|
Huỳnh Tịnh Của (1834-1907)
|
Huỳnh Tịnh Paulus Của hay Huỳnh
Tịnh Của người tỉnh Bà Rịa, ông thông
thạo Hán và Pháp Văn. Năm 1881, được
bổ ngạch Đốc phủ sứ, phụ trách công
việc phiên dịch các văn án cho nhà cầm
quyền Pháp tại Việt Nam.
Ông cũng là nhà văn quốc ngữ tiền phong
cộng tác với Gia Định báo. Tác phẩm quan
trọng trong văn nghiệp của ông rất có giá
trị, đó là quyển Đại Nam Quốc Âm
Tự Vị, in thành 2 tập, tập I in năm 1895
từ mẫu tự A đến L, tập II in năm
1896 từ M đến X, cả hai quyển đều in
tại Sàig̣n do nhà in Imprimerie REY, CURIOL & Cie, Rues Catinat
& d"Ormay. Năm 1983, nhà sách Khai Trí có in lại 2
tập của quyển tự vị nầy.
Là tự vị quốc âm nên mỗi chữ ông ghi
chữ Nôm rồi tới chữ quốc ngữ có kư chú
n: nôm, c: chữ (từ Hán Việt), sau đó mới
giải nghĩa, nếu là từ Hán Việt, đôi khi
ông thêm câu chữ Hán vào, ví dụ : chữ Quấc
trang 217 tập II .
(Chữ Nôm) Quấc n (Coi chữ quốc)
Con ---. Thứ chim đồng cao gị và hay kêu,
chữ gọi là (Đỗ)(Quyên), (Đỗ)( Vơ),(Tử)(Qui)
Đỗ quiên, đỗ vơ, tử qui.
Ḍ --- . Dài gị
Cách hành văn của ông rất mộc mạc và b́nh
dân, cho đến nay chưa t́m thấy tác phẩm nào
ông viết bằng Pháp Văn, các tác phẩm của ông
cho chúng ta thấy, ông đă chú trọng vào việc
điển chế và phổ biến chữ quốc
ngữ.
Văn nghiệp của ông gồm có :
- Chuyện giải buồn (1880)
- Chuyện giải buồn, cuốn sau (1885)
- Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, Tập I (1895)
- Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, Tập II (1896)
- Tục ngữ, cỗ ngữ, gia ngôn (1896)
- Gia lễ quan chế
- Ca trù thể cách
- Bạch Viên Tôn Các truyện
- Chiêu quân cống Hồ truyện
- Thoại Khanh Châu Tuấn truyện
- Thơ mẹ dạy con
- Quan Âm diễn ca
|