đế ra sao ?". Thái tử lẳng lặng hồi lâu nói : "Vì ta muốn
giấu tội ác của ba vương cho tự ý rút quân để trọn
nghĩa anh em". Sau thấy ba vương đánh gấp, thái
tử liền ủy cho bọn Lý Nhân Nghĩa và cung quan là
Dương Bình, Quách Thịnh, Lý Huyền Sư, Lê Phụng
Hiểu đánh dẹp. Hiểu giết được Vũ Đức, còn Đông
Chinh và Dực Thánh chạy thoát.
Đến tháng tư năm 1028, vua Thái Tông đi đánh
phủ Trường Yên, cũng giao cho Lý Nhân Nghĩa ở lại
giữ kinh sư, phòng Khai quốc vương làm phản
(1).
Xem thế đủ biết Lý Nhân Nghĩa không phải loại
hoạn quan nô bộc mà là người có quyền can gián vua
và rất được vua tín nhiệm.
Lý Thường Kiệt (1019-1105).
Lý Thường Kiệt quê ở Thăng Long, húy là Tuấn,
tự là Thường Kiệt. Người cha sung chức Sùng ban
lang tướng. Năm Thường Kiệt 13 tuổi thì mồ côi
cha. Người chồng của cô là Tạ Đức thấy có chí bèn
gả cháu gái là Thuần Khanh và dậy cho binh thư Tôn
Ngô. Trước năm 1040 Thường Kiệt cũng được học đạo
Nho.
Nhờ phụ ấm, lúc đầu giữ một chức quan nhỏ là Kỵ
mã hiệu úy. Năm 23 tuổi (1041) sung chức Hoàng môn
chỉ hậu, khi ấy đã là hoạn quan. Có hai thuyết nói
về việc Thường Kiệt tự hoạn :
- Vì vua thấy Thường Kiệt mặt mũi đẹp đẽ nên
cho 30.000 quan, bảo tự hoạn để vào cung hầu hạ ;
- Vua Thái Tông đánh Chiêm Thành bắt được Nùng
Trí Cao lại tha về. Thường Kiệt can ngăn, vua cho
là thất lễ bắt phải tĩnh thân, sau đó triệu cho
vào hầu cận.
Thuyết đầu có lẽ có lý hơn vì em ông là Thường
Hiến cũng là hoạn quan, chẳng lẽ vua cũng bắt tự
hoạn chỉ vì Thường Kiệt "thất lễ" ? Ông Hoàng
Xuân Hãn còn vạch ra rằng từ khi bình Chiêm, tha
Nùng Trí Cao đến khi bắt Thường Kiệt tự hoạn rồi
lại trọng dụng chỉ vỏn vẹn có mấy tháng, thời gian
hơi ngắn để làm đủ từng ấy chuyện.
Vào cung chưa được một kỷ (12 năm) Thường Kiệt
được thăng Đô Tri, coi tất cả mọi việc trong cung
cấm.
Năm 1054, vua Lý Thánh Tông lên ngôi, Thường
Kiệt sung chức Bổng hành quân quốc Hiệu úy, rồi
Kiểm hiệu Thái bảo, một chức rất cao tại triều.
Năm 1601, vua sai ông dẹp loạn ở cõi Tây nam,
Man Lào.
Năm 1069, vua Thánh Tông thân chinh đánh Chiêm
Thành, phong ông làm Đại tướng, cho em ông là
Thường Hiến giữ chức Tân kỵ vũ úy. Thường Kiệt bắt
được Chế củ, Củ dâng đất chuộc tội được tha về.
Thường Kiệt thăng Phụ quốc Thái phó (chức thứ ba
trong hàng Tể chấp) Đao Thụ Nam bình Tiết độ sứ
(chức thứ hai trong hàng tướng) Thượng Trụ quốc,
Khai quốc công, Thiên tử nghĩa nam (hàng vương).
Sau lại thăng Thái Úy Đồng Trung Thư môn hạ Bình
chương sự (chức thứ hai sau Thái sư Lý Đạo Thành)
trông nom quốc chính.
Năm 1072, Thánh Tông mất, Nhân Tông là con Ỷ
Lan Thái phi lên ngôi. Lý Đạo Thành ở ngôi Tể
tướng đã 18 năm, nay làm Phụ chính, tôn Thượng
Dương Thái hậu lên chấp chính nhưng Thường Kiệt
lại tôn phò Ỷ Lan, chia thành hai phe. Bốn tháng
sau phe Thường Kiệt thắng, Lý Đạo Thành bị giáng
chức.
Năm 1073, vua Nhân Tông ban cho Thường Kiệt
chức Đôn quốc Thái úy, Đại tướng quân, Đại Tư đồ
coi việc văn võ kiêm cả chức cấm quan.
Năm 1075, nhà Tống định thôn tính nước ta,
Thường Kiệt biết ý đón đánh, Tống quân thất bại
phải lui về.
Năm sau nhà Tống sang báo thù, nhưng thủy quân
không tinh nhuệ bằng quân Nam, lại thất bại lần
nữa. Thường Kiệt không muốn chiến tranh kéo dài,
dùng biện sĩ dàn hòa. Năm 1077 Tống lui binh, tổn
thất binh sĩ, tiền của rất nhiều mà chỉ chiếm được
có 5 châu miền rừng núi. Thường Kiệt lại dùng mưu
kế chiếm lại 5 châu, khi thì dùng vũ lực, lúc xúi
dân cướp phá, hoặc giảng hòa đòi đất...
Khi đánh Tống, ông làm bài thơ khuyến khích
quân sĩ, nay còn lưu truyền :
Nam quốc sơn hà, Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
dịch nghĩa :
Sông núi nước Nam, Nam đế ở,
Phận định nghìn xưa tại sách Trời.
Như bọn giặc nào sang cướp lấn,
Là thua tan hết lũ bay coi.
