Những bài viết cùng tác giả

Văn miếu là nơi thờ cúng Khổng Tử cùng môn đệ
và các danh nho đời sau (như Chu văn An) có công
truyền bá, giữ gìn Chính đạo (đạo Nho) để tỏ đạo học
có nguồn gốc, Xuân Thu nhị kỳ vua thân đến tế.
Quốc tử giám thoạt đầu là chỗ dậy các Hoàng tử
sau mở rộng cho con các quan đại thần rồi con nhà
bình dân ai thông tuệ cũng được vào học (1).
Quốc Tử Giám ở Thăng-long dựng ngay sau Văn Miếu. Năm 1802 vua
Gia-Long bãi Quốc Tử Giám Thăng-long, đem lập lại ở Phú-xuân.
Và để đền bù cho dân Hà-thành đã dựng Khuê văn các
(2) trong Văn Miếu, trước hồ Thiền-quang, kế bên những tấm
bia đề danh Tiến sĩ các khoa nhà Lê và Nguyễn sơ.
Hà-nội ngày nay tuy không còn Quốc Tử Giám nhưng vẫn giữ cái
tên "nhà Giám" để trỏ Văn Miếu.
Quốc Tử Giám cũng như Văn Miếu và Khoa cử đều xuất phát từ Trung
quốc. Nhà Đường đặt ra Quốc Tử Giám coi việc học chính, quản
lĩnh sáu học quán là : Quốc Tử Giám, Thái học, Tứ môn học,
Luật học, Thư học, Toán học. Đứng đầu Quốc Tử Giám là Tế tửu,
Tư nghiệp làm Phó. Con quan, tùy phẩm trật của cha,
và con nhà bình dân học ở học quán khác nhau. Lại có
hai văn quán riêng cho con các hoàng thân quốc
thích.
Đời Minh ở Nam kinh, Bắc kinh đều có Quốc Tử Giám, các quan
Tế tửu, Tư nghiệp, Bác sĩ lo việc giáo tập. Minh
Thái Tổ đặt ra Quốc tử học, ngoài học văn chương còn
tập luyện chính trị, hàng năm lấy nhiều sinh viên ra
làm quan (3).
I- Quốc Tử Giám Thăng Long
1070 Dựng Văn
Miếu ở Thăng long.
1076 Xây Quốc Tử
Giám ở phía sau Văn Miếu làm nơi học tập cho Hoàng
Thái tử.
1087 Dựng gác Bí thư chứa sách vở hiếm.
1253 Trần Thái Tông lập Quốc học viện ở kinh đô cho
con nhà quyền quý vào học, sau mở rộng cho con nhà
bình dân người nào tuấn tú cũng được học. Lập Giảng
vũ đường, xuống chiếu gọi học giả vào giảng Tứ Thư,
Ngũ Kinh (4).
1434 Thi học sinh trong nước, lấy đỗ trên 1000
người, chia làm ba hạng : hạng nhất và nhì đưa vào
Quốc Tử Giám, hạng ba cho về nhà lộ học. Đều miễn dao dịch.
Cho các Giám sinh và Sinh đồ ở huyện được mang mũ áo
và cho Giáo thụ Quốc Tử Giám cùng giáo chức ở các lộ được đội
mũ cao sơn, trước đây đội mũ thái cổ (5).
1483 Đầu triều Lê, nhà Thái học vẫn theo nếp cũ nhà
Trần, quy chế phần nhiều còn thiếu sót. Nay hạ lệnh
sửa rộng ra, xung quanh có tường bao. Đằng trước nhà
Thái học dựng Văn Miếu, có điện Đạt thành thờ Khổng Tử,
đông, tây giải vủ thờ Tiên hiền và Tiên nho, điện
Cảnh-phục làm nơi túc yết (các quan dự tế túc trực
trước ngày chính tế). Đằng sau nhà Thái học dựng cửa
Thái học, nhà Minh Luân (làm sáng tỏ luân lý), Giảng
đường phía đông và tây, đặt thêm kho Bí thư chứa ván
gỗ khắc thành sách. Bên đông và tây nhà Thái học làm
nhà có tường bao cho học sinh ba xá, mỗi bên ba dẫy,
mỗi dẫy 25 gian làm chỗ nghỉ ngơi cho học sinh.
1484 Bắt đầu dựng bia Tiến sĩ ở Văn miếu, dựng ngược
lại từ khoa 1442 (6).
1645 Định hàng năm tu bổ hay xây dựng thêm ở
Quốc Tử Giám,
lát gạch, dọn cỏ v.v... Lệ cũ, hạng binh ở các huyện
xã, các phường hai huyện Thọ-xương và Quảng-đức (7)
phải làm những công tác này. Nay cấp thêm dân xã để
trông nom, phụng sự. Chuẩn cho các huyện xã phụ
trách cùng hai huyện Thọ-xương, Quảng-đức dự để tiền
về công tác này chứ không bắt dân chịu (8).
1723 Cấp 60 mẫu ruộng cho trường Quốc học, các
trường Hương học tùy lớn nhỏ cấp từ 16 đến 20 mẫu để
lấy hoa lợi chi việc dầu đèn.
1803 Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích tuân theo chỉ dụ
của vua Gia-Long ra thú thì sẽ được tha tội nhưng
vẫn bị đem ra Văn Miếu kể tội (làm tôi nhà Lê mà sau lại
theo vua Quang-Trung) rồi đánh đòn, Ngô Thì Nhậm bị
đánh đến chết (9).
Quốc Tử Giám bị vua Gia-Long bãi, đem lập lại ở Kinh. Cơ sở
nhà học cũ biến thành đền Khải thánh thờ cha mẹ
Khổng Tử.
1805 Xây Khuê văn các.
1827 Vua Minh-Mệnh sai quan ở Bắc thành (Thăng-long)
kiểm điểm sách vở ở Văn Miếu như Tứ Thư, Ngũ Kinh, Đại
Toàn, Chính sử, Tứ trường văn thể đưa vào kinh, để ở
Quốc Tử Giám.
* Vị trí - Phong cảnh
Thời Lý, Trần, Văn Miếu dựng ở thôn Minh-giám, huyện
Thọ-xương, phía tây nam phủ Phụng-thiên, trong kinh
thành. Văn Miếu nằm cạnh Thái hồ. Hồ này rộng mênh mông,
sau bị lấp chỉ còn phần phía nam trước cổng Văn Miếu, gọi
là Văn hồ. Khu này còn có làng Văn chương vì thời Lê
nho sĩ tụ tập ở Quốc Tử Giám để nghe bình văn một tháng hai
lần.
