«THẾ GIAN
MỘT VỢ
CHỒNG, KHÔNG
NHƯ VUA BẾP
HAI ÔNG MỘT
BÀ». ĐÂY
LÀ CÂU CA
DAO CỦA
NGƯỜI VIỆT
NAM NHẮC LẠI
SỰ TÍCH VỀ
TÁO QUÂN,
NHƯNG ĐÓ LÀ
TÁO VIỆT
NAM, CÒN TÁO
QUÂN TRUNG
QUỐC THÌ
SAO? PHẢI
CHĂNG TÁO
TRUNG QUỐC
CŨNG CÓ CẢNH
CHUNG SỐNG
HÒA BÌNH VỚI
MỐI TÌNH TAY
BA TƯƠNG TỰ
NHƯ TÁO VIỆT
NAM?

Hầu như mỗi
người Việt
chúng ta ai
cũng thuộc
lòng sự tích
Táo Quân,
còn gọi là
Vua bếp
hay Ông
Công.
Hằng năm,
trong cái
không khí
tất bật của
năm tàn
tháng tận,
đa số chúng
ta đều không
quên phong
tục cổ
truyền: ngày
23 tháng
Chạp, cúng
tiễn ông Táo
về Trời. Gia
đình giàu có
thì tha hồ
bày biện lễ
vật: hoa
quả, trầu
rượu, xôi
gà... nhân
tiện cũng
cúng gia
tiên luôn
một thể.
Người miền
Bắc và Trung
thường cúng
thêm một con
cá chép
sống, bởi vì
cá chép có
thể hóa rồng
(Lý ngư hóa
long) để
vượt qua
chín tầng
trời, đưa
ông Táo gặp
Ngọc Hoàng
Thượng Đế,
tâu trình
việc thiện
ác của nhân
gian trong
suốt năm
qua. Người
miền Nam
không cúng
cá chép,
thay vào đó
là đốt giấy
in mộc bản
hình «cò
bay, ngựa
chạy» coi
như hai con
vật này cũng
có thể giúp
ngài bay về
thượng giới.
Cò bay thì
đã đành,
nhưng ngựa
chạy thì làm
sao mà lên
trời được,
có lẽ ở đây
mang ngụ ý
đễ cưỡi
mà thôi. Gia
đình nào
kinh tế eo
hẹp, chút
hoa chút
trà, ba nén
nhang, một
dĩa kẹo thèo
lèo, giấy cò
bay ngựa
chạy, tưởng
cũng đã đủ.
Lòng tự nhủ:
«Việc lễ quý
ở lòng
thành!»
Táo quân
Việt Nam
 |
Táo quân
Việt Nam
(nguồn: Lối xưa xe ngựa tập II của Nguyễn Thị Chân Quỳnh) |
Tìm lại
những sách
ghi chép
huyền thoại
Táo Quân, ta
nhận ra các
sách này
chép nhiều
chi tiết sai
biệt. Theo
Trần Ngọc
Ninh (Huyền
Thoại Học và
Huyền Thoại
Lí Học Việt
Nam, Văn
Hóa Tập San
số 2-1974),
công việc
biên chép
các huyền
thoại Việt
Nam bắt đầu
từ thời Bắc
thuộc do
người Trung
Quốc viết và
được tiếp
nối cho đến
nay qua các
ngòi bút
người Việt,
người Pháp.
Các sự biên
chép này còn
thiếu sót,
thiếu trung
thực, nhiều
tác giả cố ý
muốn làm văn
chương nên
đã xen vào
những ý
tưởng cá
nhân, thêu
dệt, phẩm
bình. Có tác
giả còn cắt
xén, sửa đổi
các tình
tiết sao cho
phù hợp ý
thức hệ,
hoặc cắt bỏ
những chi
tiết để
tránh lời
phê bình là
kể lại các
câu chuyện
có tính xúc
phạm thuần
phong mỹ
tục. Theo
ông Ninh,
các tác giả
cổ như Trần
Thế Pháp (Lĩnh
Nam Chích
Quái),
Lý Tế Xuyên
(Việt
Điện U Linh
Tập) cho
đến các tác
giả cận và
hiện đại như
Nguyễn Đồng
Chi (Lược
Khảo Thần
Thoại Việt
Nam,
1956), Hoàng
Trọng Miên
(Việt
Nam Văn Học
Toàn Thư,
18-1959) hay
Phạm Duy
Khiêm... đều
để lộ cái ý
định làm văn
chương thông
qua huyền
thoại.