(Đại Việt sử lược, tr. 159)
Năm 1082, vua Nhân Tông trưởng thành, tự cầm
quyền chính, cho Thường Kiệt ra trấn giữ Thanh Hóa
trong 19 năm.
Đến 1101, Thường Kiệt được triệu về kinh coi
hết các việc trong ngoài cung điện.
Năm 1104, Chiêm Thành quấy nhiễu miền nam,
Thường Kiệt lúc ấy đã 85 tuổi, kéo quân vào, quân
Chiêm vội lui, Thường Kiệt cũng không đuổi theo.
Vua chế bài hát tán dương công trạng Thường Kiệt,
lại ban thêm chức tước.
Năm 1105, Lý Thường Kiệt mất ở kinh đô, thọ 86
tuổi. Mộ táng ở làng Yên Lạc, huyện Kim Động, tỉnh
Hưng Yên. Được truy phong Nhập nội điện, Đô tri
Kiểm hiệu Thái úy, Bình chương quân quốc trọng sự,
Việt quốc công, cho thực ấp vạn hộ(2).
* Đời Trần
Phạm Ứng Mộng
Sử chép năm 1253, vua
Trần Thái Tông một hôm chiêm bao thấy thần nhân
trỏ vào một người bảo có thể làm Hành khiển (chức
Tể tướng thứ hai, chế độ nhà Lý dành cho hoạn
quan). Đến năm 1254, một hôm đi chơi ngoài thành,
vua gặp một người giống hệt người trong mộng bèn
cho 400 quan tiền, bảo tự thiến để vào hầu, đặt tên
là Ứng Mộng. Sau quả nhiên làm đến chức Hành khiển(3).
Theo Samuel Baron(4) thì đời Trần có
một trong ba hoạn quan danh tiếng tên là " Ong Ja
Tu Lea " (" Ong Ja " trỏ vào người đáng kính) nổi
tiếng vừa nhờ tài trí, thăng chức mau chóng, vừa
vì cái chết bi thảm. Chính ông là người vua Trần
đã thấy trong mộng và cho tiền để tự hoạn, sau làm
quan càng ngày càng quyền cao, chức trọng, được
mọi người kính nể, xu nịnh, sợ hãi còn hơn sợ vua.
Do đó vua chán ghét, cuối cùng hạ lệnh xử tử bốn
ngựa phanh thây, đem xác đốt thành tro, đổ xuống
sông. Như thế thì " Ong Ja Tu Lea " hẳn là Phạm
Ứng Mộng, song không thấy sử chép Phạm Ứng Mộng
còn có tên là " Tu Lea ", và cũng không thấy nói
Phạm Ứng Mộng bị xử tử.
* Đời Lê
Lương Đăng.
Tháng giêng năm
1437, Vua Lê Thái Tông sai Hành khiển Nguyễn Trãi
cùng với Lỗ bộ ty giám Lương Đăng đốc làm loan
giá, nhạc khí, dậy tập nhạc và múa. Đến tháng 5,
Nguyễn Trãi tâu : " Bọn thần sở kiến không giống
nhau, thần xin trả lại mệnh ấy ". Lương Đăng dâng
nhạc mới bắt chước quy chế của nhà Minh, định các
nghi thức đại triều. Vua theo đề nghị của Lương
Đăng, sai chép lại các nghi thức ấy treo ở ngoài
cửa Thừa Thiên. Vua lễ yết Thái miếu, các quan mặc
triều phục làm lễ bắt đầu từ đấy.
Bọn hành khiển Nguyễn Trãi, Tham Tri hạ tịch
Nguyễn Tuyển, Đào Công Soạn, Nguyễn văn Huyến,
Tham nghị Nguyễn Liễu tâu : " Đặt lễ, làm nhạc,
được như Chu Công thì mới không có ai chê trách.
Nay sai kẻ hoạn quan Lương Đăng một mình định lễ
nhạc, cả nước chẳng nhục lắm ư ? Lễ nhạc của y
không bằng cứ vào đâu, như đánh trống là báo giờ
ra chầu buổi sớm, nay vua ra chầu rồi mới đánh
trống. Theo quy chế xưa, lúc vua ra, bên tả đánh
chuông hoàng chung, rồi 5 chuông bên hữu ứng theo.
Nay vua ra chầu đánh 108 tiếng chuông, đó là số
nhà sư lần tràng hạt... Làm xe thì đằng trước có
rèm, đằng sau mở cửa, nay mở cửa ở đằng trước,
quy chế đời xưa như thế sao ?... ".
Đăng tâu : "
Thần không có học thuật, không biết quy chế đời
xưa, nay làm ra chỉ biết hết kiến thức của thần,
việc nên thi hành hay không là quyền ở bệ hạ, thần
đâu dám chuyên ".
Nguyễn Liễu nói : " Từ xưa chưa
có hoạn quan nào chuyên phá hoại thiên hạ như thế
". Hoạn quan Đinh Thắng từ bên trong mắng ra : "
Hoạn quan làm gì mà phá hoại thiên hạ ? Nếu phá
hoại thiên hạ thì chém đầu ngươi trước ". Bèn giao
Liễu cho hình quan xét tội, xét án xong, tội đáng
chém, vua đặc chỉ cho thích chữ vào mặt, lưu ra
viễn châu(5).
Vua coi chầu lúc ra lúc vào có đập roi dẹp
đường bắt đầu từ đấy.
Tháng 10, Lương Đăng thăng chức Đô giám. An phủ
sứ Lạng Sơn, Bùi Cầm Hổ can : " Tiên đế thấy Lương
Đăng biết chút chữ nghĩa cho làm nội nhân Phó
chưởng, nhưng rồi thấy hắn chỉ khúm núm bề ngoài,
không thẳng thắn, không thể gần gũi được mới cho
ra làm văn đội. Thế mà nay cho lên chức quan to,
xin bệ hạ nghĩ lại "(6).
