Những bài viết cùng tác giả
Nguyên = đầu,
Đán = buổi sớm mai. Nguyên Đán là buổi sớm
mai của đầu năm. Tết Nguyên Đán là cái lễ đầu tiên
của năm mới, vào ngày mồng một tháng
giêng âm lịch, song không phải tháng giêng
bao giờ cũng bắt đầu vào tháng Dần như hiện nay vì
thuở xưa mỗi triều đại lên ngôi lại đổi ngày
Chính sóc (sóc = mồng một, đầu tháng âm lịch) .
Âm lịch lấy tên 12 chi (Tý, Sửu, Dần, Mão...) đặt
tên cho 12 tháng, 6 tháng thuộc dương, 6 tháng thuộc
âm, theo luật "tiêu trưởng": hễ âm tiêu thì
dương trưởng, âm trưởng thì dương
tiêu v.v..
Nhà Tần chọn tháng Hợi (tháng 10) làm tháng giêng.
Theo Kinh Dịch thì quẻ Khôn ở Hợi
cung (Khôn là Đất, là đầu mối mọi cuộc
biến thiên) và tháng 10 thì khí dương đã hàm chứa ở
dưới.
Nhà Chu chọn tháng Tý (tháng 11)
làm tháng giêng. Quẻ Phục ở Tý cung,
tháng 11 thuộc tiết Đông chí, dương bắt đầu
sinh, khôi phục lại nguyên khí.
Nhà Thương, sau đổi gọi là nhà Ân,
chọn tháng Sửu (tháng l2) làm tháng giêng.
Quẻ Lâm ở
Sửu,
Sửu là trâu,
trâu thuộc Thổ là Đất, Đất có thể ngăn nước,
chống rét nên trong lễ Lập Xuân người ta làm
trâu bằng đất để tống khí
lạnh đi.
Nhà Hạ, nhà Hán và hiện thời chọn
tháng Dần làm tháng giêng.
Quẻ Thái ở Dần cung (Thái =
hanh thông), khí hậu ấm áp trở lại, tiện cho việc
nông, nên ngày Tết Nguyên Đán vừa là ngày lễ mừng
mùa Xuân trở lại, vừa là ngày lễ bắt đầu năm mới
[1]
.
Chúng ta ăn Tết Nguyên Đán chắc là theo Trung quốc
vì có nhiều tục lệ của Trung quốc thấy bên ta cũng
áp dụng :
1 - Lập Xuân:
Kinh Lễ ghi rằng trước
Tiết Lập Xuân ba ngày, quan Thái sử tâu ngày
hôm ấy lập Xuân, thịnh đức ở Mộc, thiên tử
bèn trai giới. Ngày Lập
Xuân, thiên tử dẫn các quan và chư hầu ra cửa
thành phía Đông đón Xuân. Khi quay về thưởng cho các
công khanh, đại phu ở triều đình rồi ra lệnh ban bố
ân đức cho muôn dân, hoàn tất lễ lớn
[2].
2 - Lễ Ban Sóc:
Tương truyền đời vua Nghiêu
(2357-2257 tr. TL) sai Hy Hòa làm lịch, phân
định bốn mùa để dân thuận theo mùa và thời tiết mà
cầy cấy, trồng trọt. Do đó có lệ đầu năm triều đình
phát lịch, gọi là Lễ Ban
Sóc.
Lịch ấy tính một năm có 360 ngày và có tháng nhuận,
song độ số mặt trời tính còn sai. Đời Nam Tề, Tổ
Xung Chi sửa lại ; đời Minh, châm chước theo lịch
Hồi Hồi cũng vẫn chưa đúng. Đến đời Thanh,
Thang Nhược Vọng (Adam Schall) sửa lại lần
nữa, theo cách tính của Âu châu
[3].
3- Tết Nguyên Tiêu:
Ở Trung quốc có tục chơi đèn
suốt đêm rằm tháng giêng, có thể kéo dài từ 13 đến
17 tháng giêng. Khắp thành phố nhà nào cũng
chăng đèn
ngũ sắc trước cửa, bầy biện trong nhà như
ngày đại hội, làm những toà giả sơn trên kết
rồng xanh hoặc trắng, có tới mấy nghìn ngọn đèn
sáng, có khi giả sơn kết hai con rồng đỏ, vây rất
lớn, mỗi cái vây rồng là một ngọn đèn, miệng rồng
phun nước trong v.v... Trên
cầu, dưới sông thắp đèn rực rỡ, hát múa đủ trò,
tiếng ca nhạc vang xa hàng chục dậm, du khách chật
đường.
Lê Quý Đôn cho biết : Hán Vũ Đế thờ thần Thái Nhất
(Thiên Hoàng Đại Đế ), cúng từ tối đến sáng . Về sau
cứ ngày Thượng nguyên (rằm tháng giêng) người
ta trưng đèn, tục trưng đèn ngày rằm tháng giêng có
từ đấy
[4].
Theo Văn Hòe thì nguồn gốc Tết Nguyên Tiêu là ở đạo
Lão. Đạo Lão cho là có ba vị thần chủ tể việc giáng
phúc, xá tội cho người trần :
a - Thiên quan giáng phúc vào lễ Thượng nguyên
là lễ long trọng hơn cả nhất là về ban đêm. Từ đời
Đường đã làm lễ này, cũng gọi là lễ Cầu Phúc.
Đường Thư chép rằng đêm Nguyên tiêu hay
Nguyên tịch, tức đêm rằm tháng giêng, vua Đường
Duệ Tông sai làm một cây đèn cao 20 trượng, thắp 5
vạn ngọn đèn, ánh sáng chiếu khắp nơi, gọi là
HỏaThụ (cây lửa), vì thế đêm Nguyên tiêu cũng
gọi là Đăng Tiết (Tết Đèn)
[5].
b - Địa quan xá tội vào lễ Trung nguyên, ngày
rằm tháng 7 ;
c - Thủy quan giải ách nạn vào lễ Hạ nguyên,
ngày rằm tháng 10.
I - Tết Nguyên Đán thời Cổ
Nước ta ăn Tết từ bao giờ thì chưa rõ. Nếu căn cứ
vào tục ăn bánh chưng ngày Tết và truyền thuyết cha
ông ta biết làm bánh chưng từ thời Hùng vương
thì ta đã ăn Tết từ đời các vua Hùng, song đấy chỉ
là phỏng đoán, không có bằng
chứng. Sách sử của ta chép về
Tết rất sơ lược, chỉ một vài chi tiết cho thấy từ
đời Lê Đại Hành (980-1005) ta đã
có tục chơi đèn vào tháng giêng :
"Năm 992, tháng giêng, Vua ngự điện Càn nguyên để
xem đèn"
"Năm 1100, tháng giêng, Lý Nhân Tông bầy hội
Quảng-chiếu đăng ở ngoài cửa Đại-Hưng (cửa Nam,
Thăng-Long).
A - Nhà Trần
1 - Tết Nguyên Đán.
Trong An-nam Chí Lược, Lê Tắc chép tương đối khá
nhiều tục lệ ăn Tết thời nhà Trần :
Trước Tết hai ngày, vua đi xe ngự dụng, các quan mặc
triều phục hầu đạo tiền, tế điện Đế-Thích (một vị
thần trong Phật giáo, làm chủ chư thiên) ở ngoài
thành Thăng-Long.
30 Tết, vua ngồi giữa cửa Đoan-củng cho bề tôi làm
lễ, rồi xem con hát múa trăm lối. Đến tối qua cung
Động-nhân, bái yết tiên vương. Đêm, cho thầy tu làm
lễ Khu-na (đuổi tà ma) ở trong nội.
Dân gian mở cửa, đốt pháo tre, cỗ bàn, trà rượu,
cúng tế.
Ngày Nguyên Đán, khoảng canh năm, vua ngự điện
Vĩnh-thọ cho các tôn tử (con cháu) và cận thần làm
lễ hạ trước, rồi vào cung Trường-xuân vọng bái các
lăng tổ.
Sáng sớm, vua ngự điện Thiên-an, các phi tần sắp lớp
ngồi, các quan trong nội đứng lộn xộn trước điện tấu
nhạc. Các tôn tử và bề tôi sắp hàng bái hạ, ba lần.
Dâng rượu xong, các tôn tử lên điện chầu dự
yến. Các quan nội thần (hoạn
quan) ngồi ở tiểu điện phía Tây,
các ngoại thần ngồi ở Tả vu, Hữu vu (nhà bên
trái và bên phải nối vào
chính điện). Tiệc đến trưa mới tan.
Lại sai thợ khéo làm đài Chúng tiên hai từng, ở
trước điện. Làm một lúc thì xong, vàng ngọc
chói ngời. Vua ngồi ăn trên
đài, các quan làm lễ chín lạy,
dâng chín tuần rượu rồi giải tán.
Mồng 2, các quan làm lễ riêng ở nhà.
Mông 3, vua ngồi trên gác Đại-hưng xem các tôn
tử, các quan nội cung đánh cầu, ai bắt được,
không để cầu rơi xuống, là
thắng. Quả cầu to bằng nắm tay,
làm bằng gấm thêu, có 20 sợi tua dài lòng
thòng.
Mồng 5, làm lễ Khai-hạ (hạ nêu, trở lại cuộc sống
bình thường). Ăn yến xong, các quan và dân
chúng đi lễ chùa, miếu hay đi
du ngoạn các vườn hoa.
Đêm Nguyên tiêu (rầm tháng giêng) trồng những
cây đèn Quang-chiếu ở giữa sân rộng, thắp mấy
vạn ngọn, sáng rực trời đất.
Chư tăng đi quanh tụng kinh
Phật (...) các quan lễ bái, gọi là lễ Chầu đèn.
Tháng 2, làm cái Xuân Đài. Con hát hoá trang
thành 12 vị thần, múa hát trên đài.
Vua coi các trò tranh đua dưới sân, lực sĩ và trẻ
con đấu nhau, ai thắng được thưởng. Công hầu
cưỡi ngựa, đánh cầu, quan nhỏ
thì đánh cờ, đánh vu bồ (bài
thẻ) . . .
[6]
2 - Tiết Lập Xuân và Lễ Nghênh Xuân.
Sách Lễ ký
thiên "Nguyệt lệnh"
chép : "Tháng cuối mùa Đông,
vua sai quan Hữu-ty (chuyên viên)
đem con Trâu đất ra lễ
để đuổi khí lạnh đi, trâu giỏi
cày có thể chỉ bảo
việc làm ruộng sớm hay muộn.
