Những bài cùng tác giả
Trường Sơn là
địa bàn cư trú lâu đời
của cư dân bản địa nói ngôn ngữ Môn - Khmer, thuộc ngữ hệ Nam Á, trong đó có
dân tộc Tà Ôi.
Người Tà Ôi
có địa vực cư trú được
phân bố liên tục từ Nam đường
9 huyện Hướng Hóa - Quảng Trị vào đến Thừa Thiên Huế, mà mật độ cao nhất tập
trung ở huyện A Lưới. Là một huyện miền núi Thừa Thiên Huế, A Lưới là nơi
sinh sống chủ yếu của các dân tộc ít người như Tà Ôi, Cơ Tu, Vân Kiều, mà ở
đây, người Tà Ôi là cư dân chủ thể của huyện bởi chiếm tỷ lệ trên 60% tổng
số dân cư toàn huyện.
Tà Ôi là tên
gọi được sử dụng chính thức trong danh mục các dân tộc Việt Nam; đã
được
Lê Quý Đôn nói đến nhiều lần trong “Phủ biên tạp lục”; Ngoài ra còn có tên
gọi khác là Tàhôi, Tà uốt... và các nhóm địa phương là Pacoh, Pahy.Về
nhóm Pahy, theo PTS Nguyễn Quốc Lộc, hiện đang còn nhiều ý kiến khác nhau và
cho rằng Pahy là nhóm địa phương của dân tộc Vân Kiều.
Còn nhóm Pacoh, cũng theo PTS Nguyễn Quốc Lộc, chỉ là tên “phiếm xưng” mới được
sử dụng rộng rãi vào những năm 60, người Tà Ôi ở một số xã của huyện A Lưới
ưa thích dùng tên gọi này. Tiếng dân tộc, Pa là về phía, còn Cô là núi cao.
Người Tà Ôi gọi những người ở cao hơn mình là Pacoh, và cũng coi mình là
Pacoh khi so với người ở thấp hơn, hay phân biệt với Vân Kiều.
Trong đời
sống tinh thần, tín ngưỡng, người Tà Ôi quan niệm có một thế giới hư vô gồm
thần linh và ma quỷ cũng tồn tại với thế giới thực tại, để che chở, mang
điều tốt lành, hoặc sẽ trừng phạt, gieo mọi hiểm họa đến cho bản làng. Vì
thế, việc sùng bái, cúng tế thờ phụng các thần linh trong thiên nhiên xung
quanh họ là những lễ nghi luôn gắn bó mật thiết trong đời
sống của người Tà Ôi.
Có thể xuất
phát từ ý niệm “vạn vật hữu linh” của cư dân Đông Nam Á, người Tà Ôi quan
niệm mọi vật thể tồn tại, phát triển được
nhờ có linh hồn, và số phận con người phụ thuộc vào lực lượng siêu nhiên,
thế giới siêu linh. Những yếu tố vô hình thiêng liêng này quyết định cuộc
sống trên trái đất, được
người Tà Ôi gọi là Yang,
và thiên nhiên quanh họ như Trời, Đất, Núi, Sông, Cây cối... đều có các Yang
ngự trị (Yang Arơbang,
Yang Kutẹc, Yang Koeoh, Yang Đak, Yang Tro...). Trên bàn thờ của các gia
đình, các già làng có thờ một số vật dụng, có nơi là tấm Dèng (vải thổ cẩm),
có nơi là cái cồng... nhưng chỉ với ý nghĩa là vật thiêng, chứ không thể
hiện rõ nét yếu tố totémisme (Tô tem giáo), mà ở đây tín ngưỡng thờ thần
linh (Yang), tập đoàn thần linh là phổ biến hơn cả. Và, mặc dù, các Yang là
lực lượng siêu nhiên được
họ sùng bái, cúng tế - là chỗ dựa tinh thần, để cầu xin, phò trợ cho những
công việc vượt quá sức người, nhưng quan hệ lại rất bình đẳng, không cách
biệt lớn với Thánh, thần như trong quan hệ tín ngưỡng của người kinh, mà
sống chung, giao hòa... Tập thể Yang này sống cùng họ, sẵn sàng đến với họ
để cùng giải quyết mọi khó khăn lớn, nhỏ trong cuộc sống. Tóm lại, mối quan
hệ bình đẳng đó được
thể hiện với những giao ước đơn
giản
thường thấy trong các lời khấn: Nếu Yang đã hưởng những lễ vật do bản làng cúng, thì Yang phải có trách
nhiệm đem đến cho bản làng mọi điều tốt lành, yên vui...