Khoảng 1771 cái hồ to ở trước mặt nhà Thái học gọi
là ao Bích-thủy. Trước kia dân phố phần nhiều dựa
lưng vào ao mà làm nhà. Học quan xây bức tường bình
phong để che xe ngựa. Khi ấy Nguyễn Hoãn bổ chức Tri
Quốc Tử Giám đuổi phố xá đi mà mở rộng ra, trồng cây, lát
đường, lập bia Hạ mã ở trước cửa, làm cho quang cảnh
nhà Thái học nghiêm trang (10).
Khoảng đầu đời Tự-Đức, phía đông Văn hồ có Nho sinh
quán do một Hương quan làng Minh-giám lập ra cho học
trò nghèo các tỉnh tới trọ. Tương truyền chủ quán ra
một vế đối, treo giải thưởng nhưng không ai đối được
:
Nước Văn hồ tha hồ tắm mát,
Rượu Hồ đình thơm ngát đón làng Văn.
(Hồ đình là cái đình hóng mát hình hồ rượu dựng trên
một đảo nhỏ của Văn hồ) (11).
1865 Văn hồ đình bi ký :"Trước Văn Miếu có hồ lớn, giữa hồ
có bãi Kim-châu. Khoảng năm Cảnh-trị (1663-71) Tham
tụng Phạm tiên sinh (Phạm Công Trứ) từng sáng tác
chùm thơ "Phân thủy thập vịnh" tả cảnh đẹp nơi đây.
Thời gian lâu xa, cỏ mọc um tùm quanh hồ, lòng hồ
tắc ứ ngày một cạn. Năm 1863, Bố chính Lê Hữu Thanh
và Án sát Đặng Tá dựng Bi đình. Năm 1865, Đặng Án
sát mua ngói lợp đình, đặt tên là Văn hồ đình. Trong
đình khắc mười bài thơ "Phân thủy" của Phạm Công
Trứ" (12).
Đầu thế kỷ XX Pháp xây lại Hà nội, phá hủy làng Văn
hồ để mở đường, xây nhà.
II- Quốc Tử Giám thời
Nguyễn (Huế)
Năm 1803 Gia-Long bãi
Quốc Tử Giám ở Thăng-long, về lập lại ở
Phú-xuân.
Buổi quốc sơ, dựng Văn Miếu ở xã Triều-sơn, huyện
Hương-trà, ngoài kinh thành.
1759 Dời Văn
Miếu qua Long-hồ, tả ngạn sông Hương, địa thế
nhỏ hẹp.
1803 Dựng Đốc Học đường (cũng gọi là Quốc học đường)
gồm : Đốc học Chánh đường và hai tòa nhà hai bên, do
Đốc học và Phó Đốc học giảng dậy.
1808 Vì Văn Miếu ở Long-hồ nhỏ hẹp, chọn đất ở An
ninh-dựng Văn Miếu mới. quy chế rộng rãi, phía tây ngoài
kinh thành, gần chùa Thiên-mụ, tức là Văn Miếu ngày nay.
1820 Ngoài cửa Đại-thành đặt hai nhà : nhà bên tả là
Sùng Văn, bên hữu là Duy Lễ (13).
Bắt đầu xây Quốc Tử Giám ở xã An-ninh phía tây ngoài kinh
thành (Văn Miếu ở phía tả Quốc Tử Giám).
1821 Làm xong
Quốc Tử Giám. Phía trước là Di Luân đường nơi
dậy các Tôn sinh, phía sau là Giảng đường nơi dậy
các Giám sinh, hai bên tả hữu là phòng ốc cho học
trò ở, bên phải cho các Tôn sinh gồm 3 gian, bên hữu
cho Giám sinh gồm 16 gian (14).
Bộ Lễ tâu xin đặt vị vọng bái Tiên thánh ở nhà Di
Luân, Giám thần và học sinh đến bái yết rồi hàng
ngày ngồi ở Giảng đường dậy để mở con đường Sùng nho
thịnh vượng cho muôn đởi.
Bắt đầu đặt các chức Tế tửu (hàng chánh tứ phẩm), Tư
nghiệp (hàng tùng tứ phẩm), Học chính (sau cải là
Trợ giáo) và Giám thừa, Điển tịch, Điển bộ (15).
Sai Vũ Xuân Biều hàm chánh tam phẩm, sung chức Tế
tửu, Giáp Phó Đốc học Quốc Tử Giám Ngô Trọng Vân bổ làm Tư
nghiệp. Vua bảo Điều :"Nhà Quốc Tử Giám
là nơi giáo dục nhân
tài, ngươi nên mỗi tháng một lần tâu lên ai có tài
hạnh thì cấp lương tiền để nên học nghiệp, không thì
cách cho về.
Lấy Hương cống triều Lê Thái Doãn Tá làm Tư nghiệp.
1822 Nhà Di Luân bị
sét đánh, bộ Công phải sửa chữa.
Dựng nhà cho Giám thần ở.
Nhà Di Luân cùng phòng Giám sinh thì cấm đàn bà con
gái không được qua lại.
* Lệ cấm này cũng đã được Phạm Đình Hổ nhắc tới
trong Vũ Trung Tùy Bút : "Khoảng năm Giáp Thìn, Ất
Tỵ đời Cảnh hưng (1784-85), nhà Giám khi trước gập
ngày mồng một, ngày rầm thường họp học trò lại bình
văn, các quan đều đến hội họp, người đến nghe bình
văn vòng trong vòng ngoài, đông nhu kiến. Khi ấy có
một người đàn bà đến trước cửa nhà Giám muốn xin vào
xem, lính canh đuổi không cho vào. Bà ta đứng trông
vào trước cửa nhà Giám vái lạy mà rằng :"Chẳng hay
khi xưa thánh nhân lập giáo thế nào mà nay các quan
hễ hạ ngòi bút xuống phán xét một lời là không còn
kêu ca vào đâu được nữa ?". Người đàn bà ấy vừa lạy
vừa khóc mà đi. Ôi ! người đàn bà quê mùa ấy chẳng
trách làm chi, nhưng các ngài là bậc văn học, làm
nên quan mà để cho dân đến nỗi thế thì nỡ lòng nào
?" (16).
1825 Sửa nhà Di Luân, Giảng đường, nhà học Tôn sinh,
dựng lại phòng ốc các Giám sinh : nhà ngói ở hai bên
tả hữu đều 20 gian. Phía trước nhà Di Luân năm trước
xây tường gạch, nay xây thêm tường gạch ở ba mặt tả,
hữu và hậu.
1850 Dựng nhà cho Học quan phía hữu 15 gian, dựng
thêm phòng ốc cho Ấm sinh, Giám sinh ở phía tả là 19
gian.
1896 Xây trường Quốc học. Dựng nơi công thổ tả doanh
Thủy sư một tòa Đốc giáo đường 3 gian, 2 chái, nơi
cư trú của các Trợ giáo.