Lương Đăng làm quan to nhưng không tham dự
triều chính, không kết bè đảng nắm giữ quyền uy,
không giết hại ai, chỉ vì đặt quy chế lễ nhạc
không giống với Trung Quốc mà bị các đại thần xúm
nhau lại chê trách.
Hoàng Công Phụ
sinh quán ở
Thăng Long, đẻ ra đã có khuyết tật. Năm 14 tuổi
vào hầu trong phủ Chúa Trịnh, dần dần được Chúa
tin dùng, uy quyền tột bậc.
Năm 1739, Trịnh Giang nghe lời Hoàng Công Phụ
triệu sĩ tử vào thi ở phủ đường, cho Trịnh Tuệ đỗ
Tiến sĩ cập đệ, đệ nhất danh. Không đầy vài năm
Tuệ làm đến chức Tham tụng đứng đầu các quan trong
phủ chúa.
Trịnh Giang mắc bệnh kinh quy, sợ sấm sét, Phụ
sai đào hầm làm cung Thưởng Trì cho ở, không ra
đến ngoài nữa, nói vì dâm dục quá nên ác báo. Rồi
Phụ cùng Trịnh Tuệ và đồ đảng chuyên quyền, giết
hại đại thần không kiêng kỵ sợ hãi ai, phủ dịch
nặng nề, lòng dân oán thán. Nguyễn Cừ, Nguyễn
Tuyển ở Hải Dương xui dân làm loạn, người các xứ
Đông, Nam, Bắc theo rất nhiều.
Năm 1740, Thái phi Vũ Thị, mẹ Trịnh Giang và
Trịnh Doanh, muốn triệt bớt uy quyền của Phụ, cho
Doanh lập " Phủ đề nhiếp ". Phụ ghét Doanh sáng
suốt, quả quyết, chỉ cho ở nhà nhỏ phía nam phủ
chúa, lại cấm các quan không được dùng chữ " Bẩm "
khi tâu với Doanh mà phải dùng chữ " Thân "
(=Trình).
Khi tin cáo cấp về Nguyễn Tuyển đến kinh, Phụ
nghĩ Tuyển trước ở nhà mình, có quen biết, muốn
thân đi vỗ yên, đem hết binh lính bản bộ theo, bỏ
kinh thành trống. Bọn Nguyễn Quý Kính muốn ép
Doanh lên ngôi. Nội giám Phan Lại Hầu lên tiếng
hặc, Tào Thái đem sắc chỉ của vua đến, Phan đứng
cạnh la trách. Đô đốc Đồng tri Trịnh Khuông mắng
là vô lễ, sai giam ngục. Nguyễn Công Thái truyền ý
chỉ của Thái phi, Khuê quận công Giáp Nguyễn Khoa
(hoạn quan) lên lầu nổi hiệu trống, các quan lạy
mừng Doanh lên ngôi.
Năm 1761, Doanh đặc biệt thưởng công mười người
phò lập mình, trong số đó có Giáp Nguyễn Khoa Khuê
quận công được ruộng thái ấp để hưởng lộc.
Không thấy sử chép số phận Hoàng Công Phụ ra
sao(7).
Phạm Huy Đỉnh ( ?- 1776)
người xã Cao Mỗ huyện Thần Khê. Khi Trịnh
Sâm còn là Thế tử, Chính phi của Trịnh Doanh là
Nguyễn Thị Vinh, ngăn không cho Sâm ngồi cùng mâm
với Thái tử Lê Duy Vĩ để giữ lễ vua tôi. Sâm căm
giận Thái tử, sau khi lên cầm quyền, năm 1769, mưu
với Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Huy Đỉnh vu cho Thái tử
thông dâm với cung nhân của Trịnh Doanh, sai Đỉnh
đem thân binh đi bắt. Thái tử biết, trốn vào tẩm
điện của vua. Đỉnh đến Đông cung không tìm thấy,
đi thẳng vào điện vua kể tội Thái tử, điệu về phủ
Chúa. Sâm sai lập án, bắt vua ký, giáng Thái tử
làm thường dân, giam lại. Năm 1771, lại vu cho bọn
Trần Trọng Lâm, Nguyễn Hữu Kỳ...muốn cướp ngục đem
Thái tử ra. Sâm sai tra tấn, Vũ Bá Xưởng đau quá
nhận bừa. Thái tử bị ghép tội xử giảo.
Năm 1773, Đỉnh thăng chức Thự phủ sự (Tể tướng)
phủ Chúa. Lê Quý Đôn tuy tài giỏi, nhưng cả Trịnh
Doanh và Trịnh Sâm đều không trọng dụng, phải kết
giao với Đỉnh, sau được giữ chức Bồi tụng (Phó Tể
tướng).
Sâm lại nghe Hoàng Ngũ Phúc cho Đỉnh làm Hiệp
đốc suất đạo Thanh Hoá, tước Công hai chữ (nhỏ hơn
tước Công một chữ, như Bằng Công thì cao hơn Bằng
Trung Công), phong là Đại vương.
Năm 1776, Thự phủ sự Thiều quận công Phạm Huy
Đỉnh mất ở Nghệ An, truy phong Phúc thần.
Đỉnh là người có tính đố kỵ, hà khắc, thâm độc,
nhiều lần gây ra những vụ án lớn như vụ giết Thái
tử Duy Vĩ (8).
Hoàng Ngũ Phúc (1713 - 1776)
người xã Phụng Công, huyện Yên Dũng, xứ
Kinh Bắc. Lúc trẻ tự hoạn để được vào hầu trong
cung.
Năm 1740, giữ chức Tả Thiếu giám, tước Việp
Trung hầu.
Năm 1743, đề xuất 12 điều quân pháp, được Trịnh
Doanh cho thi hành.