Do đó, sự
tích Táo
Quân được
truyền khẩu,
rồi ghi
chép, như
vậy nhất
định đã qua
mấy lần sai
biệt. Nhất
Thanh (Đất
Lề Quê Thói,
Saigon 1970,
tr. 320)
chép huyền
thoại này
như sau:
«Ngày xưa có
hai vợ chồng
nghèo đến
nỗi phải bỏ
nhau. Sau,
người vợ lấy
được người
chồng khác
giàu có. Một
hôm cúng,
đang đốt
vàng mã
ngoài sân,
vô tình
người chồng
trước vào
xin ăn, vợ
nhận ra,
động lòng
thương cảm,
đem cơm gạo
tiền bạc ra
cho. Người
chồng sau
biết chuyện,
người vợ bèn
lao đầu vào
đống vàng
cháy chết
thiêu. Người
chồng cũ cảm
kích nhảy
vào lửa chết
theo. Chồng
sau vì
thương, nên
cũng nhảy
vào nốt. Cả
ba đều chết
cháy. Ngọc
Hoàng thấy
ba người có
nghĩa, phong
làm vua
bếp.»
Ông
Nhất Thanh
trích dẫn sự
tích này
trong quyển
Việt Nam
Phong Tục
của Phan Kế
Bính. Trong
câu chuyện
trên, có
nhiều chi
tiết phi lý,
như: giấy
đốt vàng mã
không thể
nào đủ để tự
thiêu chết,
thứ hai:
người chồng
trước và sau
lần lượt
nhảy vào
đống lửa để
được chết
chung với
nàng, như
vậy đống
vàng mã đó
phải lớn lắm
ắt cỡ một
giàn hỏa mới
phải! Ta có
thể bỏ qua
sự phi lý
này, bởi lẽ
trong huyền
thoại luôn
luôn chất
chứa những
tình tiết
phi lý (theo
lối suy nghĩ
của con
người hiện
đại), nhưng
yếu tố này
không quan
trọng. Quan
trọng hơn cả
chính là
những ý
nghĩa biểu
tượng ẩn
tàng sau các
tình tiết
phi lý đó.
Cổ tích
và huyền
thoại lưu
truyền cả
ngàn đời, sự
suy luận của
người ban sơ
tất nhiên
khác biệt
với sự suy
luận của
chúng ta
ngày nay.
Tìm hiểu và
ghi chép
huyền thoại,
ta cần phải
quên hiện
tại, mà phải
lui về bóng
tối quá khứ
mịt mờ, đặt
mình vào
hoàn cảnh
của người
thiên cổ.
Chỉ vì muốn
chỉnh đốn
lại những gì
chúng ta cho
rằng phi lý,
chỉ vì muốn
biến huyền
thoại nghe
có lý, phù
hợp với lối
nghĩ suy
hiện tại,
chúng ta đã
làm hỏng
huyền thoại.
Đó là chưa
xét tới tham
vọng làm văn
chương của
nhiều tác
giả.
Nhất Thanh
ghi chú thêm
một chi tiết
khác về vua
bếp, nghe
«hợp lý» hơn
đó là
đống rơm
chứ không
phải đống
vàng bạc
giấy: «...
vì bất thần
người chồng
sau đi làm
đồng trở về,
người vợ dẫn
chồng cũ ra
núp ở đống
rơm. Người
chồng sau
đốt cháy
đống rơm để
lấy tro bón
ruộng. Do
ngủ quên,
người chồng
cũ bị chết
cháy trong
đống rơm. Vợ
cảm kích
nhảy vào lửa
tự thiêu,
Người chồng
sau thương
vợ cũng nhảy
vào nốt.»
Hoàng Trọng
Miên (sách
đã dẫn,
tr.77) chép
một cách dài
dòng và văn
chương hơn
về Thần Bếp,
tóm lược đại
khái như
sau:
Có hai vợ
chồng tiều
phu nghèo
không con.
Vợ thương
yêu chồng,
nhưng chồng
hay nhậu
nhẹt đánh
đập vợ. Vợ
buồn bỏ đi,
gặp túp lều
tranh của
một thợ săn,
xin tá túc.