1898 Thêm hai dẫy trường ốc để làm chỗ dậy học, dẫy
trước 30 gian. Sau Đốc giáo đường làm nhà vuông (Di
Luân), xung quanh xây la thành (tường bao). Mặt
trước xây môn lâu hai từng, từng trên treo bảng khắc
chữ Quốc học bằng Pháp văn, sơn đỏ thếp vàng, dựng
năm 1918 (17) .
1917 Xây Quốc Tử
Giám mới : Cổng vào có 4 cột đá trên treo
biển gỗ "Quốc Tử Giám". Có hai phần cách nhau một lối đi chạy
hết chiều ngang 176 mét 50, từ cửa Cơ mật viện đến
hào của Hoàng thành. Xung quanh có tường bao vây.
Chính giữa là nhà Di Luân hình vuông, chu vi 85 mét,
từng dưới treo bức hoành "Di Luân Đường" chữ vàng,
phía sau, bên phải đặt chuông, bên trái đặt trống to
(ở kinh thành cấm đánh trống nên chỉ có chuônt báo
hiệu giờ học). Từng trên treo biển "Minh Trưng Các"
và "Đạo Tâm Hiên", chữ vàng. Các cửa ra vào đều lắp
kính sáng sủa. Phòng rộng rãi, là nơi giảng dậy hay
để các Học quan hội đồng. Phòng học ở hai bên nhà Di
Luân, 4 tòa : 2 trước 2 sau. Hành lang rộng nhưng
hướng đông và tây nên có nắng suốt ngày nóng nực.
Xung quanh trồng cây.
Khu thứ hai chia làm ba, ngăn bằng tường gạch, gồm
"Tân Thơ Viện" ở giữa, có tủ sách sơn son đựng các
sách chép tay của Nội các hay sách của tòa Khâm sứ.
Hai bên là hai tòa nhà cho Đốc học và Phó Đốc học ở.
Cách Quốc Tử Giám không xa, gần cửa đông nam, ở chân thành có
hai dẫy nhà mỗi dẫy 9 phòng, mỗi phòng cho 4 người,
và nhà vệ sinh cùng bếp nước. Học sinh phải tự lo
liệu việc ăn uống. Khá bừa bãi, bẩn thỉu (18).
III- Học Quan
Đầu đời Hậu Lê có các chức Tế tửu (dùng đại thần
kiêm lĩnh) và các chức Tư nghiệp, Trực giảng, Bác
sĩ, Giáo thụ, Trợ giáo. Chức Đề điệu thì dùng đại
thần không cứ văn hay võ. Đời Trung hưng bãi bỏ chỉ
còn Tế tửu (đại thần đứng đầu Quốc Tử Giám), và Tư nghiệp
(quan giảng dậy).
1647 Bắt đầu đặt chức Ngũ kinh Bác sĩ. Bấy giờ Giám
sinh học Thi, Thư thì nhiều, Lễ ký, Chu Dịch, Xuân
Thu thì ít nên đặt chức này để mỗi người chuyên trị
một kinh dậy.
Đời Bảo-thái (1720-8) Quốc Tử Giám có Giáo thụ hàm Chánh bát
phẩm, Học chính hàm Tùng bát phẩm.
1767 Nguyễn Nghiễm làm Tri Quốc Tử Giám, Vũ Miên kiêm Tế tửu,
Lê Quý Đôn, Phan Lê Phiên làm Tư nghiệp hàng ngày
giảng dậy ở Quốc Tử Giám (19).
1803 Gia-Long đặt 1 Đốc học, 2 Phó Đốc học để dậy ở
Đốc học đường (cũng gọi là Quốc học đường).
1804 Vua đến nhà Quốc học triệu các Học thần bàn bạc
điều cốt yêu trong việc học của người xưa. Chọn con
em Tôn thất từ 10 đến 15 tuổi cho vào học.
Cấp lương tháng cho các quan ở Quốc Tử Giám : Chánh Đốc học
được 6 quan tiền, 6 phương gạo (20), Phó Đốc học
được 5 quan tiền, 5 phương gạo.
1816 Lấy Hàn lâm viện Chế cáo Nguyễn Đăng Ngạn làm
Chánh Đốc học Quốc Tử Giám, Tiến sĩ đời Lê là Nguyễn Du
(không phải tác giả Truyện Kiều) làm Phó Đốc học
Quốc Tử Giám. Du vì già xin từ.
1821 Vua Minh-Mệnh bỏ các chức Đốc học, bắt đầu đặt
1 Tế tửu (chánh tứ phẩm), 2 Tư nghiệp (tùng tứ phẩm)
và các chức phụ tá : Giám thừa, Điển tịch, Điển bộ
v.v... Dụ cho Tế tửu một tháng một lần tâu, ai có
tài hạnh thì cấp lương tiền học nghiệp, không thì
cách cho về.
1822 Đặt hai chức Học chính ở Quốc Tử Giám (tùng lục phẩm)
chuyên dậy các Tôn sinh, sai Tế tửu, Tư nghiệp chọn
hai, ba người có học hạnh bổ vào.
1823 Vua triệu Đốc học Gia-định Nguyễn Đăng Sở vào
bệ kiến, hỏi :"Năm ngoái có chiếu phải tiến cử Học
sinh mà Gia-định không cử người nào là tại sao ?".
Sở tâu :"Chiếu gửi từ thành đến trấn, từ trấn đến
phủ huyện, chưa từng hỏi đến Học thần nên tuy có
biết cũng không dám vượt quyền mà cử". Vua phán
:"Muốn biết sĩ tử mà không hỏi Học thần thì hỏi ai
?". Lập tức hạ lệnh cho quan tỉnh chuyển sang hỏi
Học thần chọn người có thể cống cử.
1880 Quan ở Giám nếu có học trò đi thi hỏng 1 tên
thì giáng 1 cấp, hỏng 2 tên thì giáng 2 cấp, hỏng 3
tên thì giáng 3 cấp, được lưu lại làm việc, hỏng 4
tên, giáng 4 cấp, điều đi nơi khác, hỏng 5 tên thì
cách chức (21).
IV - Học Trò
Danh hiệu - Học trò ở Giám có nhiều loại :
a- Tôn sinh là con em trong Hoàng phái, do Tôn nhân
phủ tiến cử.
1804 Chọn con em Tôn thất từ 10 đến 15 tuổi cho vào
Quốc Tử Giám học.
b- Ấm sinh là con các quan đại thần.
1829 Vua dụ bộ Lễ :"Đường lối thịnh trị tất phải
thành tựu nhân tài mà phương pháp thành tựu là phải
bồi dưỡng từ trước. Đời xưa con trưởng các công
khanh đại phu và những người tuấn tú con nhà thường
dân đến 15 tuổi thì vào Đại học, phép giáo dục đầy
đủ. Năm trước từng cho quan văn võ tam phẩm mỗi viên
được một người con vào nhà Giám học tập cùng với
Giám sinh, nay chuẩn cho các con quan Kinh văn từ tứ
phẩm, ngũ phẩm, thì người con trưởng được bổ làm học
sinh Quốc Tử Giám. Lương bổng và quy trình giảng tập chuẩn
cho các bộ bàn định, thi hành, thành tài sẽ bổ dụng.