Như đa số các
đân tộc ít người sinh sống ở Trường Sơn, người Tà Ôi là cư dân làm nông
nghiệp rẫy nương ở trình độ thấp, được
hay mất mùa thường không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của họ, vì vậy họ
phải dựa vào Thần linh: Trời Đất Sông Nước qua các nghi thức cúng tế để cầu
mong cho bản thân đất đai và mùa màng tươi tốt (cho nên các lễ thức tín
ngưỡng của hầu hết các dân tộc ít người đều hàm chứa ý nghĩa phồn thực).
Cũng như vai trò của cây lúa, các lễ thức nông nghiệp được
người Tà Ôi coi trọng hàng đầu, từ các nước như xin đất, gieo một khoảnh lúa
tượng trưng để báo cáo với Yang Tro, đến lúc lúa chín, trước khi tốt lúa,
thu hoạch.v.v... đều được tổ chức cúng Yang một cách thận trọng, thành kính, với đầy
đủ nghi thức thủ tục.
Trong những
lễ thức nông nghiệp thì lễ hội
AzaKoonh là lễ hội lớn nhất được
tổ chức với quy mô toàn làng (Vel) và thường phải gắn liền với tục đâm trâu,
được
gọi là lễ Cầu mùa lớn. Lễ hội
AzaKoonh
không hẳn chỉ là lễ cầu mong được mùa mà còn chứa đựng
nhiều nội dung khác như cầu xin thần linh cho dân làng được
sống yên vui, không ốm đau, dịch bệnh; hoặc cũng để giải tỏa những bất hòa
giữa 2 làng, hai họ tộc với nhau... nói chung, như một lễ cầu an. Do đó,
trong lễ không chỉ để cúng Thần nông nghiệp mà bao gồm cả một tập đoàn Yang:
Yang núi rừng, sông suối, Yang Trời Đất... Vì tính chất là một lễ hội nên lễ
AzaKoonh là nơi tập trung khá đầy đủ các loại hình văn nghệ dân gian
như âm nhạc, múa, hội họa... với đặc tính nguyên hợp của chúng, nên, cũng là
nơi bộc lộ tương đối đậm đặc truyền thống, bản sắc của tộc người.
Lễ hội cầu
mùa lớn không định kỳ, 3 -5 năm mới tổ chức một lần, và thường nhân có những
sự kiện quan trọng như đã nêu ở trước. Tuy vậy, hàng năm, tùy theo điều
kiện, từng gia đình có thể tự tổ chức lễ cúng nhỏ (không gọi là AzaKoonh) để
cầu cho “đung” mình vụ mùa tới bội thu hoặc tạ ơn, cầu an... Còn khi có ý
định làm lễ AzaKoonh,
phải có cuộc họp của các già làng và làm lễ xin thần linh từ 6 tháng trước,
đồng thời phải phân công
cắt
đặt cho các thành viên trong làng bản săn bắt tìm kiếm, dự trữ lương
thực, thực phẩm và các công việc cần thiết khác cho lễ hội.
Lễ hội
AzaKoonh
tại làng Tà Roi, A Ngo huyện A Lưới được diễn ra trong 2 ngày (23 và 24 tháng 2 năm 1999) với đầy đủ
quy trình, thủ tục cổ truyền giờ các già làng phục hồi lại bằng trí nhớ và
trực tiếp điều hành tế lễ sau hơn 20 năm vì những điều kiện khách quan không
tổ chức được trọn vẹn.