Tùy thư, Lễ Nghi Chí
chép : 5 ngày trước Tết Lập Xuân,
làm tượng con Trâu đất, Người
cày ruộng và
Cái cày để
ở ngoài cửa Đông môn. Rạng sáng ngày
hôm ấy, quan cầm roi ngũ sắc đánh trâu ba roi
để tỏ ý khuyến nông.
Điển nhà Thanh chép rằng trong ngày Lập
Xuân,
dâng vua tượng Mang thần
(thần Cỏ Mang, hoa nở
sớm hơn các loài hoa
khác, hay thần Câu Mang,
trông coi tháng giêng, tượng trưng cho mùa
Xuân mới đến), tượng Trâu
đất và tượng Núi mùa
Xuân, đều bầy trên án để
làm lễ đón Xuân cùng khí hòa ấm.
Đánh trâu ngụ ý trọng nông
[7].
Thời nhà Trần, ngày Lập Xuân, vua quan làm lễ
Nghênh Xuân ở
phương Đông (Đông giao). Vua sai
vị trưởng họ dùng roi đánh Trâu đất.
Sau đó, các quan cài hoa lên
mũ rồi vào cung dự tiệc.
Trong tháng Xuân, người làm mối bưng tráp trầu
cau đến nhà gái hỏi và tặng lễ vật, thường
dân giá trăm, nhà cao sang
giá hàng nghìn, những người
chuộng lễ nghĩa thì không kể
ít nhiều. Con trai, con gái
nhà nghèo không có người mai dong để làm hôn
lễ thì tự mình phối hợp với nhau
(xin xem chú
thích
[6])
B - Nhà Lê
Sử chép rất ít về Tết đầu thời Lê :
- Năm 1435, mồng một, vua (Thái Tông) dẫn các quan
làm lễ yết miếu. Khi về cung mặc áo trắng coi chầu,
nổi nhạc, thét đường. Các quan mặc cát phục dâng
biểu yên ủi (Thái Tổ mới băng).
Ban yến trong 5 ngày cho các quan văn võ trong ngoài, phát trên cho các
quan làm việc ở ngoài theo thứ bực
[8] .
- Năm 1 449, tháng giêng ban yến cho các quan- Múa
nhạc Bình Ngô Phá Trận do vua Thái Tông làm,
.nhớ lại công khó nhọc sáng nghiệp của Thái Tổ, dùng
vũ công định thiên hạ. Công thần có người cảm xúc
phát khóc [9].
Các lễ Nghênh Xuân thời Trung Hưng
1 - Lễ Tiến lịch - Lược Phan Huy Chú :
Hàng năm, Tư-thiên-giám tính trước lịch cho năm
sau, đến tháng 6 viết hai bản dự thảo, một bản dâng
lên Vua và khai Chúa xin tiền in. Vua xem xong, giao
cho Trung-thư-giám viết lại, Tri-giám coi việc khắc,
khắc rồi Tư-thiên-giám đối chiếu trước khi đem in.
Trong tháng chạp chọn ngày dâng lên Vua chuẩn.
Đến ngày 24 tháng chạp làm lễ Tiến lịch.
Sáng hôm ấy, các quan mặc phẩm phục, theo chỉ của
Chúa vào triều làm lễ.
Sáng sớm, Nghi-chế-ty và các Tự-ban đặt cái án dâng
lịch ở giữa ngự đạo trước sân rồng. Bốn viên
thông-tán, hai viên đứng ở phía Đông và phía Tây,
hai viên đúng ở bên Tả và bên Hữu của Đoan-môn.
Ba hồi trông nghiêm , Tự-ban dẫn hai viên Tiến-lịch quan vào bên
Đông sân rồng. Vua ngự lên ngai.
Tự-ban dẫn quan Tiến-lịch đến giữa ngự-đạo.
Xướng: "Cúc cung , bái, hưng (bốn lần), bình thân ".
Lễ quan. Xướng .' "Tiến hoàng
lịch ", Tự-ban dẫn quan Tiến- lịch đến trước án lịch
giấy vàng. Xướng : "Quy, tiến
lịch", quan Tiến-lịch để lịch lên án. Xướng:
"Phủ phục, hưng, bình thân, phục vị", Tự-ban
dẫn quan Tiến lịch từ phía
Đông ngự đạo xuống đến vị bái. Xướng: "Cúc cung ,
bái, hưng (bốn lần), bình thân ". Tự-ban nhấc cái án
để lịch lui ra.
Cáp-môn xướng : "Bài ban, ban tề", các quan chia thứ bậc đứng vào
ban tề chỉnh. Lại xướng ."Cúc
cung, bái, hưng (bốn lần), bình thân ".
Quan Truyền-chế đến giữa ngự đạo quỳ : "Tấu truyền chế" rồi
lạy xuống, vẫn quỳ. Quan Tư-lễ -giám
đem tờ chế trao cho quan Truyền-chế. Viên này
đỡ lấy lui ra, đúng phía Đông, hô .' "Hữu chế". Cáp
môn xướng: "Bách quan giai
quỵ", các quan quỳ xuống. Quan Truyền-chế đọc chế
xong lui về chỗ đứng cũ.
Xướng: Phủ phục, hưng, bái (bốn lần), bình thân".
Lại xướng : "Bách quan phân ban thị lập", các
quan phân ban đứng hai bên mà hầu.
Nghi-chế-ty đến giữa ngự đạo quỳ : "Tấu lễ tất". Vua
ngự về cung.
Tư-thiên-giám bưng cái án
lịch trước ngự tọa sang tiến ở phủ Chúa. Quan Lễ
khoa đem lịch ban cho các
quan. Các quan quỳ xuống
nhận, giơ lịch ngang trán. Xong lễ lui ra
[10].
2 - Lễ Khóa ấn
25 tháng chạp làm lễ Khóa ấn trong một tháng,
hộp đựng ấn úp mặt xuống. Chỉ những
việc trọng đại
như sát nhân, phản quốc. . . mới được xét
ngay, còn trộm cắp lặt vặt,
đánh nhau, đòi nợ VV. thì
đình chỉ, đợi ngày khai ấn
mới xét xử [11].
3 - Lễ Tiến Xuân Ngưu
Hàng năm đến tháng 11, Tư-thiên-giám tâu ngày nào,
tháng nào là tiết lập ít và kê cả kiểu mẫu làm
Xuân ngưu (Trâu đất) giao cho Công bộ sai
Thường-ban-cục làm. Tượng trâu to bằng thật, mỗi năm
nhuộm một mầu, ứng với năm đó, tính theo âm dương
ngũ hành.
Trước tiết Lập Xuân một ngày, buổi chiều,
Thường ban-cục đem Trâu đến đàn tế, dựng ở phường
Đông-hà. Lễ tế vào giờ Tý (nửa đêm), mở đầu ngày
Lập Xuân. Quan Phủ-doãn và hai quan huyện
Thọ-xương và Quảng-đức làm lễ xong thì sai rước đến
đàn ở phường Hà-khẩu. Hôm sau rước đi sớm. Quan
Phủ-doãn và các quan huyện lấy cành dâu đánh con
trâu đất, rồi đem vào sân điện Vua làm Lễ
Tiến Xuân Ngưu
Các quan vâng chỉ của Chúa, mặc phẩm phục làm lễ. Lễ
xong, quan Tư-lễ-giám bưng cái án để Xuân ngưu
trước ngự tọa sang tiến ở phủ Chúa
[12] .
- Các nghi tiết thời Trung Hưng
1- Nghi tiết ở điện Kính-thiên. (lược Phan huy Chú)
:
Sáng sớm mồng một, Tiết-chế-phủ (Con cả của Chúa
Trịnh) vâng chỉ Chúa, dẫn trăm quan mặc phẩm phục
vào chầu Vua để chúc mừng năm mới.
Trước một ngày, Thượng-thiết ty đặt ngự
tọa của Hoàng thượng ở chính giữa kính thiên, đặt
bảo án ở phía Đông, hương án ở trước ngự tọa.
Giáo phường đặt Thiều nhạc (nhạc đời vua Thuấn,
chính trị tốt, đức hiện rõ) và Đại nhạc gồm
nhiều kèn, trống lớn, thanh la, tù và...) ở hai bên
Đông và Tây sân rồng. Thủ vệ-ty dàn cớ xí, khí
giới. Nghi-chế-ty đặt cái án đế các tờ biểu của
Thừa-ty các xứ ở công đường Lễ bộ. Quan Lễ bộ và
quan Thừa-ty các xứ trực đêm ở công trường Lễ bộ.
Khi canh đã điểm lần thứ năm, trời sáng, trống và
nhạc đi trước, các quan Thị dạ (hầu đêm) rước án
biểu đến ngoài cửa Đoan-môn, tiến vào để ở phía Đông
sân rồng, hơi ngoảnh về Bắc. Các quan rước án biểu
đều đứng.
Trống nghiêm hồi đầu, các quan văn võ [kể cả
Chấp-sự (Đạo lễ) và Triều-yết] đứng sắp ban ở ngoài
cửa Đoan-môn.
Trống hồi thứ hai, quan Đạo-lễ dẫn
Tiết-chế-phủ vào chỗ điếm ở Tả, Hữu sân rồng ngồi
tạm. Các quan Đạo-lễ tiến vào sân điện Vạn-thọ rước
Vua lên ngự giá, làm lễ năm
lạy ba vái. Lễ xong lui về chỗ cũ ở hai bên Đông,
Tây sân rồng.
Ngự giá đến cửa Kính-thiên thì quan Đạo-lễ dẫn
Tiết-chế-phủ đứng phía Đông sân rồng, hơi về hướng
Bắc. Tự-ban dẫn các quan vào sắp hàng hai bên Đông,
Tây sân rồng. Các quan Thừa-ty, Triều-yết chìa đứng
ở ngoài cửa Đoan-môn. Vua lên ngai. Giáo phường tấu
khúc nhạc Văn-quang. Dứt tiếng chuông,
vút roi (ra lệnh yên lặng khi làm lễ triều bái),
nhạc nghi. Tư-thần-lang báo trời sáng. Thông-tán
xướng: "Ban tề". Lại xướng: "Cúc cung, bái, hưng
(bốn lần), bình thân".
Quan Điển-nghi xướng: "Tiến biểu". Nhạc lại
nổi lên. Hai viên Khoa quan dẫn bốn Tự-ban rước án
biểu có tàn vàng che từ bên Đông sân rồng đem đặt
giữa ngự đạo. Các Khoa quan dẫn bốn Tự-ban
rước án biểu có tàn vàng che
từ bên Đông sân rồng đem đặt giữa ngự đạo. Các Khoa
quan, Tự-ban lui ra chia đứng hai bên Đông, Tây.