1830 Con các quan văn học ở
Quốc Tử Giám nếu cha có lỗi bị
cách thì con xóa sổ ; cha bị giáng đổi thì con được
lưu học nhưng chỉ cho nửa lương.
c- Học sinh là học trò tuấn tú của lớp bình dân cống
từ mỗi huyện phủ, khảo sát lại, có khá mới cho vào
Quốc Tử Giám.
1822 Năm nay mỗi huyện cống một người Học sinh, từ
sau hàng năm mỗi phủ cống một người, do quan ở Giám
phúc hạch, trúng bốn kỳ thì làm danh sách tâu lên để
cấp lương ăn học ở Quốc Tử Giám. Gập khoa thi Hội, quan ở
Giám lại sát hạch rồi nếu đỗ thì tâu xin cho cùng
với Hương cống vào thi. Người nào văn học không
thông thì cho về, bắt phủ huyện cử người khác điền
vào.
Những người nộp quyển dự sát hạch vào lớp cao đẳng ở
Quốc Tử Giám từ 1821 về trước thì các Tế tửu, Tư nghiệp gọi
đến ra bài thi ở trước mặt, lấy đỗ 100 tên, chia làm
ba hạng, làm danh sách do bộ Lễ đề đặt để cho làm
Giám sinh, cấp tiền gạo theo thứ bực khác nhau. Lại
cấp thêm cho áo lam, khi có tiết Đại khánh đều được
đi chiêm bái.
d- Cống sinh là Nho sĩ được chọn lọc từ mỗi tỉnh, do
Tế tửu và Tư nghiệp sát hạch lại, có thực tài mới
cho vào Quốc Tử Giám học.
e- Hương cống / Cử nhân thi Hội hỏng, tình nguyện
xin vào Giám học thì bổ làm Giám sinh, cấp mỗi tháng
ba quan, hai phương gạo , 5 cân dầu.
g- Giám sinh là tên gọi chung các Hương cống / Cử
nhân và các Học sinh được cống cử từ địa phương, đã
sát hạch lại, được theo học lớp cao đẳng.
1829 Giám sinh tọa Giám mà ốm chết thì cấp tiền
tuất.
A- Học quy
a- Trước thời Nguyễn
1429 Định chương trình học cho Tôn sinh. Bộ Lễ thấy
Tôn sinh tọa Giám nhiều người tạ sự cáo nghỉ, tâu
:"Từ trước đến nay phép dậy chưa có chuẩn tắc, nên
định rõ quy thức :
1) Học sinh Tôn học mỗi quý (tháng cuối mỗi mùa) xét
số người học nhiều hay ít cùng nghĩa lý học thuộc
hay không, văn nghệ tập tành thông hay không, chia
hạng ưu, bình, thứ, liệt, do quan Học chính làm danh
sách tâu lên. Hạng ưu thì tăng một nửa nguyên bổng,
hạng bình như thường, hạng thứ giảm một phần ba,
hạng liệt giảm một nửa.
2) Định lại lệ xin nghỉ : Phàm gập ngày húy (giỗ)
cha mẹ cho nghỉ 5 ngày, cha còn hay mẹ còn thì cho 3
ngày ; gập ngày húy ông bà, cụ kỵ mà cha mẹ mình đều
mất cho nghỉ 3 ngày ; đau ốm nhẹ thì điều dưỡng
trong phòng, nặng thì cho nghỉ 10 ngày, chưa khỏi
lại gia một hạn. Nếu vô cớ thác bệnh không ở tại
phòng thì bị đánh roi.
1483 Theo chế độ cũ, con cháu quan viên người nào
thi Hương trúng ba kỳ được sung vào Hiệu sinh trường
học trong phủ mình, trúng bốn kỳ sung Giám sinh
trường Quốc học, còn quân và dân nếu ứng thi có
trúng tuyển cũng không được dự.
Nay ra sắc dụ : Quân và dân thi Hương trúng ba kỳ
được sung vào Sinh đồ trong phủ mình, trúng bốn kỳ
được sung Học sinh trong Tăng Quảng Đường ở Quốc Tử
Giám.
Giám sinh thi Hội trúng ba trường thì cho sung vào
Thượng xá sinh, trúng hai trường thì sung Trung xá
sinh, trúng một trường thì sung Hạ xá sinh. Mỗi xá
là 100 người, cấp cho tiền lương ba xá mỗi người 9
tiền. Khi bổ dùng bộ Lại và quan ở Quốc Tử Giám bảo cử, chọn
bổ ba xá không phân biệt.
Bọn Phó Đô Ngự sử đài Quách Hữu Nghiêm tâu :"Tiền
lương ba xá xin đổi : Thượng xá thêm một tiền cho đủ
một quan, Trung xá giữ nguyên 9 tiền, Hạ xá giảm một
tiền, còn 8. Khi bổ dùng thì cho Thượng xá sinh ba
phần, Trung xá sinh hai phần, Hạ xá sinh một phần.
Vua y.
1511 Điểm mục : Các Giám sinh, Nho sinh, Sinh đồ cứ
đến ngày rầm, mồng một đều phải mũ áo đến điểm mục.
Phải tuân theo học quy, tập học nghiệp cho thành
tài, giúp ích cho nước. Ngưởi nào dám rong chơi
đường xá, trễ bỏ việc học, thiếu điểm mục một lần
thì phạt 20 tờ giấy trung chỉ, thiếu ba lần thì đánh
40 roi, thiếu 4 lần thì kiểm xét tâu lên, giao cho
bộ Hình xét hỏi, thiếu 5 lần thì tâu lên bắt sung
quân.
1721 Định rõ quy chế việc học, phép thi khảo tại các
trường Quốc học và Hương học. Tế tửu, Tư nghiệp
giảng dậy, con cháu các công thần và nho sĩ đều được
học. Mỗi tháng Học quan ra một bài Tiểu tập thi khảo
học trò đã được vào học đo các quan Giáo thụ và Học
chính quản lĩnh ; bốn tháng trọng (tháng thứ nhì
trong mùa) Giám khảo ra một bài Đại tập thi khảo các
học sinh và Hương cống do quan ở Quốc Tử Giám chịu trách
nhiệm. Ai bốn kỳ (nội khóa, 4 tháng trọng) đều trúng
tuyển thì quan ở Quốc Tử Giám đứng ra bảo cử, bộ Lại sẽ theo
thứ tự bổ dụng.