Sau, hai
người làm vợ
chồng. Người
chồng cũ hối
hận, bỏ đi
tìm vợ. Tình
cờ lạc bước
túp lều
tranh ấy,
đương lúc
người thợ
săn đi vắng,
chỉ có người
vợ ở nhà.
Người chồng
cũ van xin
vợ tha thứ
và quay trở
lại, người
vợ cũng động
lòng tỏ ý
còn thương.
Lúc đó người
chồng sau về
tới. Người
vợ bảo chồng
cũ ra trốn
trong đống
rơm. Người
thợ săn mang
về con thỏ,
đem ra đống
rơm thui,
làm gã chồng
cũ chết
cháy. Người
vợ đau lòng
nhảy vào
chết theo.
Anh thợ săn
tưởng mình
làm điều bất
nghĩa, hối
hận lao vào
nốt. Trời
cảm động
trước
tình yêu tay
ba này,
bèn cho cả
ba hóa thành
vua bếp, dụm
đầu thành bộ
ba trong bếp
lửa.
Phân tích và
đối chiếu
các dị thoại
này, gạt bỏ
các chi tiết
rườm rà, ta
nhận ra các
thoại vị
(mythème:
đơn vị huyền
thoại):
(1) Tình
tay ba hai
ông một bà:
mang dấu vết
của chế độ
mẫu hệ
(matriarchy).
(2) Sử
dụng lửa để
đốt rơm lấy
tro làm
ruộng:
mang dấu vết
của nền văn
minh nông
nghiệp.
(3) Sử
dụng lửa để
thui nướng
thú săn:
mang dấu vết
của nền văn
minh săn bắt
và hái quả.
(4) Trời:
bày tỏ niềm
tín ngưỡng
chung của
các dân tộc
Á Đông. Tin
tưởng vào
một đấng tối
cao, Ngọc
Hoàng Thượng
Đế, bày tỏ
sự giao cảm
giữa con
người với
thần linh.
(5) Bếp
lò: giải
thích nguồn
gốc của bếp
lò, cơ cấu
của bếp (có
ba đỉnh để
đặt nồi
niêu...).
Lửa và bếp
lò, hai phát
minh này của
con người
ghi dấu sự
kết thúc
giai đoạn
con người ăn
sống nuốt
tươi, ăn
lông và ở
lỗ. Lửa mở
đầu cho nền
văn minh
nhân loại.
Xác định
được các
thoại vị
trên, ta có
thể bảo rằng
huyền thoại
về Táo Quân
đã có kể từ
lúc tổ tiên
ta sống đời
định cư nông
nghiệp thuở
còn chế độ
mẫu hệ, biết
sử dụng lửa
trong việc
nấu nướng ẩm
thực và phát
minh quan
trọng là bếp
lò. Tổ tiên
ta đã trình
bày một tiên
đề hình học
không gian
mà một học
sinh cấp ba
ngày nay đều
biết: «Ba
điểm không
thẳng hàng
xác định một
mặt phẳng.»
Tiên đề này
được trình
bày một cách
huyền thoại
hóa. Tổ tiên
ta đã ứng
dụng nó để
chế ra bếp
lò. Rất có
thể tổ tiên
ta chưa có
một hệ thống
lý luận toán
học, nhưng
trong quá
trình lao
động và sinh
sống, kinh
nghiệm dạy
cho họ biết
rằng nếu
dùng ba cục
đá đều nhau
đặt không
thẳng hàng
trên mặt đất
họ có thể
đặt vững
vàng trên đó
một cái nồi
hay cái
chảo. Sự
vững vàng đó
có người đem
ví von với
tấm lòng
kiên quyết
riêng tư qua
câu ca dao:
«Dù
ai nói ngả
nói nghiêng,
lòng ta vẫn
vững như
kiềng ba
chân.»
Kiềng ba
chân là một
dạng bếp lò.
Từ Điển
Việt Nam
của Lê Văn
Đức giải
thích: «Lò
bằng vòng
sắt có ba
chân.»
cà-ràng
Ông Táo của
người Nam bộ
– những
người chịu
ảnh hưởng
của «nền văn
minh miệt
vườn» (theo
cách gọi của
Sơn Nam) và
trải cuộc
đời trên
sông nước –
còn có một
dạng độc đáo
khác: cái
kiềng đất,
còn gọi là «cà-ràng».