Dẫn-tán xướng: "Tuyên biểu mục", quan Tuyên-biểu vào
giữa ngự đạo quỳ đọc biểu chú c mừng của công hầu và
các quan văn võ 12 đạo. Đọc xong, lạy rồi lui về chỗ
đứng trước.
(Đến lượt đọc biểu phó của các
quan triều thần, cũng theo nghi tiết trên).
Thông -tán xướng: "Phủ phục,
hưng, bình thân, các cung tam cũ đạo". Lại xướng:
"Bách quan giai quỵ, tung hô", các quan
quỳ xuống, giơ tay ngang trán hô theo: "Vạn tuế" ,
ba lần như thế. Mỗi lần hô thì quân sĩ, phường
nhạc, đồng thanh hô theo. Lại xướng: "Phủ phục,
hưng, cú cung, bái (nhạc nổi lên), hưng (bốn lần),
bình thân". Nhạc nghỉ.
Quan
Đạo-lễ dẫn Tiêt-chế-phủ
đến bên Đông, đứng ở vị
trước. Thóng-tán xướng : "Bách quan phân
ban thị lập". Nghi-chế-ty đến giữa ngự-đạo
quỳ tâu : "Tấu
lễ tất". Giáo phường ty cùng
các Thụ đồng văn, Nhã nhạc
(nhạc khí nhỏ hơn Đại nhạc) tấu khúc
Hưu-minh. Vút roi. Vua
về cung. Quan Tư-lễ-giám
bưng tờ biểu để tiến
vào nội điện. Nhạc nghỉ. Tiết-chế phủ và các quan
lui ra [13]
.
2 - Nghi tiết ớ phủ Chúa. (lược) :
Sáng mồng một, hiệu Thiên-hùng bắn súng hiệu,
hiệu Thị-trung đánh trống nghiêm. Tướng sĩ
thuộc các đội thuyền đứng hầu
hoặc đi tuân sát.
Tư-thiên-giám đã chọn giờ và phương hướng tốt
để Chúa đi lễ. Các quan rước Chúa đến Thái
miếu và Cung miếu hành lễ rồi
về phủ.
Chúa ngự long tọa.
Quan và lính hiệu Thị-hậu
đứng hầu. Binh phiên ban tiền thưởng Xuân theo cấp
bậc : nhất phẩm được 5 quan tiền, nhị phẩm
được 4 quan cửu phẩm một
quan, Tư-thiên-giám được 6
tiền, nhạc công một tiên.
Tư-thiên-giám chọn giờ tốt khải Chúa khai ấn.
Tiết-chế-phủ dẫn các quan từ cửa Cáp-môn tiến
vào phủ đường. Bốn viên Điển-gìám (dùng Khoa
quan), hai đứng ở bên Tả và bên Hữu trong
phủ, hai đứng ở ngoài phủ.
Tiết-chế-phủ và các quan theo thứ
tự lạy mừng. Chúa ban yến. Dự yến xong, các
quan làm Iễ tạ ơn. Chúa về
cung, Tiết-chế-phủ về phủ.
Các quan lại đến phủ Tíết-chế chúc mừng
[13].
3- Tết Đàng Trong
Lê Quý Đôn cho biết ở
Thuận-hóa, năm Canh-Dần, Tết Chính Đán thì 2 viên
Cai cơ công tộc chỉ mừng tiền trầu 2 quan ; Cai đội
11 viên đều một con lợn thay tiền 10 quan,
tiền trầu 1 quan ; chư tướng Ngoại tả 1 viên, Chưởng
dinh 2 viên, Chưởng cơ 4 viên đều lợn một con thay
tiền 10 quan, tiền trầu 5 hay 10 quan tùy hạng ; Cai
cơ 10 viên chỉ mỗi viên 2 tiền trầu ; Cai đội 28
viên cũng như lệ Cai đội công tộc ; văn ban 5 viên,
mỗi viên 2 tiền trầu vv. (14).
4 - Tết qua ngòi bút của
một chứng nhân ổ thế kỷ 17
Năm 1659, Bento Thiện. một
"Thảy giảng" đạo Thiên chúa đã viết về Tết như sau :
"Thói nước Annam, đầu năm
mùng một tháng giêng, gọi là ngày Tết. Thiên hạ đi
lạy Vua, đoạn lạy Chúa, mới lạy ông bà ông vải, cha
mẹ cùng kẻ cả bề trên. Quan quyền thì lạy Vua Chúa,
thứ dân thì lạy Bụt trước. Ăn Tết ba ngày, mà một
ngày trước mà xem ngày mùng hai, mùng ba, ngày nào
tốt, thì Vua Chúa đi đền Giao, gọi là nhà thờ Trời,
hiệu Thiên Thượng Đế Hoàng Địa Kì. Vua Chúa đi lạy
mà xin cho thiên hạ được mùa cùng dân an. Đến mùng
bẩy mùng tám mới hết, cùng làm cỗ cho thiên hạ an
mười ngày. Lại xem ngày nào tốt mới mở ấn ra cho
thiên hạ đi chầu cùng làm việc quan, cùng hỏi kiện
mọi việc ; lại làm như trước mới khai quốc, thiên hạ
vào chầu vua. Từ ấy mới có phiên đi chầu. Nội Đài,
Ngoại Hiến, Phú Huyện,
quan đảng nha môn,
mới
có
kiện cáo. Đến trung tuần mới
có Khánh thọ
bảo thần cho thiên hạ mừng tuổi Vua. Ai
có nghề nghiệp gì
thì làm cho Vua xem. Đến hạ
tuần tháng giêng, ĐứcChúa lại Tế Kỳ Đạo dưới bãi
cát, làm đàn thờ. Trước thì thờ Thiên Chúa Thượng
Đê' một đàn, là một đàn từ Vua Lê Thái
Tổ
cho đến nay, một đàn thì thó
Thần
Kì Đạo. Đức Chúa lạy ba dàn
này. Đoạn
đến
đàn Thần Kì Đạo,
Đức Chúa lạy
đoạn, liền chỉ gươm cùng
chém, lại bắn cung. Đoạn lại
đánh trống mà chỉ
gươm cho thiên hạ mới đuôi đi, thì gọi là khao
quân.
Đoạn liền về tập voi tập ngựa,
gọi rằng
đã hết năm
mới (15).
II - Tết Nguyên Đán thời
nhà Nguyễn
A - Nghi tiết trong
triều
1 - Lễ Ban Sóc (ban lịch
mới)
Lễ Ban Sóc được coi
trọng vì lịch liên quan đến việc cầy cấy sinh tồn
của dân. Theo Đào Trinh Nhất thì từ đầu thế kỷ 14 ta
đã phái người sang Nguyên triều khảo cứu Thiên văn
học và phép làm lịch, tức là lịch Hiệp kỷ
(lịch xem ngày tốt xấu). Sau đây là luật lệ thời nhà
Nguyễn :
- Năm 1820, bộ Lễ tâu về
việc ban lịch Hiệp Kỷ :
"Ban bảo
Chính sóc
là việc chính trị lớn của vương
giả kính Trời chăm dân. Xin lấy ngày 1 tháng 12 đặt
Đại triều
ở điện Thái-hoà để
truyền chỉ ban lịch theo phép cũ".
- Năm Minh Mệnh
13 (1833) định
lệ :
Lễ Chính
Sóc là một lễ lớn
để tỏ trong nước
dùng cùng một
thứ chữ. Nguyên trước
lịch do Kinh ban ra, in ở địa phương, chuyển
cấp cho dân. Từ nay các tỉnh Quảng-bình, Quảng-trị, Thanh-hóa, Nghệ-an, Hà-tĩnh do Kinh cấp phát. Từ Ninh-bình ra Bắc cứ tháng 5 mỗi năm Khâm-thiên-giám
đưa mẫu lịch
cho Hà-nội in và cấp phát. Đến
tháng 9, Khâm-thiên-giám làm tờ bìa mặt quyển lịch, bìa vàng có chữ Hiệp
kỷ
lịch,
đến ngày mồng một tháng chạp các tỉnh làm lễ
Chính Sóc
và phụng hành cấp phát.
Năm Minh-mệnh
20 ( 1840) lại đổi
:
Lệ cũ ngày
1
tháng 12
đặt
nghi lễ Đại
triều ở
điện Thái-hòa để ban lịch Hiệp Kỷ năm sau
cho trăm quan. Nay đổi :
Trước một
ngày, ty chức trách đặt
một cái án vàng trước Ngọ
môn, chính giữa, một bàn vàng ở phía nam cái án, đều
có lọng vàng che. Hai bên tả hữu sân đặt chỗ đứng
lạy của các hoàng thân, các quan từ tam phẩm trở lên ở trước
sân Ngọ môn, từ tứ phẩm trở xuống đặt
vị đứng lạy ở phía nam cầu Kim thủy. Ở viện Tả đãi
lậu đặt một
long đình.
Nghi trượng,
nhã nhạc xếp hàng hai bên trước
sân Ngọ môn.
Sớm hôm ấy các quan
đều
mặc triều phục
đứng ngoài cửa Ngọ môn. Khâm-thiên-giám bưng
hòm đựng lịch đặt lên long đình. Bộ Lễ xướng
:"Hành tiến lịch lễ ' "
đàm lễ dâng lịch).
Khâm-thiên-giám bưng hòm đựng
lịch đến cạnh
viên quản lý quỳ dâng hòm.
Tất cả làm lễ 5 lạy. Vệ-]oan-nghi khiêng án vàng do cửa Ngọ môn
đi vào,
nhã nhạc, nghi trượng
đi trước, qua cầu Trung đạo
đến cửa Đại
cung, án vàng đi vào cửa giữa đến sân
điện Cân chính
đặt ở dưới thềm giữa. Khâm-thiên-giám trao hòm lịch cho viên Nội các chuyển cho nội giám đệ vào cung.
Ngày hôm ấy trăm quan đến viện Tả
đãi lậu lĩnh lịch. Phủ Thừa-thiên họp nhân viên 6 huyện lĩnh lịch cấp phát cho các làng xã để dân chúng xem
chung, lịch do các thầy Chánh, thầy Lý giữ (16).
- Năm 1919 , lễ Ban
Sóc diễn ra ở trước cửa
Ngọ môn vào ngày 1 tháng 12 âm lịch, tức là ngày 2/1/919.