Lễ hội diễn
ra tại sân chung của ngôi “Nhà làng”. Trên sân được
trồng trước 2 cây nêu bằng tre mang hình bông lúa cách điệu - biểu tượng gắn
với nông nghiệp. Ở vị trí trung tâm là cây nêu chính cao khoảng 7 - 8m, gần
rìa sân là cây nêu phụ cao khoảng 5 - 6m. Ngọn các cây nêu rủ cong xuống
tượng trưng cho bông lúa, lá làm bằng cây hóp (họ tre, trúc) tước thành sợi
nhỏ, hạt lúa là các ống hóp ngắn cắm vào thân nêu từ thân đến đầu như bộ
xương cá. Ngọn của cây nêu phân thành 2 nhánh, có buộc 2 giỏ bằng tre để đựng
bát nhựa
cây (Người Tà Ôi không dùng hương trong cúng tế mà dùng nhựa cây để đốt).
Ngoài ra còn một cụm nêu thấp khoảng 1m để thịt cúng bên khô bên nước gọi là
Trâr Roong, nêu này dùng để buộc lợn.
Tiến trình lễ
hội diễn ra thứ tự như sau:
1.
Đầu tiên là
lễ xin đất chôn nọc trâu.
Trên sân Nam, Nữ quây thành vòng tròn quanh cây nêu chính. Nam tay cầm kiếm,
khiên hoặc gậy có treo các chùm quả khô có hạt cứng. Nữ cầm quạt, ống tre
vát (dùng để uống rượu Đoác). Chủ lễ (Tasa Vel) và phụ lễ (A RưlVel)
tay cầm kiếm và khiên đứng giữa vòng tròn, khấn và chém vào khoảng không trước
mặt 4 cái rồi cùng tất cả hô hú. Làm như thể đủ bốn phương
trời đất. Tiếp đó, chủ lễ và phụ lễ lần lượt úp khiên xuống chỗ đất xin chôn nọc buộc trâu ở ngay vị
trí cây nêu chính. Tất cả lại hô hú và thanh niên khiêng nọc đến chôn. Nọc
buộc trâu cao khỏang 2m, được làm bằng cây bông gòn và trang trí hoa văn, trên cùng
khắc hình ảnh cách điệu của con Diều đang đậu. Nọc buộc trâu có ý nghĩa là
một “vật thiêng” dẫn truyền sinh dục khí. Đến cây nêu phụ, cũng làm như thế
để chôn nọ buộc dê.
2.
Giai đoạn kế tiếp là Khấn
cầu mùa
(Tà nêm AzaKoonh). Sau khi chôn nọc và buộc Trâu, Dê, Lợn vào nọc là lễ thức
khấn cầu mùa tại nhà công cộng (Nhà làng). Lễ vật gồm vật dụng hằng ngày và
lương thực, thực phẩm: các loại gùi lớn nhỏ (A chói, A té) kiếm, khiên, cồng
chiên, ché, nắm gạo đựng
trong nia, bánh nếp lá bóc vỏ (A quạt),
cá nướng ống tre (A siêu âng co),
chuột nướng ống tre (Âng co a mot),
cơm... Chủ lễ cầm ống tre ngắn đựng
trấu và nước, dùng nột chùm sợi hóp tước nhỏ nhúng nước vẩy vẩy và khấn cầu
mùa.
“Thần núi
rừng, sông suối, thần lúa gạo hãy về cùng bản làng uống rượu, ăn cơm vui
chơi và đem đến mọi tốt lành cho thôn bản chúng tôi”...A
Sau lễ ở nhà
sàn, chủ lễ bước xuống sân vừa khấn vừa đổ ống trấu xuống đất quanh nọc trâu
và nêu trong tiếng hô hú của vòng người quanh sân và tiếng trống, cồng, tù
và.