Từ 1744 đến 1750, cùng Phan Đình Trọng dẹp loạn
Nguyễn Hữu Cầu, thu phục lại Kinh Bắc. Cầu phải
chạy vào Nghệ An. Phúc được phong Trấn thủ Kinh
Bắc kiêm thống lĩnh Bắc đạo, tước Việp quận công.
Năm 1751 đánh Nguyễn Doanh Phương, bắt được ở
Lập Thạch, công bậc nhất, được phong Đại Tư đồ,
Trấn thủ Sơn Nam.
Đến 1765 được ban kim bài khắc bốn chữ " Dự
quốc đồng hưu " (cùng hưởng yên vui, sung sướng
với nước).
Năm 1769 cùng Trịnh Sâm và Phạm Huy Đỉnh vu tội
cho Thái tử Duy Vĩ rồi đem giết.
Đến 1774, xin về hưu, được ban cho hiệu Quốc
lão.
Sau Sâm lại triệu ra phong Thượng tướng, sai
đem 36000 quân thủy bộ đánh dẹp miền Nam, Phúc
luôn luôn thắng trận, tiến đến Phú Xuân, bắt được
Trương Phúc Loan, chúa Nguyễn phải bỏ chạy.
1775 tiến vào Quảng Nam, chiếm được hai đồn Câu
Dê và Trung Sơn rồi mới cho quân tạm nghỉ.
Vì mắc bệnh tê liệt, được trở về Thăng Long.
Trên đường về kinh sư, mất ở trên thuyền tại Vĩnh
Dinh (Nghệ An) năm 1776.
Hoàng Ngũ Phúc tư thế oai phong, quân lệnh
nghiêm minh, hành quân rất có kỷ luật. Khi chiếm
được Phú Xuân, Phúc thu nhặt những thứ quý giá
dâng chúa Trịnh, còn thì niêm phong.
Thuộc hạ Thế trung hầu Hoàng Đình Thể cướp của
dân, Phúc sai Uông Sĩ Điển tra hỏi, đem trả lại
dân rồi không bàn đến chuyện thưởng công đánh được
Lũy Thầy.
Với Nguyễn Nhạc, Phúc tỏ ra viên tướng biết
quyền bính, thay triều đình làm tờ hiểu dụ, ban
cho Nhạc mũ áo...
Khi Phúc đi Nam chinh, Sâm mấy lần gửi trát
thăm hỏi, đưa chỉ dụ khen, thưởng vàng bạc, quần
áo đồ dùng, sâm quý vài mươi lạng, cho chạy ngựa
trạm đem đến. Lại thăng cho làm Đại Trấn thủ Thanh
Hoá...
Phúc ốm nặng còn gửi khải về tâu bàn với Chúa
khoan đánh Quảng Nam, hãy cho quân sĩ nghỉ ngơi
vài năm, Sâm nghe theo.
Khi Phúc mất, Sâm bãi chầu.
Phúc có tiếng là người cẩn trọng, việc lớn nhỏ
trong quân đều tự mình xem xét, dụng binh không
cậy may rũi, xử sự quả quyết, trung tín, rất được
lòng người. Nguyễn Hữu Chỉnh coi Phúc là quan
thầy.
Phúc không có con, nuôi người cháu là Hoàng
Đình Bảo (tức quận Huy) làm con nuôi. Bảo lại lấy
con gái chúa Trịnh Doanh. Vây cánh, thuộc hạ của
Phúc đầy triều, quyền uy lừng lẫy
đến nỗi dân
chúng đồn là Phúc muốn cướp ngôi để lập " Triều
đình Hoàng thị " sau này truyền cho Bảo, đặt ra
những lời sấm truyền :
" Thổ sất vân yểm nguyệt " = con rể là đám mây
che mặt trăng (chỉ chữ " tế " = con rể, tức Hoàng
Đình Bảo).
" Hoàng hoa nhật điệu hương " = hoa vàng càng
ngày càng tỏa hương thơm (chỉ chữ " Việp ", tức
Hoàng Ngũ Phúc).
Còn có câu " Một lợn đuổi đàn dê " vì Bảo tuổi
hợi (con lợn) còn Sâm và Khải đều tuổi mùi (con
dê) ; Bảo trước tên là Đăng Bảo, có thể hiểu là
"lên ngôi vua ", Phúc muốn tránh hiềm nghi cho đổi
ra Tố Lý, sau mới đổi lại thành Đình Bảo.
Phúc là một viên tướng lỗi lạc, chiến công,
danh vọng nhiều, đối với chúa Trịnh tỏ ra hết lòng
trung trực, duy có chuyện nhúng tay vào vụ giết
Thái tử Duy Vĩ là một hành động không được quang
minh.
Sau khi chết được truy tặng Thượng đẳng Phúc
thần(9).
* Đời Nguyễn
Lê văn Duyệt (1763 - 1832)
sinh quán làng Bồ Đề, huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi.
Năm 1780, Nguyễn Ánh biết Duyệt có khuyết tật,
sung làm Thái giám nội dinh.
Năm 1800, Duyệt dùng hỏa công đốt thuỷ trại Tây
Sơn ở cửa bể Thị Nại, thu phục Qui Nhơn.
1812, làm Tổng trấn Gia Định cho đến 1816 thì
về kinh.
1820 lại ra giữ chức Tổng trấn Gia Định cho tới
khi mất.
Duyệt là một viên tướng tài, giúp Chúa Nguyễn
Ánh đánh Trịnh, dẹp Tây Sơn, biết quyền biến.
Tuy có tính trực ngôn nhưng ngoại giao cũng
khôn khéo. Khi sứ Xiêm đến Hà Tiên, năm 1820,
không chịu trình quốc thư, lời lẽ có chỗ không hợp
lệ, triều đình giao cho ông tuỳ nghi hành sự, ông
bắt bẻ, sứ Xiêm phải nhận lỗi và nhất nhất vâng
lời. Sứ Xiêm đem vàng bạc tặng, ông không nhận(10).