2 - Lễ Phất-thức và lễ Phong ấn.
Năm 1807, định lệ hàng năm
đến ngày 25 tháng chạp âm lịch thì khóa ấn, mồng 7 tháng giêng thì khai ấn.
- Năm 1827, vua dụ : " Hết năm
có lệ phong ấn để các nha dành ít ngày nghỉ ngơi, nhàn hạ
trong khi cả năm phải siêng năng,
chăm chỉ làm việc.
Đấng vương giả theo phép Trời làm việc mạnh
mẽ, tự cường, không nghỉ ngơi
còn sợ chưa hợp
ý Trời, chưa thỏa mãn nguyện vọng của nhân dân nên trẫm không muốn một ngày nhàn rỗi. Từ nay ấn tín quốc gia, hành dụng vẫn theo thường lệ. Còn
các nha môn trong ngoài, cuối năm phong ấn,
đầu giêng, khai Xuân, khai ấn, cứ theo lệ cũ mà
làm".
Trước khi khai ấn phải rửa ấn, gọi là lễ
Phất-thức.
Nguyễn Công Hoan viết : Rửa ấn chỉ được
phép ngâm rượu
cho các chất bẩn giắt trong kẽ rã ra, không được lấy tăm
khều cho nhanh vì làm thế sẽ độc, trong năm có nhiều án mạng xẩy ra (17). Nhưng đấy là ở các nha môn, trong triều lễ
Phất-thức long trọng hơn nhiều :
Nội Các chọn một trong mười ngày cuối
tháng chạp làm lễ, được vua chuẩn. Các
Hoàng thân, các quan trong viện Cơ Mật, trong Nội Các dự
lễ cũng do Nội Các đề cử. Sáng hôm Phât-thức,
bộ Lễ sai bầy bàn ở điện Cân-chánh. Sáu cái tủ khảm lớn
đặt ở hai bên cửa điện, trong
đựng các hộp ấn
được mờ ra trước mặt Hoàng thượng.
Các ấn triện bằng vàng, ngọc, pha lê vv. của các
tiên đế, Hoàng
thượng, phi tần, được rửa bằng nước
hương thủy (nước
có ngâm các thứ hoa) rồi chùi bằng nhiễu điều.
Ban đầu, các quan dự lễ mặc thường
triều, sau thấy bất tiện nên đổi ra mặc áo thụng xanh. Sau khi rửa xong, ấn triện được cất lại vào trong tủ, rồi vua ban yến (18).
Năm 1830, định lệ sau ngày phong ấn, gập những việc cần, Lục bộ, các nha và Nội Các tâu lên dùng ấn vàng. Đến ngày khai ấn triện quan
phòng, chưa rõ năm, tháng, ngày nào dùng
để làm bằng chiếu.
Lễ Phât-thúc đầu tiên của triều Nguyễn diễn ra vào năm 1837. Lễ Phât-thức năm
1919 được cử hành
vào ngày 24 tháng chạp, tức là ngày 25/11/1919
3 - Nghi tiết Lễ Trừ tịch và Tiết Nguyên
Đán.
- Năm 1807, Lễ bộ dâng nghi tiết :
Lễ Trừ tịch, vua đến
nhà Thái miếu làm lễ, các quan văn võ
từ ngũ phẩm trở lên làm bồi tế.
Lễ
Nguyên Đán
cũng thế.
Ở miếu Triệu tổ và miếu Hoàng khảo, đêm Trừ
tịch,
sai quan làm lễ. Các quan văn
võ từ tứ phẩm trở lên túc trực hai bên công thự tả hữu, các lễ quan túc trực ở các miếu. Nhạc công hát thờ.
Ngày Nguyên
Đán,
vua đến Thái miếu và miếu Hoàng khảo làm lễ. Miếu Triệu tổ thì sai quan làm Lễ xong vua đem các quan đến
cung Trường-thọ làm lễ chúc mừng, rồi vua ngự điện
Thái-hòa nhận lễ chầu mừng, sau đó các quan xin
phép đến cung Khôn-đức
lạy mừng.
Mông 2, sai các quan làm lễ ở các miếu.
Mồng 3, vua
đến
nhà Thái miếu làm lễ. Miếu
Triệu tổ và miếu Hoàng khảo thì sai các quan
làm lễ.
Sai chép làm lệ ( 19 )
.
- N ăm 1848 vua Thiệu-trị
mất, có quốc tang nên nghi lễ hơi đổi
: Ngày mồng 1, vua mặc áo cát phục dấn cung Hoàng mẫu kính dâng 100 lạng vàng, 1000 lạng bạc, biểu tâu làm lễ người
nhà. Lễ xong vua ngự điện Văn-minh,
trăm quan mặc áo đẹp lần lượt
lễ năm lạy.
Mồng 2, vua mặc lễ phục đến
điện Long-an (chỗ để
quan tài vua Thiệu-trị) làm lễ, các quan mặc lễ phục theo lạy. Mông 3, vua mặc lễ phục đến
Dao-cung làm lễ, các thân phiên, Hoàng thân, văn
từ tứ phẩm, võ từ tam phẩm mặc lễ phục theo vào lạy.
Những cuộc chầu mừng, ban yến, nhạc
đều đình, duy
có ban thưởng thân phiên, Hoàng thân, trăm
quan, gia cấp cho các lính trạm, lính gián binh
đều như lệ (20) .
- Năm 1853 định lại lệ mở cửa cung thành
ba đêm Tết Nguyên-đán. Lệ trước,
các đêm 30 tháng chạp, mồng 1 và mồng 2 các cửa cung thành, hoàng thành, kinh thành đều mở rộng. Nay phải chiểu lệ
thường canh giữ.
4 - Ban yến
Năm 1823,
ngày mồng một tháng giêng, vua đến
cung Từ-thọ làm lễ
khánh
hạ, dâng mười lạng vàng.
Xong, ngự
điện Thái-hòa, bầy tôi chầu mừng. Lễ
xong ban yến và thưởng theo thứ bực
:
Các Hoàng tử
tước công, mỗi người 20 lạng bạc ;
Quan văn võ
chánh nhất phẩm, mỗi người 12 lạng
Tùng
nhất phẩm, mỗi người 10 lạng bạc ;
Chánh nhị
phẩm, mỗi người 8 lạng bạc ;
Chánh ngũ
phẩm, mỗi người 2 lạng bạc ;
Hành tẩu,
Thị nội, Chánh đội trưởng, Suất
đội... mỗi người 1 lạng bạc (21 )
5- Lễ Nghênh Xuân
Năm 1829 bắt đầu lễ Nhenh Xuân.
Sau Tiết Đông chí, ngày Thìn, Khâm
thiên giám và Vũ Khố lấy đất và nuớc
ở phường Tuế đức (Tuế đức là vị sao
tốt của năm ấy) chế tạo ba bộ Mang
thần và Trâu đất, dùng gỗ làm cốt.
Tính theo ngũ hành và ngày Lập Xuân
là can để rõ hình sắc. Thân trâu cao
4 thước, tượng trưng 4 mùa, đuôi dài
1 thuớc 2 tượng trưng cho 12 tháng.
Mang thần cao 3 thước 6 tấc 5 pân,
tượng trưng 365 ngày (22)
a) Lễ Nghênh Xuân ở Kinh
Hàng năm sai Hư4u ty chế ba bộ
Mang thần và Trâu đất cùng hai bộ
Núi Xuân (Xuân Sơn Bảo Tọa). Trước
lễ Lập Xuân một ngày, phủ Thừa Thiên
để Mang thần và Trâu đất lên Núi
Xuân đặt trên án, bầy đàn tế ở Đông
giao, làm lễ Nghênh Xuân. Tế vào
đúng nửa đêm, giờ Tý, mở đầu ngày
Lập Xuân. Lễ xong, rước hai án về để
ở Lễ bộ.
Ngày Lập Xuân, quan bộ, viên Kinh
dẫn, Khâm thiên giám đem đến cửa
Tiên thọ và cửa Hưng khánh có thái
giám tiếp nhận dâng vào cung, gọi là
Tiến Xuân. Còn một cặp Mang thần và
Trâu dất bày ở phủ thự. Viên Kinh
dẫn đánh Trâu đất ba roi để tỏ ý
khuyến khích việc nông [xem chú
thích (22)].
Năm 1841, vua Minh Mệnh vừa băng
hà, Phủ Thừa thiên chỉ đem tiến Trâu
đất và Mang thần nhưng không làm
Núi Xuân vì đang có quốc tang.
b) Lễ Nghênh Xuân ở các tỉnh
Trực lệ.
Theo Đại Nam Điển Lệ, năm Minh
Mệnh 13, định hàng năm sau ngày
Đông chí, gặp ngày Thìn, quan địa
phương (quan tỉnh, quan đạo) đem thợ
nặn đến phường Tuế Đức lấy nước và
đất chế tạo (theo thể thức ở Kinh)
một con Trâu đất và một thần Câu
mang, dùng gỗ cây dâu làm cốt trâu
và thần , xem can chi trong ngày
Lập Xuân rồi hô thần và vẽ hình sắc
con trâu (Trâu phải theo năm mà tô
sắc vàng, đen hay loang lổ). Đến
ngày Lập Xuân, quan địa phương đem
các thuộc viên mặc Đại triều và hành
nghi (cờ, quạt, tàn, lọng)
rước Trâu đất và Mang thần đi làm
lễ đón Xuân ở Đàn Xã tắc. Lễ xong,
đưa Trâu và Thần về công đường, quan
địa phương lấy roi đánh Trâu đất ba
cái. Xong rồi để Trâu đất và Mang
thần một thời hạn sau mới đem chôn ở
cạnh Đàn Xã tắc. Bia sửa chùa Bạch
Mã ở Thăng Long ghi là hàng năm lễ
đánh Trâu, rước Xuân làm ở đền này
rất long trọng (23)
6- Vua Miên chúc Tết
Trong Ký ức lịch sử về Saigon
của Trương Vĩnh Ký cho biết hàng
năm vào ngày Tết Nguyên Đán quốc
vương Miên phải sang cúc thọ ở Vọng
cung. Một năm, vua Miên phá lệ, nghỉ
đêm ở Chợ Lớn, sáng hôm sau không
kịp đến dự lễ lúc canh năm, bị Lê
văn Duyệt phạt phải nộp 3000 lạng
bạc mới cho về nước.