- Một nghi
thức tiếp theo là lễ Rước
Yang
do 2 nhóm đi về 2 phía: một đi về suối, một đi về núi, vừa đi vừa khấn và
vung vãi gạo trên đường (có cả nhạc cụ đi theo) để tạ ơn và mời các Thần linh về
chứng kiến, chung vui với bản làng.
- Trở lại
sân, cả đoàn nhảy múa và di chuyển 3 vòng, ngược chiều kim đồng hồ quanh sân
trong tiếng nhạc và tiếng hô hú. Múa xong, tất cả cùng kéo lên nhà sàn đã
bày sẵn lễ vật để chuẩn bị một nghi thức khác. Đặc biệt có một nia cơm trộn
với các thứ lá băm nhỏ. Các nhà làng ngồi giữa sàn phân công nhau trong các
nghi lễ tiếp theo, thanh niên đứng
xung quanh. Có sự tranh cải căng thẳng, nhưng sau khi thống nhất ý kiến thì
tất cả cùng đứng
dậy hô hú, chiêng trống nổi lên, các già làng vốc cơm trộn lá cây ném vung
vãi ra cửa chính và sàn nhà, như sự cầu mong cho lúa ngô đầy nhà... Tiếp
theo là thủ tục Ném A xom.
Axom là những cành hóp được
tước rất nhỏ sợi loăn xoăn được nhúng vào nước và rượu rồi ném lên sàn nhà. Nếu A xom dính
vào xà là lời cầu xin được linh ứng. Vì vậy mỗi lần có Axom dính vào xà là mỗi lần hú
hét trong tiếng cồng chiêng, trống, tù và rất sôi động, vui vẻ.
- Sau nghi
thức, thủ tục trên là một lễ khác gồm 2 mâm cúng đặt ở trước mặt con trâu -
lễ vật gồm gà, xôi, cơm và cá nướng que. Trong khi chủ và phụ lễ khấn, tốp
múa, nhạc nhảy vòng quanh và hô hú. Cơm được
vung vãi vào đầu con trâu như sự trả ơn bày tỏ tình cảm đối với con trâu đã
thay con người, đem máu mình hiến tế cho Trời Đất, nối Trời Đất với bản
làng.
- Hai mâm
cúng được đưa
lên nhà sàn để làm
lễ Bahs, là lễ mời các Yang vui sum họp - Hai mâm cúng này chỉ có chủ, phụ lễ
và các già làng mới được ăn uống, mới được
dự với các Yang.
Dưới sân, lợn được chọc tiết tại chỗ để chuẩn bị lễ cúng xin phép và báo tin được
đâm trâu,
dê trong ngày hôm sau:
- Lễ cúng gồm
3 mâm, có thêm thủ lợn và đuôi lợn, lạp (như tiết canh của người kinh) và
xâu gan lợn. Giữa sân được
trồng thêm một cây chuối
có buồng quả,
và một cây mía nguyên cả
lá.
Cạnh cây chuối là một vò rượu cần, trên vò rượu đặt tấm bánh A dử
(bánh nếp giả) và trên đó là bát nhựa cây đang cháy. Tốp múa vòng quanh sân
theo nhịp trống chiêng và hô hú sau những lần chủ lễ vãi cơm vào cây chuối,
mía và sau những lần “xin keo” được
chấp thuận. Chủ lễ làm thủ tục “xin keo” bằng
A siêu,
là một khúc gỗ tròn cở bằng cẳng chân người lớn, dài khoảng 15cm được
bổ đôi làm 2 mảnh. Mặt phẳng của A siêu trang trí hoa văn. Lúc xin, áp 2 mặt
lại với nhau, khấn và buông rơi xuống đất, nếu 2 thanh ngữa cả là thuận ý
thần linh. Sau mỗi lần được
“ứng” là chủ lễ và tất cả đồng thanh hú hét bày tỏ sự vui mừng.