Là một nhà chính trị xuất sắc, ông rất được
lòng dân, người ta tôn xưng ông là Đức Thượng
công.
Cả hai vua Gia Long và Minh Mệnh đều biệt đãi
ông. Khi cha ông tạ thế, năm 1827, triều đình
không những gia phong chức tước, ban tiền bạc, còn
sai quan đến tế và 300 lính hộ tang. Khi ông ốm ở
Gia Định, cũng được tạm nghỉ việc để điều dưỡng,
lại cho phép con ông là Kiêu kỵ đô uý Lê văn Yến
đi thăm nom.
Theo người Pháp thì khi vua Gia Long mất, ông
có ý muốn tôn phò dòng chính thống, hậu duệ của
Hoàng tử Cảnh, lại khi vua Minh Mệnh lên cầm
quyền, ông khuyên can không nên bạc đãi những công
thần người Pháp nên bị vua để bụng ghét. Sau khi
ông mất, năm 1833, vua giao cho triều đình nghị
tội mưu phản, san bằng ngôi mộ, dựng bia đeo xiềng
mang hàng chữ " Quyền yêm Lê văn Duyệt phục pháp
xử " (= tên hoạn quan Lê văn Duyệt chịu phép nước ở
đây). Sau dân chúng đổ cho là vì xúc phạm đến mộ
phần của ông nên Trời ra tai, nên đến 1835, vua Tự
Đức cho ông phục chức Vọng các công thần Chưởng tả
quan, Bình tây tướng quân, tước quận công và được
thờ trong miếu Trung Hưng công thần.
Lăng ông ở Gia Định
(11).
II.- Chức vụ và phẩm phục
A/ Chức vụ
Trên nguyên tắc, hoạn quan
chỉ giữ những công việc hầu hạ trong cung. Michel
Đức Chaigneau kể khi lên 8 tuổi được triệu vào cung
gặp hoàng hậu và các phi tần của vua Gia Long, do
một viên hoạn quan dẫn đường. Viên này mặc một chiếc
áo ngắn màu lam, quần lụa trắng, chít khăn rộng bản,
cung kính đi sau một quãng chứ không dám đi ngang
hàng. Lần thứ nhì, khoảng hai chục tuổi, sau khi ở
Pháp trở lại Việt Nam, Michel Đức lại được vua Minh
Mệnh triệu vào cung hỏi han chuyện nước Pháp. Michel
Đức liếc thấy trong phòng có một bọn " đầy tớ "
chừng 15-20 tuổi, đứng ở góc phòng, tựa lưng vào
tường đợi lệnh. Hễ vua ra hiệu thì lập tức quỳ dâng
điếu thuốc lá đã châm sẵn và trước khi dâng phải hút
thử vài hơi...
Theo S. Baron, chúa Trịnh
rất ưa hoạn quan. Những người này sau khi phục vụ độ
8 năm trong triều liền được cất nhắc ra giữ những
chức quan trọng, có khi lấn át cả các đại thần có
thực tài.
Riêng chúa Trịnh Khải thì sự
liên hệ với quan hoạn không phải là ít. Nguyên mẹ
Trịnh Khải là Dương thị Ngọc Hoan không được Trịnh
Sâm ưa. Một hôm nằm mơ thấy thần nhân cho một tấm
đoạn có vẽ đầu rồng, tỉnh dậy kể cho hoạn quan Khê
Trung hầu Chu Xuân Đán nghe. Hầu cho là điềm sinh
quý tử, có ý giúp đỡ. Khi Sâm cho đòi Ngọc Khoan
(cũng có chỗ chép là Ngọc Hoàn) vào chầu, Hầu giả
cách nghe nhầm đưa Ngọc Hoan tới, Sâm không nở đuổi
về, sau trách mắng thì Hầu đem chuyện kể lại, Sâm
nín lặng. Sau đó Ngọc Hoan có thai sinh ra Trịnh
Khải nhưng Sâm vẫn không ưa, trù trừ không muốn lập
làm thế tử, chỉ định cho hoạn quan Nguyễn Phương
Đỉnh làm Bảo phó... Khi Trịnh Khải mưu cướp ngôi
Trịnh Cán, Sâm sai Ngô Thời Nhậm cùng bọn hoạn quan
Ngạn Trung Hầu, Đường Trung Hầu, Án Trung Hầu cùng
tra án(12).
Người ta trách hoạn quan chỉ
nhờ xiểm nịnh được lòng vua chúa, rồi nắm quyền
chính, tác oai tác phúc...song ta đã thấy Lương Đăng
làm quan to nhưng không hề tham dự quốc sự, gây bè
đảng làm mưa làm gió, mà chỉ hoàn tất việc quy định
mũ áo và lễ nhạc, song vẫn bị các đại thần chê
trách.
Trong Vũ Trung Tuỳ Bút
có Tả Chí Hầu cũng là hoạn quan có thực tài,
hiểu thuật bóp gân xương, biết hát xướng, xem tướng,
vẽ truyền thần giỏi.
Những hoạn quan tiến cống
cho Trung Quốc có một số được sử sách nhắc đến :
Minh Thái Tổ bắt ta cống nộp
sư sải, gái đẹp biết đấm bóp và hoà giả (hoạn quan),
sau thả sư và gái đẹp về chỉ giữ lại hoạn quan và
đãi rất hậu. Năm 1405, Minh Thành Tổ mưu đồ xâm
lăng, sai bọn hoạn quan Nguyễn Toán, Nguyễn Trung,
Từ Cá, Ngô Tín đi sứ, dò xét địa hình nước ta. Bọn
này dặn họ hàng hễ quân Minh tràn sang thì dựng cờ
biên rõ là thân thuộc của nội quan nào thì sẽ thoát
nạn. Hồ Hán Thương biết chuyện sai giết hết thân
thuộc bọn Nguyễn Toán (13).