1728 Đặt viên quan kiêm giữ công việc
Quốc Tử Giám để cho
chức trách được long trọng : mùa Xuân, mùa Hạ khảo
xét phương pháp, mưu lược và việc binh của quan võ ;
mùa Thu, mùa Đông khảo xét việc thảo thiên từ
chương, mệnh lệnh của quan văn.
Tham tụng Nguyễn Công Hãng cho là lối văn Bát cổ thu
được nhiều tài lạ, muốn biến đổi thể văn, thường dẫn
quan văn vào Quốc Tử Giám luyện thể văn Bát cổ của nhà Thanh
để mùi giũa lấy nhiều sĩ tử. Định đến kỳ kinh nghĩa
thi Hương, thi Hội sẽ dùng văn Bát cổ nhưng chưa kịp
thi hành đã mất ngôi Tham tụng (22).
b- Thời Nguyễn
1823 Học sinh do địa phương cống cử đã được làm Giám
sinh thì miễn thuế thân, cấp mũ văn tú tài bằng ô
sa, áo dài vải đen viền bảo lam, cổ bằng lĩnh trắng,
xiêm lụa lam.
Bộ Lễ bàn việc giảng dậy ở nhà Giám :
1- Hàng năm sau khi khai ấn đầu Xuân một ngày thi
khai giảng. Giám thần mặc mũ áo thường triều đến Di
luân đường làm lễ cáo tiên sư, các Giám sinh mũ áo
bồi bái. Lễ xong Giám thần đến Giảng đường ngồi, các
Giám sinh thay áo làm lễ lạy chào, lễ xong ngồi nghe
giảng.
2- Ngày thường thì trước giảng Kinh Truyện để rõ
nghĩa lý rồi giảng chính sử, tính lý. Ngày chẵn học
Tứ thư, Ngũ kinh, ngày lẻ học sử, chư tử, tính lý.
Đặc biệt nên chỉ bảo những mối vinh nhục và liêm sỉ,
nêu rõ những nghĩa hiếu đễ, trung tín để chính tâm
thuật.
3- Hàng tháng lấy những ngày mồng 3, 9, 17, 25 làm
ngày tập văn bài. Đầu bài thì theo thể văn bốn
trường hoặc tập xen lối văn thù phụng. Có yết bảng
để khuyến khích.
Những người lười biếng thì phạt roi, tội nặng thì
trình lên bộ Lễ để nghiêm trừng và ghi vào học bạ.
Quá dốt có thể bị đuổi, còn những người giỏi được
thưởng giấy bút .
4- Hàng năm những kỳ khảo hạch thì lấy bốn tháng
trọng. Chấm phê cốt tinh tường, không thiên vị.
5- Giám sinh nếu có tệ rượu chè, cờ bạc, trộm cắp,
trai gái thì cho xét cử lên để cách đuổi. Kẻ nào tự
tiện bỏ ra ngoài một, hai lần thì Giám thần tự trách
mắng, ba lần cho xét cử lên.
6- Hàng năm ba tiết lớn (Vạn thọ, Chánh Đán, Đoan
dương) các Giám sinh đều mũ áo vào sân điện Cần
chính để chiêm bái.
7- Hàng năm cứ đến cuối tháng chạp, sau ngày cất ấn
một ngày thì nghỉ học. Cũng tế lễ như ngày khai
giảng.
Vua chuẩn.
1826 Sắp thi Hội, gia ơn cho học trò mỗi người 10
quan. Sai Giám thần xét hạch ai trúng ưu, bình, thứ
cho thi cùng với Hương cống, hạng liệt sung bổ thư
lại nhập lưu ở các bộ, viện và tả hữu Thừa Ty các
dinh trấn.
Đổi cấp mũ áo Giám sinh :
1 mũ Tú tài bằng the nam, đằng trước đính một hoa
bạc
1 áo tràng vạt bằng the nam mầu xanh lót lụa trắng
1 xiêm lụa mầu lam
Khăn, màng lưới (buộc tóc)
Hia tất.
5 năm đổi một lần.
1827 Giám sinh tọa giám được thăng bổ hay có lỗi
phải cách thì mũ áo thanh khâm nhà nước phát phải
chiếu lệ nộp trả, người ốm chết thì cho đem theo.
1828 Vua phán :"Mùa đông năm nay giá rét, bọn Giám
sinh sách đèn cần khổ lấy gì chống rét ?", ban cho
mỗi người 10 quan.
1829 Việc giảng tập thì trước giảng Ngũ kinh, Tứ
Truyện, rồi Chính sử và Tính lý. Tập bài mỗi tháng
chia làm bốn kỳ : ngày 3, 9, 17, 25.
Sau lại cho con các quan văn hưu trí hay đã quá cố
từ tứ phẩm trở lên mỗi viên được một người dự.
1835 Ban cho
Quốc Tử Giám 50 bộ Tứ thư, Ngũ kinh, Tiểu học
thông giám, Thi sách chế nghệ, Luật phú, Thi thiếp,
Tiểu học thể chú để cấp phát cho Tôn snh, Ấm sinh,
Sơ học sĩ nhân.
Lại sai khắc sách Tứ thư, Nhân vật bị khảo, Thi vạn
tập yếu in 1000 bộ cấp thêm cho sĩ tử mượn về xem.
1836 Bộ Lễ tâu : Nhà Di Luân đặt bài vị tiên sư để
làm chỗ cho học sinh bái vọng. Hàng năm khai giảng,
nghỉ giảng đều làm lễ triều bái ở đó, Tiến sĩ tân
khoa làm lễ Thích điện (24) cũng tại đó. Văn Miếu ở bên tả
Quốc Tử Giám, bái yết ở đó mới hợp nghi. Từ nay hễ học sinh
vào nhà Giám, Giám thần mặc phẩm phục đem học sinh
đến Văn Miếu làm lễ cáo yết xong lại về Giảng đường làm lễ
tham yết. Khi các Tiến sĩ làm lễ Thích điện cũng xin
cho làm ở sân miếu mới tỏ được trang trọng, kính
cẩn. Còn chỗ bái vọng xin đừng đặt nữa. Vua y.
1837 Ấm sinh học
Quốc Tử Giám được một năm trở lên, kỳ khảo
khóa làm đủ văn thể ba trường nếu gập kỳ thi Hương
thì cho được thi, không câu nệ phải đủ hạn hai năm.
Tôn sinh ở Giám từ xấp xỉ 13, phải học thuộc lòng
giảng tập, lấy chuyên cần hạn định ; 20 tuổi trở lên
làm một bài Kinh, một bài Truyện và văn thể khoa
trường, văn sách hỏi về việc đổi hoặc điều luật. Đến
kỳ khảo khóa, bộ Lễ ủy người có khoa mục cùng sát
hạch, người nào ở hạng kém thì người ấy và tư giáo
phải tội như lệ cũng như Giám thần, Học chính và cha
anh ngày thường không biết bảo thêm. Trong một năm
và trong một hệ đuổi về Tôn tịch đến ba người thì
Giám thần, Học chính, Tư giáo phải tội nặng hơn. Tư
chất chậm, dốt, sức học không tiến, bẩm phủ rút về.