Hầu như
người miền
Bắc và Trung
không sử
dụng
«cà-ràng».
Căn cứ theo
tên gọi,
người ta
phỏng đoán
gốc gác của
nó là Khmer.
Ưu điểm của
cà-ràng là
có thể đặt
trên ghe
thuyền phục
vụ việc nấu
nướng an
toàn, đặc
biệt cho
những người
dân sống
trên sông
nước, lấy
ghe thuyền
làm nơi trú
ẩn.
Trên đây là
đôi nét phân
tích sơ lược
về huyền
thoại Táo
Quân Việt
Nam, thế còn
Táo Quân
Trung Quốc
thì sao?
 |
Táo
quân
Trung
Quốc
(nguồn:
E.T.C.
Werner,
Myths
&
Legends
of China) |
Học giả
E.T.C.
Werner dịch
«Táo Quân»
ra tiếng Anh
là: «The
God of the
Stove»,
«The
God of
Hearth»,
«The
Kitchen-god».
Còn Léon
Wieger dịch
ra tiếng
Pháp là «Génie
de l’âtre»,
«Génie
du fourneau
alchimique».
Táo Quân là
một phát
minh của Đạo
giáo
(Taoism)
Trung Quốc,
nhưng cho
đến nay hầu
hết các gia
đình người
Hoa đều thờ
phượng. Theo
tín ngưỡng
của họ, có
những vị
thần bảo hộ
cho dân
chúng, trong
đó những vị
quan trọng
nhất là:
Thần Xã Tắc
(về đất đai,
mùa màng),
Thần Nông
(về nông
nghiệp),
Thần Hậu Thổ
(nữ thần
đất),
Thành Hoàng
(bảo hộ dân
làng),
Thổ Địa (thần
đất địa
phương),
Táo Quân
(Thần Bếp),
Thiên Hậu
(Nữ thần phù
hộ dân đi
biển),
Tàm Nữ
(Nữ thần về
dâu tằm),
Thần Tam Đa
tức là 3 ông
Phúc-Lộc-Thọ,
Thần Môn Hộ
(thần
giữ cửa,
nhà)...
Người Trung
Quốc cho
rằng có một
vị tối cao
trong vũ trụ
gọi là
Nguyên Thủy
Thiên Tôn
tạo dựng
muôn loài.
Nguyên Thủy
Thiên Tôn
còn đứng cao
hơn Tam
Thanh tức
tam vị nhất
thể
(Trinity)
của đạo Lão
(Ngọc Thanh,
Thượng Thanh
và Thái
Thanh). Theo
Werner, Táo
Quân là ...
«Trùm Mật
Vụ» (The
Chief of the
Secret
Police) của
Nguyên Thủy
Thiên Tôn,
ghi chép
những việc
làm thiện ác
của từng gia
đình để rồi
cuối năm báo
cáo lại cho
Nguyên Thủy
Thiên Tôn
biết. Còn
Thiên Lôi là
«nhân viên
hành pháp»
của Ngài.
Thông thường
quần chúng
hay gán cho
Nguyên Thủy
Thiên Tôn là
Ngọc Hoàng
Thượng Đế.
Truy lại
huyền thoại
về Táo Quân,
như đã nói,
Táo Quân là
phát minh
của Đạo giáo
(Taoism).
Vào đời Hán,
giới
phương sĩ
(magician)
đã truyền bá
thuật trường
sinh bất tử.
Những phương
sĩ này đã
xuất hiện
trước đó từ
thời Tần
Thủy Hoàng
(người thống
nhất Trung
Quốc vào năm
221 tcn). Họ
từ miền
duyên hải
Đông Bắc
Trung Quốc
quy tụ về
dưới trướng
của Vua Tần
để hiến
thuật trường
sinh cho
Vua.
Nổi bật
trong đám là
bọn Lư Sinh,
Từ Phúc.
Nhưng rồi
Vua Tần sớm
nhận ra rằng
mình đã bị
đám phương
sĩ lừa bịp,
công việc
triều chính
hư hỏng,
công quỹ hao
tổn. Vua nổi
thịnh nộ,
bèn chôn
sống 460
người gồm
bọn phương
sĩ lẫn đám
nho sĩ thích
dèm pha phỉ
báng. Nhưng
bọn Lư Sinh
và Từ
Phúc thì đã
cao bay xa
chạy. Đến
khi nhà Hán
lên thay nhà
Tần.
