Vị nữ
Trạng nguyên có một không hai của nước ta vốn tên là
Nguyễn thị Du, song Vũ Phương Đề, người đầu tiên
viết về bà, từ thế kỷ thứ XVIII, chỉ cho biết bà họ
Nguyễn; Đại Nam Nhất Thống Chí và Trần Lê
Sáng chép bà tên Nguyễn thị Duệ (1); Bùi Hạnh Cẩn
đưa ra tên Nguyễn thị Niên (2); Đông Châu ngoài tên
Nguyễn thị Du còn ghi thêm tên Nguyễn Ngọc Toàn (3).
I - Thân
thế: Nhất kính chiếu tam vương
Bà sinh quán ở làng Kiệt
Đặc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương (Bùi Hạnh Cẩn
chép bà người "xứ Đông").
Năm 10 tuổi (Đồ Nam Nguyễn
Trọng Thuật ghi là "năm 20 tuổi") bà theo cha tị nạn
lên Cao Bằng, lúc ấy tuy họ Trịnh đã đánh bại họ
Mạc, chiếm lại kinh đô, nhưng lòng dân theo họ Mạc
còn đông.
Bà là người tuyệt sắc, lại
rất thông minh, 10 tuổi đã biết làm văn bài. Ông
thân bà tiếc tài con gái, cho cải nam trang đi học.
Năm 17 tuổi, chúa Mạc mở khoa thi, sĩ tử tham dự rất
đông, bà đỗ thủ khoa (4), còn chính thầy học của bà
chỉ đỗ thứ hai. Có lẽ vì thiếu tài liệu, không thấy
Phan Huy Chú ghi chép những khoa thi cuối của nhà
Mạc ở Cao Bằng, nên không rõ đích xác bà đỗ năm nào.
Khi dự yến đãi các tân khoa,
chúa Mạc thấy nhan sắc và phong cách của bà sinh
lòng ngờ vực, gạn hỏi và khám phá ra bà là gái giả
trai, bèn nạp cung phong làm Tinh Phi (Sao Sa) ngụ ý
khen bà vừa xinh đẹp vừa sáng láng như một vì sao.
Thời xưa phụ nữ không được phép đi thi, thậm chí dự
một buổi bình văn ở nhà Giám (Quốc Tử Giám) cũng
không được (Phạm Đình Hổ, Vũ Trung Tuỳ Bút),
bà cải trang đi thi như thế là phạm tội khi quân,
nhưng chúa Mạc không những không trừng phạt mà còn
nạp cung, phong tước phi, tỏ ra rất quý trọng tài
sắc bà.
Nhà Mạc mất, bà vào rừng ẩn
náu, bị quân Trịnh bắt được. Bà chống gươm xuống đất
nói :"Các ngươi bắt được ta thì phải đưa ta đến nộp
chúa của các ngươi, nếu vô lễ thì với lưỡi gươm này
ta sẽ tự tử". Quân Trịnh bèn giải bà về nộp chúa
Nghị Vương, chúa rất sủng ái.
Về già bà xuất gia đi tu ở
chùa Vụ Nông, hạt Gia Lâm, lấy hiệu Diệu Huyền.
Nghị Vương mất, con là Dương
Vương lên nối ngôi, triệu bà ra giữ chức Lễ Sư dậy
cung nhân, nên người ta cũng gọi bà là Lễ Phi (Lễ là
danh hiệu, tước vị là Chiêu Nghi, cao nhất trong 9
bậc cung tần, dưới loại phi) (5).
Bà thường viện dẫn nghĩa lý
kinh sử, sự tích cổ kim rành mạch, cả hai chúa Trịnh
đều khen ngợi, trọng vọng. Các biểu sớ, văn bài thi
Đại khoa chúa đều nhờ bà khảo duyệt lại. Khoa Tân
Mùi (1631) em họ ngoại bà là Nguyễn Minh Triết, sau
đổi tên là Nguyễn Thọ Xuân, ứng chế xong bảo với bạn
hữu :"Bài của tôi viết, cả triều chưa dễ mấy ai
hiểu, có chăng chỉ bà chị tôi là bà Lễ Phi hiểu được
mà thôi". Quả nhiên, bài đưa ra nhiều điển lạ, quan
trường không hiểu hết, chúa hỏi thì bà lý giải cặn
kẽ, chúa cho Xuân đỗ đầu. (Năm 1647, Xuân làm đến
chức Tả Thị lang bộ Hộ, sau thăng đến chức Thượng
thư, Thiếu bảo Cẩn quận công, thọ hơn 90 tuổi).
Tương truyền nhà bà có ngôi
tiên phần ở núi Trì Ngư, thuộc kiểu đất
Nhất kính
chiếu tam vương (một gương soi ba vương), bà thờ ba
đời chúa chính ứng với điều này.
Năm 70 tuổi bà xin về làng,
dựng am Đàm Hoa để ở, lại được cấp các thuế trong
làng làm ngụ lộc.
Bà mất năm 80 tuổi, táng ở
núi Trì Ngôi (Ngư ?) làng Kiệt Đặc. Ngọn tháp xây
trên mộ gọi là Tinh Phi cổ tháp, được liệt vào
hạng Chí Linh Bát Cổ, có khắc mười chữ trên bia
:"Lễ Phi sinh thông tuệ, nhất kính chiếu tam vương".
Trong bia Chí Linh Bát Cổ
cũng ghi lại bài thơ đề trên Tinh Phi cổ tháp :
Ngọc thủ chiết cao chi,
Kính nhan lưu cố thấp;
Tùng cổ thử giang sơn,
Chí kim kỷ minh giáp;
Hoa thảo tự khai tạ,
Ngư tiều tương vấn đáp;
Sơn sắc chính thanh hương,
Thu thanh hà tiêu táp.