B- Phong tục dân gian
1- "Tháng giêng ăn Tết ở nhà"
Cuối tháng chạp, mọi nhà đều
nhộn nhịp quét dọn, đánh bóng sập
gụ, tủ chè, đồ đồng trên bàn thờ,
trang hoàng nhà cửa bằng tranh Tết,
câu đối, hoa v..v..
a) Ông Đồ
Đã có nhiều sách viết về tranh
Tết con lợn con gà, Cóc dạy học
v..v... nên tôi chỉ nhắc đến một
phong tục ít người biết: Ở Hà Nội,
trước 1945, bắt đầu khoảng 20 tháng
chạp là thấy các ông Đồ khăn đóng,
áo dài, đến xin trải chiếu ngồi nhờ
ở vỉa hè phố hàng Bồ, bày câu đối
giấy đỏ, giấy trang kim đề bán. Có
ông "văn minh" chép cả thơ bằng chữ
quốc ngữ, đến nay tôi còn nhớ một
câu tả cảnh Xuân vì mẹ tôi đọc xong
cứ tủm tỉm cười, nhắc đi nhắc lại
mãi:
Lá ngọc, cành
vàng toé nở ra!
b) Hoa

Cây
mai trước nhà Gs Nguyễn Đăng Hưng -
Ảnh của chủ nhà.
Trang hoàng nhà cửa, ngoài câu
đối, tranh Tết, dĩ nhiên phải có
hoa. Người ta thường sắm các chậu
hoa đủ đôi bày để
cho cân đối: hai chậu quất màu cam,
hai chậu cúc màu vàng, hai chậu hải
đường màu hồng tía... chỉ hoa đào
là cắm có một cành. Tục cắm đào ngày
Tết, theo Sơn Hải Kinh, là vì
xưa kia ở núi Sóc sơn có một cây đào
cổ thụ rất đẹp. Hai vị thần Trà và
Uất Lung, cư ngụ ở đấy , có công
đánh đuổi ma quỷ đến tận gốc cây đào
nên từ đấy ma quỷ thấy cây đào là
sợ. Nhưng đến cuối năm, hai Thần
phải lên Thiên cung chúc Tết Ngọc
Hoàng Thượng Đế, ma quỷ thừa cơ
Thần vắng mặt, không ai kiềm chế,
bèn từ Địa ngục lên dương gian quấy
nhiễu. Người ta biết chúng sợ cây
đào nên cắm cành đào trước cửa, trên
cành treo bùa, nhà nào không có đào
thì treo tranh hai vị Thần để trừ tà
đuổi ma đi. Ngày nay người ta không
treo bùa hay tranh vẽ Thần nữa mà
treo tranh Tết (24)
Ngày Tết đền chơi nhà ai thấy
không cắm đào lại cắm một cành hoa
mai trắng thì biết là nhà ấy đang có
tang. Hà Nội không có mai vàng nên
khi còn nhỏ, đọc thơ Huyền Kiêu:
Hỡi hỡi cô mai vàng... tôi cứ
băn khoăn tự hỏi sao thi sĩ lại có
thể tư tiện đồi cả sắc hoa?
Thủy
tiên cũng là thứ hoa chỉ ngày
Tết mới xuất hiện. Những người khoe
khéo mua củ về tỉa lấy, phải tính
toán sao cho hoa nở đúng giao thừa
hay mồng một Tết mới là khéo.
Nếu thấy hoa có triệu chứng
nở sớm thì hãm bằng cách quấn
bông xung quanh, để ở chỗ thật
lạnh; ngược lại, nếu hoa ra chiều
nở muộn thì thúc dục nó bằng cách
thay nước ấm, để ở chỗ có nhiều
nhiệt khí. Chơi thủy tiên, người ta
không chỉ chơi hoa mà chơi cả lá
(tỉa sao cho lá uốn cong theo ý
mình) và cà rễ nữa, vì thế hoa
thường được bày trong cốc thủy
tinh trong suốt, có chân cao nâng
ngang tầm mắt người thưởng thức.
Tỉa thủy tiên, dĩ nhiên phải nhẹ
tay. Trong bài thơ Vết thương
lòng, nhà thơ Lan Sơn tả một
thiếu nữ đang ngồi tỉa thủy tiên,
chợt thấy:
Bóng ai thấp
thoáng ngoài hiên vắng,
Em đã vô tình vội ngửng lên.
Em vội ngừng tay, vội ngó ra,
Dao cầm sẩy chạm tới giò hoa
Giò hoa ngày lụi, màng hoa úa,
Hoa đã vì em chịu xót xa... (25)
Tôi nghĩ là thi sĩ chưa từng tỉa
thủy tiên bao giờ, cái sẩy tay của
thiếu nữ trong thơ xem ra phải dùng
đến "bảy thành công lực" mới làm cho
giò hoa lụi đuợc! Củ thủy tiên giống
như củ hành, cò nhiều lớp, mà giò
hoa thuờng ẩn sâu bên trong chú
không nằm ở lớp ngài cùng. Muốn cho
cành hoa đừng vươn lên cao, có khi
người ta phải gọt cả chân giò hoa,
mỗi ngày một tị, thế mà hoa vẫn nở.
Sự tích hoa
thủy tiên: Xưa có một ông nhà giàu
chia gia tài làm bốn phần đều nhau
cho bốn con, nhưng sau khi ông
chết, ba người anh chiếm hết chỉ cho
người em một mảnh đất nhỏ cằn cỗi.
Người em buồn rầu, chợt có bà tiên
hiện lên an ủi rằng mảnh đất ấy có
giống một loại cây đến mùa xuân sẽ
nở hoa rất đẹp và thơm, b1àn được
nhiều tiền. Quả nhiên, người em út
nhờ bán hoa mà thành giàu có, và để
tưởng nhớ ơn bà tiên, đã dặt tên
cho hoa là Thủy Tiên (22)
c) Tết ông
Công, ông Táo
30
tháng chạp, cúng "ông Công, ông
Táo", tục gọi là Vua Bếp, lên chầu
Trời để phúc trình những hành vi
của gia chủ trong năm qua. Tiếng gọi
là "ông Công, ông Táo" nhưng thực
sự lại là "hai ông, một bà". Có
nhi1ều sự tích khàc nhau, chẳng
hạn, theo Benito Thiện:
(...) Bếp
thì thờ Táo quân, gọi là Vua Bếp. Nó
lấy chồng trước thì sa vào lửa mà
chết, nó lại lấy chồng sau mà lòng
còn thương nghĩa chồng trước, thì
chồng sau đi xem nơi lỗ xưa, thì
mình cũng sa xuống mà chết. Chồng
sau thấy vợ chết, thì cũng gieo mình
xuống mà chết, thì ba người vào một
lỗ ấy: thì người ta nói bày đặt
rằng: ấy là Vua Bếp, thì phải cậy
cho làm mọi việc nên" (13)
Vì họ là Vua
Bếp nên cái kiềng trong bếp mới có
ba chân. Người ta cúng một cỗ mũ nữ
màu vàng, đặt ở giữa, hai cỗ mũ với
một đôi hia, nhưng tuyệt nhiên
không nhà nào cúng quần áo, nên
mới có câu giễu Vua Bếp:
Đội mũ đi hia,
chẳng mặc quần!
Cúng ông Táo
có cả cá chép sống thả trong chậu
nước, cúng xong đem ra sông, hồ
phòng thích. Cá là phương tiện di
chuyển duy nhất của Vua Bếp để lên
chầu Trời vì thời xưa chưa có phi
cơ, phi thuyền. |
|
d - Cây nêu.
Ở nông thôn có tục trồng cây nêu trong sân đình hay
trước cửa nhà vào ngày cuối năm. Cây nêu là một cây
tre cao độ 10 thước, gọt hết cành lá chỉ chừa một
chùm ở trên đỉnh, có treo phướn, giấy đỏ vẽ hình
Bát quái, một chùm lông gà nhuộm ngũ sắc, một
lẵng trầu cau để mời Thần Phật, khánh sành... mỗi
khi có gió, cờ bay phất phới vui mắt, khánh kêu lanh
canh vui tai.
Tương truyền xưa kia ma quỷ hay quấy nhiễu dân
gian, bị Phật trừng phạt nên quỷ hứa sẽ không dám
động đến đất nhà Phật, chỗ nào có cây nêu, cành
phướn, biết là đất Phật, ma quỷ tránh xa. Vì cuối
năm Phật lên chầu Ngọc Hoàng Thượng Ðế 7 ngày mới về
nên người ta trồng cây nêu 7 ngày mới hạ để ma quỷ
khỏi ám.
e - Cung tên vôi bột.
Ta còn có tục trong sân hay trước ngõ vẽ cung tên
bằng vôi bột. Tương truyền khi xưa Ðinh Tiên Hoàng
dẹp loạn xong lại gập lúc nước phải nạn dịch hạch.
Vua cầu khấn thì có một ông thần hiện ra bảo lấy vôi
bột rắc hình cung tên trước cửa nhà để trị, quả
nhiên bệnh dịch lui. Từ đó thành lệ [xem chú thích
(22)].
f - Súc sắc, súc sẻ.
Thời xưa, cũng vào những ngày gần Tết, trẻ con trong
làng họp thành đoàn, rủ nhau đi chúc Tết xin tiền,
vừa đi vừa lúc lắc cái ống tre đựng tiền, đến từng
nhà hát :
Súc sắc, súc sẻ,
Nhà nào còn đèn, còn lửa,
Mở cửa cho anh em chúng tôi
vào.
Bước lên giường cao, thấy
đôi rồng ấp,
Bước xuống giường thấp,
thấy đôi rồng chầu,
Bước ra đằng sau, thấy nhà
ngói lợp,
Voi ông còn buộc, ngựa ông
còn cầm.
Ông sống một trăm linh năm
tuổi lẻ,
Vợ ông sinh đẻ những con
tốt lành,
Những con như tranh, những
con như vẽ...
g - Giao thừa.
Vào khoảng nửa đêm 30 tháng chạp, cũng gọi là đêm
Trừ-tịch, mọi nhà
đều bầy cỗ cúng hoa quả, bánh trái ở giữa sân rồi
đốt pháo cúng giao thừa, làm lễ
Tống cựu,
Nghênh tân, tiễn vị
Hành khiển năm
cũ đi, đón vị Hành khiển
năm mới đến. Có tất cả 12 vị
Hành khiển thay mặt
Ngọc Hoàng Thượng Ðế
điều khiển mọi việc ở nhân gian ; mỗi năm
cứ đến lúc giao thừa thì vị
Hành khiển cũ bàn
giao công việc lại cho vị Hành khiển mới.
h - Tục kiêng quét
nhà :
Xưa có một nhà buôn đi qua Ðộng
Ðình Hồ gập cô gái đẹp đem về làm thiếp, từ đó làm
ăn phát đạt hẳn lên. Một hôm, ngày mồng một Tết,
người thiếp lỡ tay đánh vỡ một chiếc bình quý, bị
chồng đánh đập, nàng bèn trốn trong đống rác, đến
khi người ta tìm bới rác ra thì nàng đã đi đâu mất.