Đám phương
sĩ lại lục
tục kéo tới
triều đình
với bổn cũ
soạn lại.
Đời vua Hán
(Hán Vũ Đế,
Hán Văn Đế,
Hán Cảnh Đế)
đều là những
người hâm mộ
Lão Tử và
cái học
trường sinh
bất tử. Dưới
triều Hán Vũ
Đế (140-87
tcn) đám
phương sĩ
được vua
biệt đãi và
sủng ái.
Đứng đầu là
bọn Lý Thiếu
Quân. Lý đề
xướng quan
điểm mới
khác với bọn
Lư
Sinh và Từ
Phúc
xưa kia.
Muốn được
trường sinh,
phải luyện
đan nấu
thuốc.
Nghi lễ đầu
tiên mà Lý
đề nghị với
Hán Vũ Đế là
Lễ Tế Lò. Vị
thần được tế
là Táo Quân,
vốn là sản
phẩm tưởng
tượng của Lý
Thiếu Quân.
Vậy lễ cúng
ông Táo đầu
tiên được
tính từ thời
Hán Vũ Đế.
Bằng tà
thuật, Lý đã
làm say mê
vị vua nhẹ
dạ cả tin
này qua phép
chỉ đá hóa
vàng. Nhưng
rồi dần dần
vua khám phá
thói bịp bợm
của họ Lý.
Một hôm Lý
viết chữ
trên một tấm
lụa rồi cho
một con bò
nuốt vào bao
tử. Sau đó
Lý tuyên bố
với vua sẽ
tìm được một
lá bùa trong
bụng con bò.
Lá bùa được
moi ra từ
bụng con bò
xấu số. Tuy
nhiên vua
còn đủ sáng
suốt để nhận
ra nét bút
của họ Lý.
Ngay lập
tức, vua ban
lệnh xử trảm
Lý Thiếu
Quân. Thế
nhưng, tục
thờ cúng ông
Táo vẫn lưu
truyền từ
đời Hán cho
đến nay.
Từ đời Hán
đến đời
Tống, Táo
Quân không
chỉ là vị
thần lò
luyện đan
của giới đạo
sĩ. Táo Quân
được phổ
biến hơn và
được tin
tưởng như là
một vị thần
bảo hộ bếp
núc, gia
cang. Chữ
Táo 灶 trong
Hán ngữ có
nghĩa là
«bếp lò».
Người ta
không tìm
được chứng
cớ nào xác
minh sự thay
đổi tín
ngưỡng Táo
Quân từ cục
bộ sang phổ
thông. Có
thể phỏng
đoán rằng
vào đời
Đường, các
đạo sĩ ngoài
việc tạo các
vị thần mới,
họ còn
truyền bá
ảnh hưởng
của các vị
thần cũ của
họ có tính
phổ thông
đại chúng
hơn trong
quá trình
cạnh tranh
với đạo Phật
là một đạo
rất phồn
thịnh ở đời
Đường
(618-907).
Tư liệu đầu
tiên có ghi
chép về Táo
Quân là thi
tuyển
Thạch Hồ Từ
của thi sĩ
Phạm Thành
Đại sống
dưới triều
vua Cao Tông
(1127-1126)
của nhà Tống
(960-1280).
Trong tập
thi tuyển,
Phạm có bảo
mỗi gia đình
dân chúng
thường cúng
ông Táo vào
dịp cuối năm
để ngài bay
về trời báo
cáo cho Ngọc
Hoàng Thượng
Đế biết việc
thiện ác của
gia chủ đã
làm. Tuy
nhiên, chẳng
có thư tịch
nào trưng
được nguồn
gốc của
phong tục
này.
Như vậy Táo
Quân có
quyền năng
đối với từng
sinh mạng
mỗi thành
viên của
từng gia
đình, những
báo cáo hằng
năm của Táo
Quân cho
Thượng Đế
biết sinh
hoạt của gia
chủ sẽ tác
động rất lớn
đến thịnh
suy của gia
chủ. Táo
Quân lẳng
lặng ghi
chép rồi
cuối năm
lẳng lặng
phúc trình
cho Thượng
Đế, cho nên
vai trò của
Táo Quân
cũng không
khác vai trò
của «Trùm
Mật Vụ» bao
nhiêu! Có
người lại
cho rằng các
báo cáo ấy
được thực
hiện mỗi
tháng hai
lần. Việc
đưa tiễn ông
Táo được bày
thiết lễ
cúng khác
nhau, thông
thường lễ
vật là mật
ong và bánh
nếp. Có lẽ
chất ngọt
của mật và
chất dính
của nếp sẽ
làm ngài báo
cáo bằng
những lời
ngọt ngào
hơn chăng?