- Thủ tục
cuối cùng trong ngày thứ nhất là “xua
điều dữ, đón điều lành”:
Một già làng cầm 2 ống tre có mắt kín ở hai đầu, đã được nướng qua trên lửa để tạo hơi nén. Lúc làm lễ, đập mạnh vào
cột nhà bên trái,
tạo nên tiếng nổ như pháo, để xua điều dữ, và một ống được
đập vào cột nhà bên phải
để đón điều lành.
- Sau một
ngày tiến hành các nghi thức tế lễ, đêm, lửa được
đốt lên cho mọi người nhảy múa, vui chơi uống rượu cần, rượu đoác.
Tục xưa, các già làng hát “Ca lơi”, kể cho con cháu nghe sự tích tổ tiên,
sông núi... còn thanh niên múa hát “Cha chấp”, tìm hiểu nhau.
3-
Sáng ngày thứ
2 bắt đầu bằng thủ tục
Adừt
(múa tập thể đón khách). Khách là đoàn của làng bạn, được
mời đến cùng tham gia tế lễ và đâm trâu (nếu có hiềm khích thì để giải hòa,
nếu không thì cũng là dịp để vun bồi tình đoàn kết trong cộng đồng).
Nghi thức
tiếp đón khá long trọng. Đoàn chủ làng vừa đi vừa múa đến đầu ngõ đón khách,
sau đó 2 đoàn nhập làm một cùng nhảy múa từ ngõ vào và múa 3 vòng ngược
chiều quanh nọc buộc trâu, vừa múa vừa mời nhau ăn uống. Nhà làng của 2 đoàn
lên nhà rông làm thủ tục gọi là “Đấu
lý”:
tranh cải, giải bày và chọn người đâm trâu. Khi 2 bên đã nhất trí, thường
thì chủ nhường cho khách đâm trâu, tất cả đứng
dậy hú hét 2 lần. Một lễ cúng ngắn các già làng vung gạo, hành sống, nước lã
vung vãi vào con trâu, là thủ tục được
tiến hành trước lúc đâm trâu.
Đây là giai
đoạn sinh động, nhôn nhịp hưng phấn và thiêng liêng nhất của lễ hội
AzaKoonh. Lúc này nhạc, múa dồn dập hơn và được
tách thành 2 vòng di chuyển ngược chiều với nhau, xung quyanh cọc trâu. Một
cô gái bưng tấm Dèng dâng lên chủ lễ. Tấm Dèng được
phủ nhẹ lên đầu con trâu rồi bỏ lại vào gùi. Dèng là trang phục tự dệt của
phụ nữ Tà Ôi, lại được
xuất hiện trong giờ phút thiêng liêng, trọng đại này, phải chăng là yếu tố
rơi rớt, tàn dư của chế độ Mẫu hệ?.
- Các già
làng tiếp tục vung nước và rượu vào trâu, và ném Axom vào cây nêu để xin ý
kiến của Yang. Một cô gái trang trọng đem 2 cây lao (Kos) giao cho 2 già
làng khách và chủ. Phút đâm trâu bắt đầu, 2 già làng vờn quanh trâu lựa thế
trong tiếng cồng chiêng và hú hét rộn ràng của tốp người múa vòng quanh. Rất
nhanh và gọn, một mũi giao của già làng phong trúng ngực phải (dưới nách
phải chân trước). Con trâu lồng lên. Đoàn múa, nhạc hú hét quay vòng trong
tiết điệu nhanh hơn, dồn dập, khẩn trương hơn. Dòng máu đỏ và giây phút
chuyển từ từ sự sống (tồn tại) sang cái chết (hủy diệt) của vật hiến sinh là
giây phút chuyển tải những khác vọng của bản làng đến với “cha trời, mẹ đất”
về sự
sinh sôi nảy nở, mang đậm dấu ấn tín ngưỡng phồn thực của cư dân nông nghiệp
hỏa canh.