Tuy nhiên, những người bị
tiến cống cho Trung Quốc không phải toàn bọn bán
nước lập công mà còn có những người có biệt tài như
Trần Vũ và Nguyễn An.
Minh sử chép rằng niên
hiệu Vĩnh Lạc, Minh Thành Tổ ra lệnh lùng bắt những
văn nhân Giao Chỉ cất nhắc cho giữ chức Tri huyện
hay Tri phủ, lập tuyển bọn trung quan (hoạn quan)
lấy người ngay thẳng, trung hậu, mẫn cán, thông
suốt, cho hầu nội cấm sảnh. Trần Vũ được tuyển vào
hầu Tuyên Công, thăng chức Thái giám, sau cho đổi
tên thành Vương Ngọc Cận, đi theo vua đánh Cao Hú
(tức con Minh Thành Tổ, làm phản) có công to được
ban đai ngọc, yên vàng, ngựa tốt, vàng lụa...lại đúc
bốn quả ấn vàng khắc những chữ " Trung can nghĩa đảm
" (lá gan trung thành, quả mật nghĩa khí), " Kim
điêu quý khách " (quý khách đội mũ điêu vàng, tức mũ
hoạn quan có con ve bằng vàng), " Trung thành tự lệ
" (tự mài dũa lòng trung), " Tâm tích song thanh "
(bụng dạ và hình tích đều trong sáng).
Theo Hoàng Minh thông ký
có Nguyễn An trải 5 đời vua Minh (Thái Tông,
Nhân Tông, Tuyên Tông, Anh Tông và Cảnh Tông) là
người giản dị, khắc khổ, cứng rắn, liêm khiết, giỏi
về mưu mẹo, tính toán, rất sở trường những công việc
xây dựng. Việc tu tạo thành Bắc kinh 9 cửa, 2 cung,
3 điện, 5 phủ, công đường, nha môn 6 bộ và các
trường xưởng, nhà trạm, An đều thân hành xếp đặt, tỏ
ra rất có công lao. Các tơ tào trong bộ Công chỉ
việc theo kế hoạch của An mà làm. Bình sinh được vua
ban cho thứ gì đều đem nộp lại kho công không sót
một li (14).
Thời nhà Nguyễn, vua Minh
Mệnh thấy các hoạn quan đời trước chuyên quyền, lũng
đoạn triều chính (có người nói vì vua ghét Lê văn
Duyệt) nên năm 1836 hạ lệnh từ nay hoạn quan không
được giữ những chức phẩm như các quan đại thần, làm
quan cũng không được quá tứ phẩm. Sắc lệnh này được
khắc bia đá để trước Quốc Tử Giám, đến năm 1918 vẫn
còn ở cạnh Văn Miếu.
Vua lại đặt ra những chức
tước riêng biệt dành cho hoạn quan :
Hạng Chức Lương tháng
Bát gạo quan tiền
Hạng nhất Thủ đẳng Quảng Vụ
và Điển sự Thái giám 48 72
Hạng nhì Thứ đẳng Kiểm sự và
Phụng nghi Thái giám 36 60
Hạng ba Trung đẳng Thừa vụ
và Điển thảng Thái giám 36 48
Hạng tư Á đẳng Cung sự và Hộ
Thảng Thái giám 24 36
Hạng năm Hạ đẳng Cung phụng
và Thừa biện Thái giám 24 24
3 hạng trên có quyền xin
chức Nhiêu phụ cho cha, và chức Miễn nhiêu cho an
hem hay cháu trai, hạng 4 và 5 chỉ được xin Miễn
nhiêu.
Vua Thành Thái không ưa hoạn
quan nên thay thế bằng cung nữ. Khi vua ngự thiện
(ăn) thì đầu bếp dâng mỗi người một món, đưa cho Thị
vệ đem đến cho nội giám, những người này lại chuyển
giao cho cung nữ quỳ dâng(15).
B/ Phẩm phục
* Đời Trần
Sách Toàn Thư chỉchép
hoạn quan đời Trần mặc áo xanh và từ 1306 dùng quần
hai ống chứ không dùng xiêm nữa.
Trong An nam chí lược
(tr. 222) Lê Tắc viết cặn kẽ hơn :
Các nội quan Thượng phẩm đội
mũ dương thường đính ong bướm vàng, mặc phẩm phục.
Bình thường thì đội khăn nhung mầu tía xen mầu biếc,
làm 6 tua kết sau khăn ; đai thắt ngang để tỏ vẻ
quan quý.
Hạng Trung phẩm mũ áo sắc
chế hơi giảm. Thường phục thì khăn kết tua mầu tía.
Hạ phẩm đội mũ dương thường
tía, áo tía ; khăn ngày thường có tua đen, dát ngọc,
vàng, đồi mồi.
Không dùng hốt.
Chắp tay lạy vua.
* Nhà Lê
quy định y
phục hoạn quan rất rõ ràng. Theo Lê triều chiếu
lịnh thiện chính thì các chức Tổng Thái giám, Đô
Thái giám, Quản đốc ty nội giám, tước quận công ăn
mặc như sau :
- Vào chầu vua đội mũ cánh
chuồn, mặc áo mầu hồng, bố tử thêu hổ báo (như các
hoàng tử, vương tử tước quận công), đai dát đồi mồi
bịt bạc, chân đi hia tất.
- Vào chầu phủ Chúa đội mũ ô
sa(16) áo lam có vạt che sau, giây lưng
kép dát ngọc.
- Đưọc đem theo hai người
hầu.
- Khi đi đường khăn chít
một, võng ba đòn sơn đen, yên ngựa sơn tía thếp
thau.
Đi ra ngoài thành thêm một
lọng mầu xanh, vẽ hoa xanh có ngù rủ.
- Áo mặc thường, bằng gấm
vóc các mầu, hòm áo sơn son thếp vàng một vạch, hòm
mũ sơn đen thếp chỉ vàng.
Cấm không được vẽ rồng,
phượng, kỳ lân.