Theo Werner,
có ít nhất
là 40 truyền
thuyết về
nguồn gốc
của Táo
Quân. Truyền
thuyết phổ
biến nhất
như sau: Có
người tên là
Trương Táo
Vương lấy vợ
tên Quách
Đinh Hương,
một người
đức hạnh và
giỏi giang.
Một thời
gian sau,
Trương chán
chê vợ, bèn
dan díu với
một ả kỹ nữ
tên là Lý
Hải Đường.
Lý xúi giục
Trương bỏ vợ
theo ả. Đinh
Hương ra đi
với hai bàn
tay không,
rồi trở về
nhà bố mẹ
ruột. Trương
và Lý chung
sống với
nhau, gia
đình dần dần
suy sụp, Lý
quay trở lại
nghề bán
phấn buôn
hương,
Trương nghèo
đói, mù lòa,
bèn đi ăn
xin. Tình
cờ, Trương
lạc bước đến
nhà vợ. Đinh
Hương nhận
ra chồng
ngày xưa,
đau lòng
thấy chồng
mù mắt, xin
ăn, bèn dọn
cho chồng cũ
món mì sợi
mà ngày xưa
chàng rất
thích.
Trương ăn,
bỗng sững
sờ, sao món
ăn nầy giống
món ăn ngày
xưa vợ anh
từng nấu.
Bèn khóc.
Đinh Hương
gọi: «Trương
Lang! Trương
Lang! Mở mắt
ra!» Trương
mở mắt ra,
mắt sáng trở
lại, nhìn
thấy vợ cũ,
lòng hổ thẹn
bèn chạy
trốn, nào
ngờ chạy tọt
vào bếp lò
cháy chết.
Đinh Hương
cố sức kéo
chân chồng
ra, ai ngờ
chân lìa ra.
Kể từ đó
người đời
gọi dụng cụ
để cào than
trong bếp là
«Trương Lang
Túc» (chân
Trương
Lang.) Đinh
Hương thương
xót chồng và
thờ tại bếp
lò nơi chồng
mất mạng.
Tục thờ Táo
Quân có lẽ
từ đó.
Nếu gốc gác
Táo Quân
đúng như
truyền
thuyết trên,
thiết tưởng
nhân vật
Trương Táo
Vương không
đáng cho
người đời
thờ cúng.
Nhiều tác
giả Trung
Quốc cho
rằng Táo
Quân có
nhiều tên
khác nhau
ứng với
nhiều nhân
vật khác
nhau. Có thể
là Viêm Đế
(tức Thần
Nông) phát
minh ra lửa,
hoặc đó là
Hoàng Đế
(người đầu
tiên xây
dựng bếp
lò). Danh
sách này còn
dài, liệt kê
thêm: Trọng
Lê, Ngô Hồi,
Tô Cát Lợi
và vợ là
Vương Thị,
Thần Tử
Quách,
Trương Đan,
Nhưỡng Tử,
v.v...
Ngoài ra
người ta còn
phân biệt
Táo Quân ở
phương Đông
mặt xám, ở
phương Nam
mặt đỏ, ở
phương Tây
mặt trắng, ở
phương Bắc
mặt đen, và
ở trung tâm
mặt vàng. Có
người còn
cho rằng có
rất nhiều
Táo Quân,
ứng với từng
thành viên
trong gia
đình. Nhiệm
vụ của Táo
Quân, như đã
nói, là giữ
gìn bảo hộ
sinh mạng
cho từng
thành viên
gia chủ cho
nên Táo Quân
còn được gọi
là Tư
Mệnh Phủ
Quân.
Mỗi người sẽ
giàu hay
nghèo, thọ
hay yểu là
tùy thuộc
vào báo cáo
của Táo
Quân. Báo
cáo này được
đưa về trời
vào ngày rằm
mỗi tháng
lúc nửa đêm.
Hoặc vào
ngày canh
và ngày
thân của
tháng âm
lịch.