Tôn sinh như có việc, Tư giáo chuyển trình Giám
thần, Học chính, gia hạn cho về thăm nhà, hết hạn
không đến thì răn phạt mỗi ngày thêm một bậc, tội
chỉ đến 50 roi, nếu vô cớ mà bỏ thiếu, Giám thần,
Học chính và cha anh phải đem trừng trị, dung túng
thì giao cho bộ nghiêm trị.
1854 Vua đến nhà Di Luân khảo xét và ban thưởng cho
học trò.
1869 Định rõ chương trình
Quốc Tử Giám :
a- Tôn sinh chưa tập đủ thể văn, chưa phân biệt chấm
câu, chấm ngắt, quan Học chính phải sớm chiều dậy
bảo, hoặc đã tập đủ thể văn ba kỳ, sát hạch trúng
hạng ưu,bình và đã thi Hương thì cho được cùng học
với học sinh ở Giám chờ có tiến bộ, lại theo lệ cho
làm Tôn sinh thượng hạng.
b- Ấm sinh học ở Giám đã đỗ Tú tài thì cho hội đồng
khảo hạch không câu nệ niên hạn.
Hàng năm 2 tháng trọng sát hạch học sinh, khi chấm
xong đem suốt cả sách học tập nửa năm trước xét kỹ
học lực chăm hay lười, cân nhắc tính khấu trừ định
hạng.
c- Giám sinh đã được xét bổ mà chưa có nơi khuyết,
trừ người tình nguyện ở lại Giám thì cho học bổng,
còn thì cho về quê chờ bổ.
Người mới vào Giám, tuổi 50 trở lên, chuẩn cho được
chọn bổ giáo chức (25).
B- Khảo
hạch
Khảo hạch ở Giám có nhiều loại khác nhau, tùy trình
độ mà đặt câu hỏi khó hay dễ nhưng cũng không ngoài
Tứ thư, Ngũ kinh, Bắc sử, Nam sử, Bách gia chư tử
v.v...
a) Thi để được vào học ở Quốc Tử Giám :
các Học sinh / Cống
sinh được tiến cử từ các phủ huyện hàng năm hay vài
ba năm một lần, phải qua một kỳ thi do quan ở Giám
sát hạch có đỗ mới được học. Kỳ thi này cũng để xét
trình độ mỗi người mà cho vào học một trong ba xá
sinh. Hạng ưu,bình dù không đỗ Hương thí cũng được
vào học ở Quốc Tử Giám, hạng liệt bị đuổi về.
b) Kiểm soát
- Những người đang học ở
Quốc Tử Giám hàng năm
vào bốn tháng trọng (tháng giữa mỗi mùa) phải thi để
kiểm soát học lực có tiến bộ hay không. Kỳ thi này
do bộ Lễ chủ trì, Giám thần và các quan Đô Giám viện
khảo hạch. Sau mỗi kỳ thi đều có bản phúc trình lên
vua.
1829 Bộ thần bàn : Phàm người nào được bổ Học sinh
thì do quan Giám thần xét lại. Bậc nhất kiêm thông
văn thể ba, bốn trường ; bậc nhì thông văn thể một,
hai trường ; bậc ba chưa thông văn thể. Cấp cho bậc
nhất mỗi tháng 2 quan tiền, 2 phương gạo. Cấp mũ áo.
Về đề mục thì bậc nhất theo đầu đề mà tập ; bậc nhì
và bậc ba thì : Chế nghĩa 6 đề, tập 1 Kinh, 1
Truyện, thơ 1 bài, phú 6 vần, văn sách tập 1, 2 đoạn
văn sử.
Bậc nhất hạn học 2 năm, bậc nhì hạn 3 năm, bậc ba
hạn 4 năm. Nếu mãn hạn mà chưa học đủ văn thể 4
trường, chưa thi chưa trúng kỳ khảo sau 3 năm mà
không được 1 ưu, 1 bình thì đều cách. Học lười, nết
xấu, thiện tiện dời bỏ nhà trường thì đánh đòn. Rượu
chè, cờ bạc, trai gái bị cách đuổi.
Vua y. Lại cho con quan tứ phẩm trở lên hưu trí hay
đã chết cho một con làm học sinh.
c- Thi lấy học bổng
- Những kỳ thi lấy học bổng do
Giám quan và quan Học chính phụ trách.
- Tôn sinh -- Thi vào 4 tháng mạnh (tháng đầu mỗi
mùa), được ưu hay ình thì tùy điểm mà cho học bổng,
3 lần bị liệt thì đuổi.
- Học bổng hàng tháng của Tôn sinh là 2 quan tiền, 2
vuông gạo, 3 cân dầu thắp đèn. Sau khi thi :
- hạng ưu được tăng một nửa học bổng
- hạng thứ bị giám một phần ba học bổng
- hạng liệt truất ba tháng, 2 liệt thì truất 6
tháng, 3 liệt thì đuổi.
- Ấm sinh - Thi vào 4 tháng trọng (tháng giữa mỗi
mùa), chia ra ba hạng, học 2 năm hay 3, 4 năm Học
xong thi cũng giống Giám sinh, được thi Hương, nếu
không đủ khả năng làm văn thể trường thi thì bị
đuổi.
Học bổng hàng tháng của mỗi hạng là :
Hạng nhất (Ấm sinh thượng hạng / Thượng xá sinh) : 2
quan tiền, 2 vuông gạo, 3 cân dầu
Hạng nhì (Trung xá sinh) được 1,5 quan tiền, 1,5
vuông gạo, 2,5 dầu
Hạng ba (Hạ xá sinh) được 1 quan tiền, 1 vuông gạo,
2 cân dầu.
4 lần "thứ" thì đuổi.
Năm thứ 4 được học bổng như Giám sinh, thưởng phạt
theo số điểm như nhau.
- Học sinh - Như Ấm sinh. Những người được ưu, bình,
chưa đỗ thi Hương, được giữ lại học ở Quốc Tử Giám, điểm xấu
thì đuổi.
Học bổng hàng tháng là 2 quan tiền, 1 vuông gạo, 3
cân dầu. Sau khi thi :
hạng ưu tăng lên 3 quan tiền, 2 vuông gạo, 5 cân dầu
hạng bình được 2 quan tiền, 1,5 vuông gạo, 4 cân dầu
hạng thứ được 1,5 quan tiền, 1 vuông gạo, 3 cân dầu
; 4 lần thứ thì đuổi.
- Cử nhân -- Thi vào tháng trọng mỗi mùa. Được ưu
hạng thì tăng học bổng, 4 lần "thứ" thì đuổi.