Mũi lao thứ 3
của già làng chủ kết thúc sự sống của con vật hiện sinh, tất cả đều nhảy
múa, hú hét náo nhiệt quanh con trâu, biểu lộ niềm vui sướng hân hoan, chứng
kiến cảnh con trâu khụy xuống và đổ vật ra. Dòng máu đỏ chan hòa trên khoảnh
đất đã được rãi trấu và cám gạo, các già làng lại quệt máu vào nọc trâu
và cây nêu...
Đâm trâu tại A Ngo, A Lưới năm 1999
Tục hiến sinh
này, thực chất là hiến máu, kể cả máu người như tục “săn máu”, “săn đầu lâu”
của người Càtu còn tồn tại trước 1945. Quan niệm của cư dân trồng lúa,
máu
là sự chuyển tiếp của Âm
- Dương,
nối kết giữa Trời
và
Đất
qua trung gian các “vật thiêng” như nọc buộc trâu, cây nêu...
Đó phải chăng là ý niệm “lưỡng phân và lưỡng hợp” tồn tại trong tư duy người
Việt cổ mà Giáo sư Trần Quốc Vượng đã từng đề cập,
thì đây là một nghi lễ nông nghiệp, một lễ thức phồn thực, cầu mong đất đai
có thêm sinh lực để sinh sôi nảy nở, mùa màng tốt tươi.
- Trong khi
mổ trâu, dê là lúc mọi người phân tán về các địa điểm quy định để ăn uống,
vui chơi ca hát và chuẩn bị cho một cuộc lễ tại cây nêu chính. Cuộc lễ này
bao gồm 9 già làng cùng tham gia tế lễ tập thể. Lễ vật gồm 7 mâm, có thêm
đầu trâu sống nguyên sừng, chân trâu sống, đầu dê sống và các món ăn cổ
truyền được
đồng bào ưa thích như: lòng trâu, lợn, lạp,
chuột nướng ống, cá nướng ống, cà lèng...
Một cây nêu nhỏ, ngọn chia 3 nhánh ở giữa tạo thành hạt lúa cách điệu, bên
trong đựng một ít lễ vật” bát xôi, 3 con cá nướng... được
cắm thêm bên cây nêu chính. Đội múa, nhạc tiếp tục múa vòng quanh sân. 9 già
làng cùng khấn tập thể, dùng Axom vẫy nước, rượu vào cây nêu, nọc trâu và
ném Axom mắc lên cây nêu chính, gieo Asiêu để xin keo... và cùng tất cả hô
hú. Khi hô thì ngước mặt lên (Trời), hú thì cúi mặt xuống (Đất) như biểu lộ
sự biết ơn Trời - Đất. Sau khi ném hết Axom, 9 già làng tách thành 2 nhóm,
một đi về phía sông suối, một đi về hướng núi rừng (đại diện hướng của Yang
Đak, Yang Koeoh) có tốp nhạc đi theo phụ họa và hô hú để thực hiện nghi thức
tiễn các Thần về nơi ngự trị của mình. Cúng xong ăn uống tại chỗ mới trở lại
sân chung.
4.
Giai đoạn cuối cùng, tất cả lên nhà chung bàn bạc làm thủ tục giao kết giữa
2 làng, trao Dèng và phân chia thực phẩm cho khách. Già làng 2 bên hát “Ca
lơi”:
“Anh cao
tuổi, anh thấp tuổi, có anh nhỏ hơn. Chúng ta như người trong một nhà. Bản
làng ta giàu có, cùng vui nhiều hơn.Ăn mừng gạo thơm cơm mới, ăn mừng tình
anh em ta”...
Khách và chủ
chia tay, trong niềm hân hoan trọn vẹn, trong tiếng tù và sừng trâu rúc lên
từng hồi bồng bềnh trong sương chiều giữa núi đồi A Lưới.
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Vĩnh Phúc
|