Có người cho
rằng ngày
đưa báo cáo
là ngày mồng
một và ngày
rằm mỗi
tháng. Nhưng
hầu hết
thường tin
tưởng rằng
ngày báo cáo
đó rơi vào
ngày 23, 24,
hoặc 26
tháng Chạp.
Ngày ông Táo
từ trời quay
trở về gia
chủ là ngày
30 tháng
chạp hoặc
trễ hơn một
chút.
Lễ đưa tiễn
ông Táo được
gọi là lễ
Tống Táo.
Gia chủ đốt
hình Táo cũ,
đốt pháo để
thêm long
trọng và
hoan hỉ,
bánh trái
trà rượu
được bày
thiết tỏ
lòng thành.
Chiều ba
mươi tết,
người ta làm
lễ Tiếp Táo,
đón vị Táo
mới cho gia
chủ, pháo nổ
và lễ vật
cũng long
trọng không
kém buổi
Tống Táo.

Đối chiếu
huyền thoại
Táo Việt Nam
và Táo Trung
Quốc, ta
thấy hai dân
tộc đều có
chung niềm
tín ngưỡng
Táo Quân,
coi như đây
là vị thần
bảo hộ cho
gia đình.
Các phong
tục cúng bái
cũng rơi vào
ngày cuối
năm, tức 23
tháng Chạp,
với niềm hy
vọng ngài sẽ
báo cáo cho
Ngọc Hoàng
biết những
điều tốt đẹp
về gia chủ,
nhờ đó hưởng
thêm nhiều
phúc thọ. Có
thể nói rằng
sự giao lưu
văn hóa giữa
hai dân tộc
đã đem lại
sự tương
đồng về tín
ngưỡng này.
Tuy nhiên,
phải nhìn
nhận rằng
các thuyết
về Táo Quân
Trung Quốc
quá mơ hồ,
người đời
lại thêu dệt
bịa đặt quá
nhiều, nên
khó chấp
nhận được
(trừ trường
hợp của Lý
Thiếu Quân).
Huyền thoại
Táo Quân
Trung Quốc
chịu ảnh
hưởng của
tôn giáo
(Đạo giáo:
Taoism) còn
huyền thoại
Táo Quân
Việt Nam thì
không. Huyền
thoại Táo
Quân Việt
Nam là một
bộ Tam, có
nét độc đáo
đầy bản sắc
dân tộc,
minh hoạ trí
thông minh
sáng tạo của
người Việt
trong lao
động và sinh
hoạt. Táo
Trung Quốc
không có một
mối tình tay
ba đầy thú
vị như Táo
Việt Nam.
Nói cách
khác, huyền
thoại Táo
Trung Quốc
không giải
thích được
nguyên tắc
của bếp lò,
giỏi lắm là
chỉ nhắc lại
được phát
minh về lửa.
Táo Quân từ
đời Hán là
sự bịa đặt
của Lý Thiếu
Quân, Táo
Quân theo
các thuyết
về sau hình
như phát
sinh từ
thuyết nhân
quả báo ứng
của nhà Phật
(Trương
Táo Vương
phụ rãy vợ
hiền, sau bị
mù lòa phải
xin ăn, quả
báo cuối
cùng là bị
chết cháy).
Những nhận
xét trên cho
ta bảng đối
chiếu sau
đây:
|
TÁO
QUÂN
VIỆT
NAM |
TÁO
QUÂN
TRUNG
QUỐC |
TƯƠNG
ĐỒNG |
*
Thần
bảo
hộ
cho
gia
đình,
ảnh
hưởng
phúc
thọ
từng
thành
viên
gia
chủ
do
báo
cáo
hằng
năm
(23-Chạp)
về
trời.
* Lễ
Tống
Táo
(23-Chạp)
– Lễ
tiếp
táo
(30-Chạp
hoặc
ít
ngày
sau
đó)
*
Cúng
tế
thành
khẩn
(Hoa
quả,
trà
rượu,
nhang,
đốt
pháo,
vàng
mã,
xôi
gà,
cá
chép
...
Người
Trung
Quốc
thường
cúng
mật
ong
và
bánh
nếp....)
Lễ
vật
không
bắt
buộc,
tùy
gia
đình.
Táo
Quân
được
thờ
trong
bếp
mỗi
gia
đình.