Từ đấy người lái buôn làm ăn thua lỗ đến sạch
nghiệp. Dân gian thành lệ ngày Tết không quét nhà,
đổ rác, sợ làm ăn lụn bại [xem chú thích
(22)].
i - Món ăn ngày Tết.
Trước hết phải kể đến bánh
chưng. Có nhà treo cả dẫy trên một cái
sào, gác ở trần nhà cho thoáng gió, giữ được lâu.
Tuy nhiên, khí hậu ẩm ướt của Hà-thành thường làm
bánh bị mốc, lúc ấy người ta gọt chỗ mốc đi đem tán
nhuyễn, rán ròn, thành những chiếc bánh mỏng và tròn
như chiếc đĩa. Hà-nội có hai loại bánh chưng : bánh
mặn nhân đậu xanh, thịt và cà-cuống, bánh ngọt thì
có đường nhưng không có cà-cuống. Tôi vốn không
thích ngọt nhưng ăn bánh chưng rán thì lại chọn bánh
đường.
Bánh chưng được dọn chung với
"cá kho ngày Tết".
"Cá ngày Tết"
phải là những con cá chép to, kho đầy nồi với thịt
rọi thái miếng vuông quân cờ, giềng và nước chè
(không dùng nước hàng bằng đường thắng) cho khỏi
tanh. Kho đi kho lại sao cho miếng cá còn nguyên
nhưng thật dừ, ăn được cả xương mới là khéo.
Ngoài bánh chưng, cá kho, Tết còn phải có
thang và
cuốn.
Cuốn ở Hà-nội khác
cuốn ở miền Nam ở chỗ cuốn từng khúc ngắn nhỏ, bún,
tôm, thịt rọi luộc để ở trong, rau diếp xanh quấn
ngoài, buộc bằng hành lá. Khi bầy, dựng đứng khúc
cuốn trên đĩa, trông thấy rõ nhân bún trắng, tôm
hồng bên trong, viền một vòng rau xanh bên ngoài.
Nhìn bát thang,
khách có thể đoán biết trình độ "nữ công" của bà
chủ. Bún đơm phải khơi lên chứ không được nén chặt,
mặt phải bằng phẳng để bầy mặt cho dễ. Các thứ bầy
mặt : ruốc tôm, gà luộc, giò lụa, trứng tráng, rau
răm thái nhuyễn. Lúc bầy, chọn mầu sắc đối chọi để
cạnh nhau cho vui mắt, chẳng hạn không nên để thịt
gà luộc cạnh giò lụa. Bày khéo thì đường phân chia
ranh giới hai món cạnh nhau thẳng tắp, không có
chuyện "giao lưu văn hóa" món này lem nhem xen lẫn
với món kia. Thường chỉ bầy bốn món rồi ở giữa để
một miếng trứng muối luộc với nhiều lòng đỏ. Ăn
thang phải thật nóng nên trước khi dọn ra người ta
đem chao, tức là múc nước dùng thật sôi đổ
vào bát thang cho nóng rồi chắt đi, múc thêm nước
lần thứ nhì, có khi thứ ba rồi mới bưng ra mời
khách. Chao khéo thì bát thang bưng ra các thứ bầy
mặt vẫn nằm nguyên chỗ. Ăn thang có cà-cuống và dưa
hành đi kèm mới đủ vị.
Khách đến chơi nếu không gập bữa cơm, không muốn
ăn bánh chưng hay thang, thì được mời những món ăn
vặt như hạt dưa, kẹo, mứt... Hà-nội đặc biệt có bánh
Xuân-cầu hình
vuông, rán lên nở phồng, mỗi bề bằng ngón tay, mầu
trắng, vàng, hồng, trên mặt rắc mật nấu với thảo quả
thành những đường chỉ chằng chịt mầu nâu. Chủ nhà
còn mời uống rượu ngày Tết để trừ tà khí.
j - Tết Thầy.
Người ta thường nói "ăn Tết ba ngày" nhưng đến mồng
bẩy mới hạ cây nêu nên cũng nói "ăn Tết bẩy ngày".
Trong ba ngày Tết, ngày mồng một quan trọng hơn cả,
dành để đi thăm họ hàng thân ; mồng hai, thăm bạn
bè, họ xa ; mồng ba, mồng bốn hóa vàng, tiễn ông
vải. Sau đó, các nhà buôn chọn ngày tốt, cúng và đốt
pháo mở cửa hàng.
Thời Nho học còn thịnh, mồng ba Tết có lệ học trò
đến mừng tuổi Thầy học :
Mồng một thì ở nhà
cha ;
Mồng hai, nhà vợ ; mồng ba,
nhà Thầy.
Sau đây tôi lược lại một cảnh Tết Thầy học thời
xưa, dưới ngòi bút của Chu Thiên :
"Mồng ba Tết, các đại
danh sư không tiếp ai ngoài học trò mình. Ðệ tử
giai kỳ tử, học trò cũng là con, những đứa con
tinh thần. Hôm ấy không ai dám đến chơi nhà những
bậc thầy danh tiếng, e phạm đến cái không khí nghiêm
trang, đầm ấm giữa tình thầy trò thân mật buổi đầu
Xuân.
Từng bọn một, học trò
đem những quả lễ, trong bầy cam, rượu, chè, cau, đặt
lên trình quan Hoàng-giáp rồi xin phép đưa lên lễ
tổ. Bọn này ra, bọn kia vào. Hết lượt, cả bọn trở
xuống nhà học xin phép quan Hoàng-giáp đem trầu đến
chúc thọ cụ Cố. Thấy cụ Cố đang ngồi trên giường,
học trò bước cả vào, quỳ lạy hai lạy, cùng nói :
- Học trò chúng con năm
mới gọi là đem đầu sang chúc mừng Cố sống lâu trăm
tuổi, con cháu mỗi ngày một nhiều.
Cụ Cố cười đáp :
- Quý hóa quá, lão cảm
tạ các thầy. Lão cũng xin chúc các thầy văn hay chữ
tốt, đỗ cao và làm quan to.
- Chúng con xin bái tạ
Cố.
Xong, cả bọn xin phép về
nhà học. Bây giờ mới chính thức có lễ mừng tuổi quan
Hoàng-giáp. Tất cả học trò, người đã làm quan cũng
như người chưa thành đạt, đứng thành ba hàng trên
dưới, quỳ xuống. Quan Hoàng-giáp ngồi trên giường
nói :
- Thầy miễn lễ cho các
anh.
Học trò vẫn quỳ, một
người ở hàng đầu lên tiếng thay mặt cả bọn :
- Thưa Thầy, nhân lúc
cảnh đẹp, Xuân vui, anh em chúng con đem đầu lại bái
chúc Thầy tuổi thọ thêm cao, tinh thần thêm sáng,
văn chương thêm chói, đạo đức thêm thịnh để giắt díu
chúng con theo Thánh đạo. Thầy mãi mãi như núi Thái
sơn, sao Bắc đẩu, đời đời không mất.
Quan Hoàng-giáp đáp :
- Năm mới Xuân tươi, ta
cũng chúc tất cả các anh ai cũng giữ được cái chí và
cái đức. Người đỗ rồi thì phải biết làm sáng đạo
Thánh và chính lòng người. Kẻ chưa có duyên với
trường ốc phải biết phấn chí học hành, cố noi giữ
đạo
Tu, Tề, Trị, Bình. Ai ai
cũng phải giữ khí tiết nhà Nho, đừng làm mảy may
điều gì trái đạo, nhục cho cả sĩ lâm. Thế là Thầy
mừng.
Học trò đứng lên xin
phép xuống mừng tuổi hai Cô. Quan Hoàng-giáp ngần
ngừ rồi cho đi. Hai Bà thấy học trò qua sân, xuống
nhà dưới, vội ra đứng ở cửa đón chào. Bà Hai bưng
cơi trầu ra mời mỗi người một miếng, bà Cả nói :
- Năm mới, chào các anh,
các anh không phải lễ lạy gì cả, đến mừng tuổi Thầy
là đủ. Chị em chúng tôi đa tạ các anh, mời các anh
lên chơi nhà trên, ăn bánh với Thầy.
Học trò chào hai bà, trở
về nhà học.
(...) Năm nào quan
Hoàng-giáp cũng tiếp đãi học trò ngày đầu Xuân rất
vui vẻ. Năm nào cũng định một cuộc vui chung khác
nhau. Có khi ngài ra một bài thơ để họa vần, có khi
bắt mỗi người vịnh một thứ hoa để bói chí, có khi
bầy cuộc xướng họa, có khi ra câu đối để thử tài.
Thường thi ngài chỉ cho uống chè Tầu, ăn bánh, ăn
cơm, ít khi cho uống rượu" (26).
- Tết qua ngòi bút của
Hocquard (1886) :
Ngày Tết, trước ngưỡng cửa nhà nào cũng vạch vôi
hình cung tên tréo nhau để nhắc lại tích Phật đánh
dẹp ma quỷ. Có người còn lấy cây xương rồng hay
những cành cây có gai bịt kín cửa để ma quỷ không
vào được nhà quấy nhiễu. Ngoài cổng, bên trái bức
tường có một bàn thờ nhỏ thắp đèn hương cúng thần
giữ cửa, nhà giầu bầy hoa, giấy trang kim, bánh
trái, ngày hai buổi làm cỗ cúng. Trong nhà, bàn ghế
được đổi chỗ, cuối sân kết hoa, chăng giấy sặc sỡ
thờ thần giếng. Thầy bói đến cân nước để bói : nếu
lọ nước múc trước ngày mồng một nặng hơn lọ múc sau
mồng một thì là điềm gở, trong năm phải cẩn thận.
Vào dịp Tết người ta ăn uống phè phỡn, mỗi ngày ba
bữa thịnh soạn, bữa nào cũng đem lên cúng tổ tiên.
Trong bếp suốt ngày thắp hương nghi ngút cúng ông
Táo.
Chỉ những người giúp việc là sung sướng nhất vì ngày
Tết chủ nhà kiêng, không ai mắng mỏ (27).