Mâm, án thư bằng tre đan,
thếp chỉ bạc
Bát đĩa Tầu bịt thau.
*Thời nhà Nguyễn
theo sắc lệnh của vua Minh Mệnh thì mũ áo hoạn quan
như sau :
- Áo mầu lục cho các quan
cao cấp, mầu lam cho những người chức thấp, bố tử
mầu đỏ thêu hoa xanh lục.
Các Thái giám thời xưa đeo
một vòng lụa trắng rủ xuống hai bên ngực đến tận
thắt lưng, sau này chỉ đeo một thẻ bài ngà khắc rõ
chức phận.
- Mũ Thái giám bằng phẳng ở
trên đỉnh và hình bầu dục (khác với mũ các quan
triều hình tròn và nóc khum khum) có dát vàng bạc
theo chức tước và đính một quả bông.
Theo Hậu Hán chí,
thời xưa mũ hoạn quan có tua vàng điểm một con ve
sầu và một cái đuôi chuột, ngụ ý rằng ve sầu thanh
khiết chỉ sống toàn bằng sương sớm, còn chuột thì có
thể len lỏi vào tất cả những chỗ rất kín đáo trong
thâm cung.
Viên hoạn quan mà Crawfurd
đã gặp năm 1822 (có lẽ là Lê văn Duyệt ?) tuy giữ
chức " Governor " (Tổng trấn ?) nhưng ăn mặc rất đơn
giản : áo lụa trắng trơn và khăn nhiễu cũng mầu
trắng.
III.-
Đời sống
Hoạn
quan có hai loại :
-
Một loại sinh ra đã có khuyết tật hay bị tai nạn,
như chó cắn, mà thành tật. Người xưa tin rằng những
người này có số làm quan to.
-
Loại thứ nhì tự hoạn hay do cha mẹ đem con ra thiến.
Hạng
thứ nhất, khi đứa trẻ sinh ra thấy có tật, thì gia
đình hay xóm làng liền khai trình xin cho lớn lên
được sung chức nội thị. Khoảng 10 tuổi đứa trẻ được
tiến cung, giao cho các hoạn quan già huấn luyện
công việc chầu hầu trong cung.
Hạng
thứ nhì thì từ triều Lý đã có lệnh nghiêm cấm : Năm
1162, xuống chiếu kẻ nào tự thiến xử 80 trượng,
thích 23 chữ vào mặt.
Quốc triều hình luật thời Lê cũng chép : " Ai tự
hoạn xử tội lưu, ai thiến hộ hoặc chứa chấp giảm tội
một bậc, xã quan không phát giác xử tội đồ (giam cầm
làm khổ sai)(17).
Sở dĩ có lệnh nghiêm cấm như thế vì hoạn quan có thể
giữ những chức vụ trọng yếu, có nhiều quyền uy, giúp
đỡ gia đình hay xóm làng được nên nhiều người ham.
Lê triều chiếu lịnh thiện chính cho biết các nội
giám sung chức Thái bảo, Thái sư, Thiếu sư, Thái
phó, Thiếu phó với tước quận công thì 8 người con
được phong là Quan viên tử, 7 người cháu được phong
là Quan viên tôn(18).
Đọc
đến đây hẳn ai cũng lạ : đã là hoạn quan sao lại có
con ? Hiển nhiên trường hợp này xẩy ra đủ nhiều để
có cả một đạo luật dành cho con cháu hoạn quan.
Cương mục chẳng hạn chép năm 1480 khi Nghi Dân
nổi loạn, nội quan Thị hậu Phó chưởng Đào Biểu tử
tiết, gia sản bị sung công. Khi Thánh Tông lên ngôi,
truy tăng Đào Biểu một tư, ban cho 5 mẫu tư điền để
cúng tế, lại trả điền sản bị tịch thu trước cho vợ
con(19).
Có
lẽ những người này, như Lý Thường Kiệt, đã lấy vợ
trước khi tự hoạn, hoặc cũng muốn có gia đình riêng,
lấy một cung nữ đã bị thải hay lấy con nhà hàng phố
rồi nuôi con nuôi. A. Laborde kể chuyện ở Huế xưa có
một thiếu phụ lấy chồng hoạn quan nhưng ngây thơ
không hiểu chồng mình bất bình thường, mãi đến khi
chồng chết, đi cải giá mới rõ và đem chuyện mình tâm
sự với một vài người bạn.
Cũng
theo Laborde, có một viên Đội Thị vệ bị án tử hình
vì ăn ở với một hoạn quan và...sinh ra một đứa con !
Chúa
Trịnh dùng tới 4-5000 hoạn quan nhưng đến đời vua
Thành Thái nhà Nguyễn vì không ưa hoạn quan nên số
người hầu cận vua trước có 15 sau chỉ còn 9. Đến năm
1918 lại có lệnh cấm bổ dụng thêm hoạn quan mới,
những người cũ cho tiếp tục giữ chức.
* Tướng mạo và tính
tình
dáng
điệu ẻo lả như phụ nữ, và tính tình khó thương, ngạo
mạn, vô lễ...dường như để bù lại những mặc cảm tự
ty. Sau đây là hoạn quan nhìn qua con mắt các chứng
nhân Việt cũng như ngoại quốc :
-
Năm 1778, Chapman, một người do công ty Ấn độ của
Anh gửi sang, đã gặp ở Huế một viên hoạn quan giữ
chức " Quan Tam Quon ", quyền uy vượt cả viên "
Viceroy " (Tổng trấn ?). Viên này có tánh hay hoạnh
hoẹ, khinh người. Trước hết bắt Chapman phải đứng
chờ ngoài cổng cả nửa giờ mới cho vào nhà. Vào rồi
cũng không thèm ra tiếp ngay, chỉ ở trong nhà hỏi
vọng ra mấy câu, mãi sau mới cho cuốn rèm lên và
Chapman thấy dưới ánh nến vàng vọt một đống thịt lù
lù, dị dạng, người có vẻ thấp lùn, má xệ xuống...Khi
Chapman phàn nàn những người dưới quyền mình bị
ngược đãi, viên Tổng trấn xin lỗi rằng ông không có
quyền hành gì, mọi sự cứ điều đình thẳng với viên
hoạn quan. Viên này tỏ ra rất vô lễ, chửi rủa và còn
sai đem tặng vật của Chapman, một chiếc đồng hồ, ra
trả lại nói rằng đồng hồ đã vỡ, trở nên vô dụng(20).