*
Được
dịch
sang
ngôn
ngữ
Tây
phương:
ANH
(The
God
of
the
Stove,
The
God
of
the
Hearth,
The
Kitchen-God)
–
PHÁP
(Génie
de
l’âtre,
Génie
du
fourneau)
–
ĐỨC
(Herdgott). |
DỊ
BIỆT |
*
Ảnh
hưởng
tín
ngưỡng
thờ
TRỜI,
tin
tưởng
người
và
thần
linh
có
thể
giao
cảm
với
nhau.
* Có
khoảng
vài
ba
dị
thoại
(tức
là
huyền
thoại
ít
bị
cải
biến)
* Bộ
Tam:
Hai
ông
một
bà
(ngụ
ý:
chế
độ
mẫu
hệ,
nguyên
tắc
cấu
tạo
bếp
lò)
* Có
từ
thời
rất
xa
xưa,
phỏng
định
vào
lúc
người
VN
biết
sống
định
cư
nông
nghiệp,
theo
chế
độ
mẫu
hệ,
biết
sử
dụng
lửa
nấu
nướng
ẩm
thực.
*
Giải
thích
nguyên
tắc
cấu
tạo
bếp
lò –
Nhắc
lại
về
lửa
(bắt
nguồn
cho
nền
văn
minh
nhân
loại)
–
Thể
hiện
óc
thông
minh
sáng
tạo
của
tổ
tiên
người
Việt
(chế
tạo
bếp
lò,
sử
dụng
lửa,
đời
sống
nông
nghiệp,
săn
bắn).
*
Tên
gọi:
ông
Táo,
Vua
Bếp,
Táo
Quân,
ông
Công,
Thần
Bếp,
Đông
Thần
(Đông
Trù
Tư
Mệnh
Táo
Phủ
Thần
Quân),
Đông
Trù... |
*
Ảnh
hưởng
Đạo
giáo
(sản
phẩm
tưởng
tượng
của
Lý
Thiếu
Quân)
–
Ảnh
hưởng
Phật
giáo
(luật
nhân
quả
báo
ứng
đối
với
Trương
Táo
Vương.)
* Có
trên
40
dị
thoại,
phổ
biến
nhất
là
Trương
Táo
Vương
và
Quách
Đinh
Hương.
*
Một
người
(của
Đạo
giáo)
hoặc
hai
người
(vợ
chồng
Trương-Quách)
* Có
từ
đời
Hán
(206
tcn-
220cn),
thoạt
đầu
phổ
biến
trong
giới
Luyện
Đan
(alchemy)
trong
Lễ
Tế
Lò.
Về
sau
(khoảng
Đường,
Tống
phổ
biến
đại
chúng
thành
thần
bảo
hộ
gia
đình).
*
Không
giải
thích
nguyên
tắc
cấu
tạo
bếp
lò –
Nhắc
lại
về
lửa
–
giải
thích
tên
gọi
của
cái
cào
than
(Trương
Lang
Túc)
–
Dấu
vết
ảnh
hưởng
của
tôn
giáo
(Lão,
Phật)
*
Tên
gọi:
Táo
Quân,
Táo
Vương,
Tư
Mệnh
Phủ
Quân,
Táo
Thần,
Viêm
Đế,
Hoàng
Đế,
Trọng
Lê,
Ngô
Hồi,
Tô
Cát
Lơi,
Thần
Tử
Quách,
Trương
Đan,
Nhưỡng
Tử,
Định
Phúc
Tài
Thần... |
LÊ ANH
MINH

SÁCH
THAM
KHẢO
1- Trần
Ngọc
Ninh,
Huyền
Thoại
Học và
Huyền
Thoại Lí
Học Việt
Nam,
1974.
2- Nhất
Thanh,
Đất
Lề Quê
Thói,
Saigon
1970.
3- Hoàng
Trọng
Miên,
Việt Nam
V ăn Học
Toàn Thư,
Saigon
1973.
4-
E.T.C.
Werner,
A
Dictionary
of
Chinese
Mythology,
Shanghai
1932.
5-
E.T.C.
Werner,
Myths
&
Legends
of China,
Shanghai
1922.
6- Léon
Wieger,
Histoire
des
Croyances
religieuses
et des
Opinions
philosophiques
en
Chine,
1927.
|
©
http://vietsciences.free.fr
và
http://vietsciences.org
Lê Anh Minh |