2 - "Tháng hai cờ bạc,
tháng ba hội hè"
Nước ta nông nghiệp là chính nên đầu năm chưa bận
mùa màng, dân chúng thường tổ chức hội hè mừng Xuân
suốt tháng giêng, qua tháng hai, tháng ba, có khi
kéo đến tận tháng tư như làng Phù-đổng, huyện
Tiên-du, tỉnh Bắc-ninh. Suốt tháng giêng, đi đâu
cũng nghe tiếng trống thùng thình, thấy cờ bay phấp
phới.
Trong dịp Xuân, người ta tổ chức các trò chơi
bách hí : thi đua, treo giải thưởng. Có những trò cổ
truyền như đánh đu, leo cột mỡ, múa rối, cờ bỏi, cờ
người... Lại có những trò riêng từng địa phương như
hát quan họ, chơi kéo co, đánh phết... cả trăm trò
khác nhau. Xin kể hai trò : đánh phết và đánh cờ
người.
a - Ðánh Phết.
Ðánh phết là một trò chơi đông người, chia làm hai
phe. Chơi trên một khu đất rộng, gọi là sân phết.
Sân chia làm hai phần, ở phía cuối mỗi phần vẽ một
cái vòng tròn hoặc đào một cái hố. Người bên này dồn
phết về phía bên kia, bao giờ quả phết lăn vào vòng
tròn hay rơi xuống hố phe kia là thắng.
Quả phết làm bằng gỗ, to bằng cái bong bóng trâu
thổi phồng. Gậy bằng gốc tre đực, đào cả củ, cắt bỏ
cành rễ, dài độ một sải tay rưỡi, uốn cong khoằm
khoằm.
Người chơi phải có sức mạnh mang nổi cây gậy
phang vào quả phết bằng cái đầu có củ tre. Quả phết
lăn đi, cũng có khi bị móc kéo đi. Lại phải nhanh
nhẹn để tránh những đòn phang lầm rất mạnh.
Tương truyền, khi xưa hai bà Trưng huấn luyện nữ
binh đã khuyến khích tinh thần chiến đấu và tình
đoàn kết đồng đội bằng cách cho chơi phết. Mỗi khi
chơi, Hai Bà thường ngự lãm và treo giải thưởng. Ðể
ghi nhớ thời kỳ oanh liệt của Hai Bà, những làng có
thờ các vị danh tướng của Hai Bà đều giữ tục đánh
phết. Chẳng hạn, ngày 13 tháng giêng, dân làng
Song-quan cúng tế Ðông cung
Nữ tướng quân Thiều-Hoa, người đã lĩnh ấn
tiên phong, đánh đuổi Tô-Ðịnh. Dẹp giặc xong,
Thiều-Hoa không
nhận phong thưởng, xin về quê, Trưng vương cho xã
Song-quan làm thực ấp. Hàng năm, cúng tế xong bao
giờ cũng mở hội cho trai gái tập trận giả rồi đánh
phết. Ngày xưa, chơi phết toàn đàn bà, sau này có
nơi trai làng giả nữ binh.
Có những làng không thờ danh tướng của Hai Bà
cũng giữ tục này. Ðây là một trò chơi ồ ạt, đông
người cười nói rầm rĩ. Từ ngữ
Vui ra phết do đó mà ra (28).

Bàn cờ là sân đình
b - Ðánh cờ người
- Nếu đánh phết phải dùng sức mạnh
thì đánh cờ phải đấu trí tuệ nhiều hơn. Khác với
cờ bỏi mà quân
là những cái biển mang tên, cắm ở vị trí quân cờ,
quân của cờ người
là người thực sự. Sau đây, tôi sơ lược lời của
một tiền bối từng chứng kiến nhiều cuộc đấu cờ
khoảng cuối thập niên 20, ở làng Ðại-yên, sát
Ngọc-hà, vùng Hồ Tây, Hà-nội.
a - Bàn cờ
là sân đình, có làm một cái rạp mái lợp cót để che
mưa nắng, bốn phía để trống. Bàn cờ không có vạch,
chia từng ô, mỗi góc ô có cái lỗ để cắm biển. (Cũng
có nơi dùng vôi trắng kẻ vạch, hay vạch sâu xuống
đất).
b - Giải vũ.
Bên phải và bên trái của Ðình trung (nơi thờ Thành-hoàng) có hai
dẫy giải vũ bằng
gạch lợp ngói. Ngày thường là chỗ cất lọng, kiệu, đồ
thờ, ngày làng vào đám dùng làm nơi cỗ bàn, ngày đấu
cờ một giải vũ
dành cho Tướng Ông, một dành cho Tướng Bà và các
quân cờ sau khi bị loại ngồi nghỉ.
Giải vũcó ba gian,
trang hoàng, trần thiết như nhà riêng : vách treo y
môn và trướng, giữa kê sập gụ trải chiếu hoa cạp
điều, nệm nhiễu, gối xếp, sát tường bầy tủ chè, hai
bên là tràng kỷ, án thư, có cả trầu nước để tiếp
khách. Gian giữa, chỗ Tướng ngồi, thì treo mành.
c - Tế cờ.
Suốt thời gian 10, 15 ngày từ khi mở hội cho tới khi
rã đám, sáng nào cũng có tục tế cờ trước khi ra
quân. Mỗi sáng, sau khi ăn cỗ linh đình tại nhà
Tướng cờ, cả đoàn trang điểm rồi kéo nhau ra đình
làm lễ tế Thành-hoàng, gọi là Tế cờ. Bên nam
tế trước, nữ tế sau. Ðứng đầu là Tướng, quân sắp
hàng ba đứng sau, đi đến trước bàn thờ Ðình. Có
người điều khiển cuộc tế theo nhịp bát âm, tiến,
lui, quỳ, bái, dâng rượu, hoa, nhang. Lúc tế có đốt
pháo. Tế rồi ra sân, ai vào vị trí nấy, theo sự cắt
đặt từ trước của Tướng cờ. Xong xuôi, Tướng cờ lui
vào trong giải vũ, chỗ Tướng ngồi ở bàn cờ ngoài sân
chỉ có cái biển. Ai tò mò muốn xem mặt Tướng -đặc
biệt là các chàng trai Hà-thành muốn xem mặt Tướng
Bà- có thể đến cửa giải vũ, chỗ treo mành,
ngó vào.
d - Tướng cờ.
Người được chọn làm Tướng là một vinh dự nhưng phải
đăng cai, chịu tốn kém, đài thọ quân cờ ngày
nào cũng cỗ bàn, ăn uống, người phục dịch, lại phải
may sắm quần áo cho quân.
Bà Tướng mặc áo hồng, khăn vành giây vàng, đi
giầy cườm hay vân hài bọc đoạn mầu, thêu rồng
phượng, hoa lá, chỉ vàng chỉ bạc, ngồi trên sập
trong giải vũ trông ra sân, trước sập có treo
mành.
e - Quân cờ.
Quân là những thanh niên nam nữ do làng cắt cử,
nhưng cũng có người tự nguyện. Thường thì người ta
chọn thừa 4, 5 người để quân cờ có thể thay phiên
nhau cho đỡ mệt vì phải ngồi trên ghế đẩu ở ngoài
sân có khi cả 4, 5 tiếng. Quân cờ sợ nhất phải ngồi
dai, bị điều khiển nhiều lần. Vất vả là những quân
xe, pháo, mã,
người ta thích làm quân tốt
ba, dễ được giải ngũ sớm. Mỗi quân cầm
một cái biển sơn son, chữ vàng, có cán dài độ một
thước rưỡi tây, cắm xuống cái lỗ của vị trí mình
Các quân nữ vấn khăn nhung, áo mầu, có nơi thêu
tên quân cờ ở giữa ngực và sau lưng.
Quân nam mặc áo the hoặc áo tất xanh, quần trắng
ống sớ, thắt giây lưng điều, chân đi giầy Gia-định.
f - Người đấu cờ.
Người đấu phải qua một lần khảo sát, đấu với người
cầm trịch trên bàn cờ gỗ xem có "sạch nước cản"
không, nghĩa là không đi quân lầm lỗi. Ðược chấm đậu
mới rút thăm đấu vòng loại : đấu giải nhất thắng,
rồi nhị thắng, tam thắng, tứ thắng, cứ loại dần cho
tới khi chỉ còn hai người vào chung kết.
 |
Quân cờ nữ |
Mỗi người đấu có cây cờ lệnh (kiểu cờ đuôi nheo,
hình tam giác, viền răng cưa) khi muốn đi nước nào
thì lấy cờ phất một cái trên đầu quân cờ rồi tự tay
cầm biển cờ cắm vào chỗ muốn đi, quân cờ sách ghế đi
theo, ngồi xuống vị trí mới.
Người đấu phải quyết định tương đối nhanh, nghĩ
nước lâu quá thì có người cầm trống khẩu kê bên mang
tai mà gõ liên hồi để giục khiến cho tâm trí càng
thêm rối loạn.
Cuộc đấu mà kéo dài đến đêm thì người ta đốt đèn
đất (đèn khí đá, hydrocarbure) để tiếp tục cho đến
khi phân thắng bại.
Sau đây tôi xin lược trích một truyện ngắn của
Khái Hưng :
Làng
Ðông vào đám, mở cuộc đánh cờ người. Khoá Nghị là
người giữ giải. Ðã hơn một tuần lễ, ngày nào cũng có
người đến đấu nhưng đều bị thua.
Hôm ấy là ngày tan đám,
lại cũng là ngày phá giải cờ. Trai gái các làng lân
cận đến xem rất đông. Người ta đặc biệt chú ý đến 16
cô quân cờ ngồi trên ghế đẩu, từ cô Tướng đến cô Tốt
đều xinh đẹp, ăn mặc lịch sự, phấn sáp điểm trang
công phu, tóc bôi dầu dừa, vấn khăn nhung, áo cẩm
châu sặc sỡ, giầy mũi nhọn...
Hai Phùng, người đến phá
giải, nổi tiếng cao cờ khắp mấy tỉnh vùng xuôi, lại
cũng là một tay "hào hoa phong nhã" nên vừa hiện
diện lập tức gây sôi nổi, bàn tán. Lệ thường, người
phá giải được quyền đi trước, còn người giữ giải
được chọn bên. Lần này Hai Phùng phá lệ, tình nguyện
nhường Khóa Nghị đi trước. Khóa Nghị tưởng Hai Phùng
nhường vì muốn tỏ ra mình là tay "hào hiệp" bèn cũng
không chịu kém, không những nhường cho Hai Phùng
chọn bên, lại nhường luôn cả nước đi trước. Hai
Phùng dĩ nhiên chọn bên nữ.