Học bổng hàng tháng của Cử nhân là 3 quan tiền, 2
vuông gạo, 5 cân dầu. Sau khi thi :
hạng ưu được tăng 1 quan tiền
hạng bình giảm 1 cân dầu
hạng thứ giảm 1 quan tiền, 2 cân dầu, thứ bốn lần
thì bị đuổi.
- Giám sinh -
1826
Lệ cấp học bổng cho Giám sinh tọa
Giám :
hạng ưu mỗi tháng được 4 quan tiền tiền, 2 vuông
gạo, 5 cân dầu
hạng bình mỗi tháng được 3 quan tiền, 2 vuông gạo, 4
cân dầu
hạng thứ mỗi tháng 2 quan tiền, 2 vuông gạo, 3 cân
dầu (26).
d- Hạch thi Hương, thi Hội -
Ba năm một lần sát hạch
trước mỗi kỳ thi Hương, thi Hội để chọn người được
phép đự thi. Sĩ nhân phải khai tên tuổi, quê quán...
đệ trình lên bộ Lễ rồi qua một cuộc Đình khiêu
(khiêu= chọn lựa) do quan trong triều chủ trì.
1830 Lệ khảo hạch thi Hội : Trước kia các Giám sinh
do quan ở Giám sát hạch rồi cho thi. Nay danh sách
do quan nhà Giám dâng lên, vua sai sát hạch lại :
hạng ưu được cùng thi với các Cử nhân, hạng nhì ở
lại nhà Giám học tập, hạng liệt bổ làm vị nhập lưu
thư lại ở các bộ.
Lệ này sau bãi bỏ, vua cho là quan ở Giám hiểu rõ
trình độ học sinh hơn là khảo quan chỉ thi có một
ngày, hễ Giám thần chọn là được đi thi, nếu có gì
thì cứ Giám thần mà trách.
1837 Ấm sinh học ở
Quốc Tử Giám một năm trở lên, kỳ khảo khóa
làm đủ văn thể ba trường, nếu gập kỳ thi Hương thì
cho được thi không câu nệ phải đủ hạn hai năm.
C- Bổ dụng
1509 Sắc chỉ :
Quốc Tử Giám sinh ba xá sinh, người nào 30
tuổi trở lên thì bản quan mới được bảo cử bổ dụng.
1674 Giám sinh đã làm việc ở Giám 15 năm gọi là
"thâm niên", đi thi nhiều lần, số vào đã đến thập
trường (10 kỳ), nếu được quan ở Giám bảo cử, ở kinh
thì được làm các chức Trưởng sử, Bạn độc, Tư nghị,
Giảng dụ, Giám bạ, Tự ban, Cáp môn, Đô sự... ; ở
ngoài thì làm Huyện úy, Tri châu, Huấn đạo. Sau khi
nhậm chức mãn hạn hai tao ở kinh thì thăng Viên
ngoại, Tự thừa, Lục sự, Huyện úy, Học chính... ; ở
ngoài làm Tá mục, Đô quan... Viên nào trúng tam
trường thi Hội, ở kinh thăng Lang trung, Thiếu
khanh, Giáo thụ... ; ở ngoài làm Hiến phó. Nhiệm kỳ
mãn hạn thăng Tham nghị (27).
1824 Chọn 10 Giám sinh giỏi giao bộ Lễ sát hạch, bộ
Lại nghị bổ : quê từ Quảng-bình vào Nam làm Hàn lâm
viện Kiểm thảo hay Điển bạ sung làm Hành tẩu văn
phòng, quê từ Nghệ-an ra Bắc bổ Tư vụ 6 bộ.
1825 Kỳ khảo khóa tháng trọng Xuân sai Tham tri bộ
Lễ Nguyễn Đăng Tuân , Ký lục Vũ Huy Đạt sung Chủ
khảo, bọn Thiêm sự Trương Minh giảng12 người làm
Phân khảo, đến Di Luân đường họp các học sinh tọa
Giám khảo hạch. 7 người đỗ hạng ưu bổ Hàn lâm viện
Kiểm thảo ; hạng bình ở lại học tập ; hạng thứ đình
lương một tháng ; hạng liệt cùng những người cáo ốm
trốn hạch 52 người đều bị cách.
Thự Tế tửu Trần Trọng Huyến và Thự Tư nghiệp Thân
văn Quyền bị giáng chức : Giám sinh Lý Trần Trinh
đến trước quan điển khảo tự trần rằng hạch 5 khóa y
đều được ưu mà không được tuyển, những người được cử
thì có người chỉ hạng bình, hạng thứ cùng là người
mới bổ. Vua cho xét lại, giáng Huyến làm Chủ sự bộ
Lễ, Quyền làm Chủ sự bộ Lại.
* Ngoại hạng : 1841 Nguyễn Xuân Thưởng, ngoài 60
tuổi mà không dự hạng lấy đỗ (thi Hội). Vua xem danh
sách, bảo Nội các :"Nhà nước dậy nuôi nhân tài muốn
được kịp thời bổ dụng, sao nỡ để cho họ chìm mãi
trong nhà Học, đọc sách đến bạc đầu ư ?". Truyền cho
bộ Lại sát hạch, bổ làm Huấn đạo huyện Phú-xuyên.
Châtenay-Malabry tháng 3, 2004
Nguyễn Thị Chân Quỳnh
Sửa lại tháng 12, 2005


 |
Văn Miếu -
Quốc Tử Giám - Nơi được coi là trường Đại học
đầu tiên của Việt Nam. Ảnh: Bùi Tuấn
(trích ĐHQGHN) |
CHÚ THÍCH
1- Một vài sử gia viết :"1076 lập Quốc Tử Giám, nền Đại học
của ta bắt đầu thành hình" e không được chính xác.
Những sắc lệnh thời Lê, Nguyễn, cho thấy học trò
Quốc Tử Giám
chia ra ba hạng : Hạ xá sinh cho những người sơ học
còn chưa biết cách chấm câu, Trung xá sinh đã biết
làm văn bài, có thể đi thi Hương, thi Hội và Thượng
xá sinh dành cho những người có trình độ cao nhất,
như Hương cống (tức Cử nhân) hay Giám sinh chuẩn bị
thi Hội. Học sinh theo học cấp cao đẳng gọi là Học
sinh Thượng hạng. Trần Quý Cáp tuy không đỗ Cử nhân
nhưng được dự thi Hội với tư cách là Học sinh Thượng
hạng).
Nghìn Xưa Văn Hiến,IV, tr. 65 - Tuyển tập Văn bia Hà
nội, tr. 14.
Khuê là tên một vì sao trong nhị thập bát tú, chủ về
văn chương, đỗ đạt cao.
Trung Quốc Sử Cương, tr. 150, 271-3.