Ngày
2/9/1822, Crawfurd đã gặp một hoạn quan giữ chức "
Governor of Saigon " (có lẽ là Lê văn Duyệt ?) và tả
một cuộc gặp gỡ khá tường tận : " Giữa phòng, trên
một cái sập cao hơn thường lệ, là viên " Tổng trấn "
( ?) đang ngồi chễm chệ. Chúng tôi tiến lên cúi
chào, ông ta cứ ngồi yên không đáp lễ. Sau đó người
ta chỉ cho chúng tôi ngồi xuống dẫy ghế bên phải ông
ta, ghế bên trái dành cho viên quan cao cấp bậc nhì
trong phòng, những người khác đứng đằng sau hoặc
ngồi trên một cái sập khác. Viên " Tổng trấn " già
là một hoạn quan nhưng nếu không biết trước thì
không thể đoán ra. Tuy cằm ông ta không có râu và
giọng nói yếu ớt như đàn bà, nhưng chưa tới mức
khiến người ta phải nghi ngờ. Ông ta có vẻ không
quan tâm mấy tới y phục, chỉ mặc một áo lụa trắng
trơn và đội một chiếc khăn nhiễu rộng bản cũng mầu
trắng ". Crawfurd đem lễ vật ra tặng nhưng viên "
Tổng trấn " từ chối nói rằng hai bên đang ở thế điều
đình, tặng lễ vật bây giờ quá sớm, ông không thể
nhận. Crawfurd rất phục tư cách viên " Tổng trấn "
khi đem ông ta ra so sánh với các quan chức người
Xiêm. Nhưng vừa về đến nhà thì thấy "Tổng trấn" sai
người đem thực phẩm tới tặng : trâu, dê, lợn, gạo
vv... và nhân thể cho biết lúc nẫy quan " Tổng trấn
" không tiện nhận quà trước mặt công chúng nhưng
ngài rất vui lòng nhận mấy khẩu súng và cái ống viễn
kính mà Crawfurd định biếu(21).
Phạm
Khắc Hòe, trong Từ Triều đình Huế đến chiến khu
Việt Bắc kể rằng tháng 8 năm 1945, khi ông đi
chào bà Từ cung để ra Hà Nội, thì đột nhiên một viên
Thái giám già chạy đến trước mặt sụp lạy. Viên này
mặt xanh như tàu lá, đầu bạc, cằm không râu, má nhăn
nheo, miệng xệ xuống, mắt rưng rưng, cất giọng khàn
khàn hỏi về số phận của mình sẽ được định đoạt ra
sao? có được lĩnh lương tháng 8 hay không ? sau này
sẽ làm gì ?... Hỏi ra mới biết viên này do cha mẹ
thiến từ năm 12 tuổi, đời vua Thành Thái, đã gần 50
năm. Khi mới vào cung được học Tứ thư, Ngũ kinh, tập
làm việc vặt, đến 20 tuổi sung chức Thừa Biện Thái
giám, năm 1945 giữ chức Phụng nghi Thái giám. Nhiệm
vụ chính là chuyển đạt mệnh lệnh của vua tới phi tần
và khi vua ngự tới bà nào thì ghi chép ngày giờ cho
đúng để phòng việc tranh chấp về sau. Từ khi vua
Khải Định mất thì không phải làm việc này nữa, chỉ
còn nhiệm vụ chầu hầu bà Từ cung, giúp đỡ các phi
tần trong việc cúng bái, tu hành và liên lạc với bên
ngoài.
Năm
1958, cụ Vương Hồng Sển đi thăm lăng Diên Thọ (Gia
Long) nhằm ngày lễ Thanh minh, tình cờ được chứng
kiến một buổi tế lễ và liếc thấy nơi gian nhà sau
chỗ tế có một nhóm quan thị "rất đông", mặc áo màu
lam, đang đứng chờ tế lễ xong thì chia phần, có
người đã già sụm, kẻ còn sồn sồn, người nào cằm cũng
nhẵn thín không một sợi râu.
Hoạn
quan không phải người nào cũng xấu xí, ẻo lả. Trong
Vũ Trung tuỳ bút, Phạm Đình Hổ cho biết Tả
Chí Hầu, nội thị thời Trịnh Khương (Giang) "tướng
mạo hùng vĩ, phảng phất giống Việp quận công Hoàng
Ngũ Phúc".
A.
Laborde đã chụp được ảnh một viên hoạn quan 62 tuổi,
một trong những người có địa vị quan trọng hồi đầu
thế kỷ XX, trông coi một cái lăng, giữ gìn đồ thờ
cúng và phát lương cho 9 người cung nhân già ở đó.
Tiếc rằng Laborde không cho in ảnh viên hoạn quan mà
chỉ cho biết mặt mũi viên này giống mặt bà già, vú
cũng xệ xuống như ngực bà già.
*
Cung giám viện
Khi
các hoạn quan không phải hầu chầu thì có quyền rút
về Cung giám viện. Viện này gồm 9 gian, cũng là nơi
ăn học của các nội giám trẻ và là chỗ trú ngụ của
gia đình hoạn quan tới thăm. Năm 1918, viện đã đổ
nát chỉ còn nhà bếp, một cái miếu thờ thần và cái
cổng mang hàng chữ " Cung giám viện môn ".
*
Chùa Từ Hiếu

|