Trống đánh giục mở đầu,
Hai Phùng tiến đến bên cô Sĩ, phất cờ đuôi nheo, mời
cô đi lên. Khóa Nghị thấy Hai Phùng vào đầu ghểnh
sĩ, cho là đối thủ không muốn tranh tiên đi trước,
cam bỏ phí nước đầu. Khóa Nghị cũng tỏ ra mình "anh
hùng", đấm tốt ba. Mặc cho Khóa Nghị đi nước gì Hai
Phùng cũng không để mắt tới, cứ quanh quẩn bên cô Sĩ
tán chuyện. Khi bị trống thúc ầm ĩ, không thể nói
chuyện được thì Hai Phùng phất cờ mời cô Sĩ lui về
chỗ cũ. Mọi người ngơ ngác, Khóa Nghị cho là đối
phương khinh chiến, tức mình mở cuộc đại công kích.
Nhưng hễ đến phiên Hai Phùng đi, vừa nghe tiếng
trống giục là phất cờ mời cô Sĩ tiến lên hoặc lui
xuống. Khóa Nghị đã vào pháo đầu mà bên địch còn
xuống Sĩ. Khóa Nghị sang tốt đầu, người đánh trống
thấy Hai Phùng lâu quá không đi bèn đem trống đến gõ
bên tai. Hai Phùng vội giục cô Sĩ lên. Lần này cờ
vừa phất, cô Sĩ vừa ngồi xuống thì ông Chánh Hội
cười ngặt nghẽo, mời Hai Phùng đi ra.
Năm ấy Khóa Nghị đoạt
được giải.
Nhưng Hai Phùng được quả
tim cô Sĩ"(29).
Châtenay-Malabry, tháng
11, 1996
(Thế Kỷ 21, số
Xuân Ðinh Sửu, tháng 2, 1997)
Sử
====
Chú thích:
[1]
- Sử Ký Tư Mã Thiên, tr. 135 - Kinh
Dịch, tr. XXIV, 2, 19-20 - Lão Tử Tinh
Hoa, tr. 128 - Nho Giáo, I, tr. 177 -
Khổng Tử, tr. 137 - Thực lục, IX,
tr. 168.
[2]
- Kinh Lễ, tr. 101-2.
[3]
- Trung Quốc Sử Cương, tr. 9, 157, 303.
[4]
- Vân Ðài Loại Ngữ, tr. 197.
[5]
- Thủy Hử, IV, tr. 1310-11 - Văn Hoè,
Trung Bắc Chủ Nhật, số 100.
[6]
- Lê Tắc, tr. 46-7, 129
- Ðài Chúng tiên không đặc biệt dành riêng
cho Tết, Ðại Việt Sử Lược, tr. 187 và 211
:
Năm 1120, mùa đông, tháng 10, Lý Nhân Tông
sai dựng đài Chúng Tiên. Có đua thuyền.
Năm 1162, mùa thu, dựng đài Chúng Tiên,
từng trên lợp ngói vàng, từng dưới lợp ngói bạc.
[7]
- Minh Mệnh Chính Yếu, II, 153-4 -
Thực Lục, IX, tr. 168-9.
[8]
- Sử Ký Toàn Thư, III, tr. 98.
[9]
- Sử Ký Toàn Thư, III, tr. 150.
[10]
- Phan Huy Chú, Lễ Nghi Chí, tr. 149-50.
[11]
- S. Baron, tr. 36.
[12]
- Phan Huy Chú, tr. 150-1 - Thăng-long, Ðông
đô, Hà-nội, tr. 194.
[13]
- Phan Huy Chú, tr. 148-9 - Ðỗ Ðoàn Bằng, tr.
183-4.
[14]
- Phủ Biên Tạp Lục, tr. 339.
[15]
- Ðỗ Quang Chính, tr. 119-20, 128.
[16]
- Minh Mệnh Chính Yếu, I, tr. 13, 20 ;
III, tr. 43 ; II, tr. 206 - Thực Lục
XXII, tr. 354-6.
[17]
- Thanh Ðạm, tr.. 275.
[18]
- J. Jacnal, tr. 104-5.
[19]
- Thực Lục, III, 359.
[20]
- Thực Lục, XXVII, tr. 65.
[21]
- Thực Lục, VI, 133.
[22]
- Thực Lục, IX, tr. 168-70.
[23]
- Ðại-Nam Ðiển Lệ, tr. 333 - Tuyển tập
Văn Bia Hà-nội, I, tr. 47-8. Bia soạn năm
1820.
[24]
- Coutumes et Légendes...
[25]
- Thi Nhân Việt-Nam, tr. 80-1.
[26]
- Nhà Nho, tr. 151-2.
[27]
- Hocquard, tr. 624-5.
[28]
- Hội Hè Ðình Ðám, II, tr. 284-5.
[29]
- Tiếng Suối Reo, tr. 178-84.
SÁCH THAM KHẢO
BARON, Samuel :
Description du Royaume de Tonquin. Bản dịch
của H. Deseille.
CHU THIÊN : Nhà Nho.
Hà-nội, 1943 (?) ; Ðại Nam tái bản ở Mỹ.
ÐÀO TRINH NHẤT : "Quyển
lịch của Quách Thủ Kính", Trung Bắc Chủ Nhật,
số 184, 21/11/1943.
ÐỖ BẰNG ÐOÀN & ÐỔ TRỌNG
HUỀ : Những Ðại Lễ và Vũ khúc của Vua Chúa
Việt-Nam. Văn Học, 1992.
Й QUANG CHÍNH :
Lịch sử chữ quốc ngữ. (1620-59). Saigon :
Ra Khơi, 1972 ; Paris : Ðường Mới tái bản, 1985.
GIẢN CHI & NGUYỀN HIẾN
LÊ : Sử Ký Tư Mã Thiên. Saigon : Lá Bối,
1970 ; tái bản, 1972 ; tái bản ở Mỹ.
GIANG QUÂN & PHAN TẤT
LIÊM : "Lễ thức và Phong tục", Thăng-long,
Ðông đô, Hà-nội. Hà-nội : Sở Văn Hóa & Thông
Tin, 1991.
JACNAL, Jean : "Mémoires
de S.E. Huỳnh Côn dit Ðan Tương. Ancien Ministre
des Rites", Revue Indochinoise, No 1-2,
Jan.-Fév. 1924.
KHÁI HƯNG : "Lên Sĩ...
Xuống Sĩ...", Tiếng Suổi Reo. Tái bản ở
Mỹ.
KIÊM THÊM : Tết
Việt-Nam. California : Xuân Thu, 1987.
LAN SƠN : "Vết thương
lòng", Thi Nhân Việt-Nam. Hà-nội, 1942 ;
Hoa Tiên tái bản lần thứ hai ở miền Nam, 1968.
LÊ QUÝ ÐÔN : Phủ Biên
Tạp Lục. Dịch giả Mai Ngọc Mai. Hà-nội :
KHXH, 1977.
Vân Ðài Loại Ngữ.
Dịch giả Tạ Quang Phát. Saigon : Phủ Quốc Vụ
Khanh đặc trách Văn Hóa, 1972, 1973.
LÊ TẮC : An-Nam Chí
Lược. Viện Ðại Học Huế, 1961.
NGÔ SĨ LIÊN : Ðại
Việt Sử Ký Toàn Thư, I, II. Hà-nội : KHXH,
1967. Cao Huy Giu dịch.
NGUYỀN CÔNG HOAN :
Thanh Ðạm. Hà-nội : Ðời Mới, 1943 ; Ðại Nam
tái bản ở Mỹ.
NGUYỀN DUY CẦN (Thu
Giang) : Lão tử Tinh Hoa. Saigon : Khai
Trí, 1963.
" " " : Dịch Học Tinh
Hoa. Saigon : Khai Trí, 1969 ; Xuân Thu tái
bản ở Mỹ.
NGUYỀN ÐỔNG CHI :
Nguồn Gốc Sự Vật, I. Paris : Ðông Nam Á,
1986.
NGUYỀN HI?N LÊ :
Khổng Tử. California : Văn Nghệ, 1992.
PHAN HUY CHÚ : Lịch
Triều Hiến Chương - Lễ Nghi Chí. Hà-nội. Tổ
Phiên dịch Viện Sử Học, 1961.
PHAN KẾ BÍNH :
Việt-Nam Phong Tục. Sống Mới tái bản ở Mỹ.
PHAN KHOANG (?) :
Trung Quốc Sử Cương. Saigon : 1958 ; Ðại Nam
tái bản ở Mỹ.
THI NI AM : Thủy Hử,
IV. Á Nam Trần Tuấn Khải dịch. Sống Mới, 1978.
TOAN ÁNH : Phong Tục
Việt-Nam. Ðại Nam tái bản ở Mỹ.
: Hội Hè Ðình Ðám,
II. Nam Chi Tùng Thư, 1974.
TRƯƠNG VĨNH KÝ :
Souvenirs historiques sur Saigon et ses
environs. Saigon : Imprimerie coloniale,
1885. Bản dịch của Nguyễn Ðình Dầu, Ký ức về
Saigon và các vùng phục cận. Trẻ, 1997.
VĂN HOÈ : "Lễ Phật quanh
năm không bằng ngày rầm tháng giêng", Trung
Bắc Chủ Nhật, số 100, 1/3/1942.
"Coutumes et Légendes de
la Fête du Tết au Việt-nam". Edition
spéciale publiée par la Revue Horizon.
Saigon. Không đề năm và tên tác giả.
Ðại-Nam Thực Lục.
Hà-nội : KHXH, Khoa Học, 1963, 1964, 1967, 1973.
Ðại-Nam Ðiển Lệ.
Nguyễn Sĩ Giác dịch. Saigon : Ðại Học Luật Khoa,
1962.
Ðại Việt Sử Lược.
Khuyết danh. Dịch giả : Nguyễn Gia Tường. TPHCM,
1993.
Kinh Lễ. Dịch giả
Nguyễn Tôn Nhan. Văn Học, 1999.
Minh-Mệnh Chính Yếu,
I, II, IV. Huế : Thuận Hóa, 1994.
Tuyển tập Văn Bia
Hà-nội, tập I. Hà-nội : KHXH, 1978.
Trích từ quyển Lối Xưa Xe Ngựa tập
II - An Tiêm xuất bản - Paris - 2002 |