Tứ thư là : Đại Học, Luận Ngữ, Trung Dung, Mạnh Tử.
Ngũ kinh là : Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Thi, Kinh
Thư, Kinh Xuân Thu.
Mũ cao sơn có từ đời Trần, tựa như mũ viễn du (cao 9
tấc, thân thẳng, đỉnh hơi lõm, có ống suốt ngang để
tháo ra) nhưng không có lõm hay ống suốt.
Mũ thái cổ = đời Trần, bằng vải thâm, của người mới
gia quan đội.
Lịch Triều Hiến Chương - Khoa Mục Chí, 12.
Đời Lê, kinh thành (Thăng-long) nằm trong địa bàn
phủ Phụng-thiên, phủ chia làm hai huyện Thọ-xương
(trước là Vĩnh-xương) và Quảng-đức (trước là
Vĩnh-thuận), mỗi huyện gồm 18 phường (Thăng-long,
Đông đô, Hà-nội, tr. 46).
Lê triều chiếu lịnh thiện chính, tr. 167.
Phần đông chép là Ngô Thì Nhậm bị đem đến Văn Miếu đánh,
nhưng Đại Nam Thực Lục Chính Biên lại chép là đem
đến "Đốc Học Đường (Quốc Tử Giám) đánh". Tôi chép theo phần
đông vì nghĩ rằng năm 1803 Gia-Long bãi Quốc Tử Giám ở
Thăng-long, mà Ngô Thì Nhậm trước đã bị đem vào Huế
rồi vì Gia-Long nghe Đặng Trần Thường xúi giục lại
giái ra Thăng-long nghị tội, rồi bị đánh đên chết
cũng năm 1803, rất có thể lúc ấy không còn Quốc Tử
Giám.
Đại Việt Sử Ký Tục Biên, tr. 345.
Thăng-long, Đông đô, Hà-nội, tr. 51-4.
Văn khắc Hán Nôm, 882.
Đại Nam Nhất Thồng Chí - Kinh sư, tr. 37-8.
Đại Nam Nhất Thống Chí - Kinh sư, tr. 80 - BAVH, số
1, 1917, tr. 38.
Kinh sư, tr. 80.
Vũ Trung Tùy Bút : nhà xuất bản Đông Nam Á ở Paris
in lại bản của nhà Văn Học ở Việt Nam (1972) thiếu
đoạn này.
Kinh Sư, tr. 80-81. Kinh sư phân biệt Quốc Tử Giám với trường
Quốc học, Thực Lục dùng lẫn lộn hai từ này.
Bulletin des Amis du Vieux Hué, số 1, 1917.
Tục biên, tr. 314.
Có chỗ chép là phương gạo, có chỗ chép là vuông gạo.
1 phương gạo = 13 thăng hay 30 bát gạt bằng miệng,
năm 1804 (theo Thực Lục, I I I, 241 -
Đại Nam Điển Lệ, 223).
1 vuông gạo = 40 lít, theo Việt-Nam Tự Điển của Lê
văn Đức.
1 vuông gạo = 604 gr 50, theo Nguyễn vănTrình và Ưng
Trình, BAVH, số 1, 1917.
21- Đại Nam Thực Lục Chính Biên, XXXIV, 386.
Lịch Triều Tạp Kỷ, tập II, tr.153.
Mũ tứ phương bình đính = bằng da, bốn bề khâu giáp
lại, trên hẹp dưới rộng, chóp phẳng (Cương Mục, I I
I, 7)..
Lễ Thích điện = cúng tế Khổng Tử.
Thực Lục XXXI, tr. 309-10.
Đại Nam Điển Lệ, tr. 273.
Lịch Triều Tạp Kỷ, tập I, tr. 44.
SÁCH THAM KHẢO
Đại Nam Điển Lệ. Nguyễn Sĩ Giác phiên dịch. Saigon :
Viện Đại học Saigon, Trường Đại học Luật khoa, 1962.
Đại Nam Nhất Thống Chí, Kinh Sư. Dịch giả Tu Trai
Nguyễn Tạo. Nha Văn Hóa Bộ Quốc Gia Giáo Dục, 1960 ;
tập I I I , "Tỉnh Hà nội". Hà nội : KHXH, 1971.
Đại Nam Thực Lục Chính Biên. Hà nội : Sử Học, Khoa
Học, KHXH, 1962-78.
Đại Việt Sử Ký Tục Biên (1676-1789). Hà nội : KHXH,
1991. Dịch giả và khảo chứng : Ngô Thế Long - Nguyễn
Kim Hưng.
Đinh Gia Khánh chủ biên, Thăng long, Đông đô, Hà
nội. Sở Văn Hóa Thông Tin Hà nội, 1991.
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục. Dịch giả :
Phạm Trọng Điềm, Hoa Bằng, Trần văn Giáp. Hà nội :
Văn Sử Địa, 1957.
Lãng Nhân, Giai Thoại Làng Nho Toàn Tập. Saigon :
Nam Chi Tùng Thư, 1966. Tái bản ở Mỹ.
Lê Triều Chiếu Lịnh Thiện Chính. Dịch giả Nguyễn Sĩ
Giác. Saigon : Luật Khoa Đại Học, 1961.
Minh-Mệnh Chính Yếu, I. Huế : Thuận hóa, 1994.
Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, I. Dịch giả
Cao Huy Giu. Hà nội : KHXH, 1967.
Ngô Cao Lãng, Lịch triều tạp kỷ. Dịch giả Hoa Bằng.
Hà nội : KHXH, 1975.
Nguyễn Quang Hồng chủ biên, Văn khắc Hán Nôm. Hà nội
: KHXH, 1992-3.
Nguyễn văn Trình và Ưng Trình, "Le Quoc Tu Giam",
BAVH (Bulletin des Amis du Viêux Hue), No 1, 1917.
Phạm Đình Hổ, Vũ Trung Tùy Bút. Dịch giả Đông Châu
Nguyễn Hữu Tiến. Hà nội : Văn Học, 1972 ; Paris :
Đông Nam Á tái bản, 1985.
Phan Huy Chú, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí - Khoa
Mục Chí. Tổ biên dịch : Viện Sử Học Viêt-Nam.
Hà-nội : Sử Học, 1961.
Phan Khoang, Trung Quốc Sử Cương. Chợ lớn : Hồng
Phát; 1958 ; Đại Nam tái bản ở Mỹ.
Trần Quốc Vượng, Giang Hà Vị, Nghìn Xưa Văn Hiến,
IV. Hà nội : Kim Đồng, 1984.
Ưng Trình, "Le Temple des Kettrés", BAVH, số 4,
1916.
Vũ Tuân Sán, Ngô Thế Long, Trần văn Giáp phụ trách
việc biên dịch, Tuyển tập Văn bia Hà nội, I. Hà nội
: KHXH, 1978.
|