Đại ý : "Một cái tay ngọc ngà
vin bẻ cành đan quế thứ nhất khi xưa kia, nay thì
trên cái kiểu đất hình mặt gương này còn lưu lại
với đời một toà tháp cổ. Giang sơn này từ bấy lâu
nay trải bao năm tháng mà đổi với cái cảnh cổ tháp
này, chỉ có hoa kia tự khai khai tạ cùng ông ngư
phủ, chú tiều phu khi qua tới mà cùng nhau trò
chuyện mà thôi. Đang khi ta viếng cảnh nhớ người,
núi non xanh ngắt một màu, bỗng đâu xào xạt tiếng
gió thu, giục lòng khách thương kim tự tích".
Bài thơ này do Nguyễn Trọng
Thuật sao chép lại (Nam Phong số 161, 1931)
khi ấy cổ tháp không còn dấu vết, duy chỉ có một
ngôi chùa nhỏ (am ?) làng Kiệt Đặc còn thờ tượng bà.
Trên bàn có bức hoành đề hai chữ "Hoa Am" và một đôi
câu đối :
Giáp khoa tiên chiếm Cao
Bình bảng,
Đại bút do truyền bát
cổ bi.
Lại có một cái bia do chúa
Trịnh (Dương Vương ?) tặng phong là Chính vương phủ
thị nội cung tần đức lão Lễ Sư. Chúa cấp ruộng
hương hỏa để thờ bà.
Sự tích bà còn ghi trong
Chí Linh phong thổ ký. Làng Kiệt Đặc thờ bà làm
thần.
II - Sự nghiệp văn chương
Bà giỏi cả Hán văn lẫn quốc
âm, sáng tác nhiều, tiếc rằng ngay từ thế kỷ XVIII
đã bị thất lạc gần hết (theo Vũ Phương Đề). Văn thơ
bà có tiếng là hay, song những câu còn được lưu
truyền lại không mấy xuất sắc, nhưng cũng xin chép
ra để khỏi thất lạc :
Bà có soạn một tập Gia Ký
(6) bằng quốc âm, văn vần, ghi chép việc riêng
của mình. Đây là cảm nghĩ ở dọc đường khi lánh nạn
lên Cao Bằng :
Đành thay là kẻ có mình,
Che trên đã có trời
xanh phù trì.
Bà lại tự ví mình với Bạc
thị, vợ Hán Cao tổ, có tiếng là người hiền đức:
Hiềm vì một chút đảo
điên,
Song le Bạc thị vốn
duyên Hán hoàng. (7)
Bà xưng là người hiền cũng
không ngoa : trong làng có người làm hại anh bà,
nhưng khi vinh hiển, bà không thèm cậy quyền thế để
trả thù, ai cũng khen phục bà là người độ lượng.
Người ấy sau hết lòng phụng sự bà.
Tự xét về văn tài mình bà
viết :
Nữ nhi dù đặng có thi
(8),
Ắt là tay thiếp kém gì
Trạng nguyên ?
Nếu quả bà thi đỗ năm 17
tuổi, thì hai câu này chắc viết khi còn trẻ lắm, vì
một khi chính mình đã đỗ Trạng rồi thì không còn lý
do gì để so sánh "kém gì Trạng nguyên" nữa ?
Trong làng có cậu ấm chọc
ghẹo, bà ghét :
Sá gì vàng đá hỗn hào,
Thoảng đem cánh
phượng bay cao Thạch thành (9)
Bà còn lập cho học trò Chí
Linh một Văn Hội, ngày rầm, mồng một, họp tại nhà
thờ họ bà ở làng Kiệt Đặc, đợi đầu bài của bà ở kinh
cho chạy ngựa trạm đem về. Riêng sự kiện này cũng
chứng tỏ chúa Trịnh quý trọng bà lắm mới cho dùng
ngựa trạm là của công để phục vụ riêng cho học trò
của bà ở huyện Chí Linh. Bài làm xong đóng hòm gửi
về kinh, bà chấm rồi gửi trả. Bà lại xuất tiền cho
người trưởng họ chu biện cơm nước cho sĩ tử hôm làm
bài. Văn học Chí Linh thịnh là nhờ công không nhỏ
của bà.
III- Hai bài tính đố: Bà sinh năm
nào và lấy chúa Mạc nào?
Sử sách của ta ít quan tâm
tới tiểu sử các tác gia, riêng đối với phụ nữ càng
tỏ ra mơ hồ đến nỗi một vị nữ Trạng nguyên có một
không hai của ta mà sinh năm nào, mất năm nào, lấy
chúa Mạc nào cũng không ai hay, đành phải phỏng
đoán. Những sự kiện khiến ta có thể dựa vào để ước
tính là :
Năm 10/20 tuổi bà lên Cao
Bằng lánh nạn rồi cải trang đi học. Năm 17 tuổi thi
đỗ Trạng nguyên, lấy chúa Mạc, sau lại thờ hai chúa
Trịnh Nghị Vương (1623-57) và Trịnh Dương Vương
(1657-82). Năm Tân Mùi (1631) bà chấm thi cho Nguyễn
Thọ Xuân đỗ đầu. 70 tuổi về làng dựng am Đàm Hoa.
Mất năm 80 tuổi.
Tất cả những chi tiết này
chỉ có chuyện Nguyễn Thọ Xuân đỗ đầu năm 1631 còn
được xác nhận trong Lịch Triều Hiến Chương, Khoa
Mục Chí.
Để tiện việc phỏng tính,
chúng ta cần ôn lại sơ qua quãng lịch sử cuối thời
nhà Mạc :
1592
- Mạc Mậu Hợp thua quân Trịnh, chạy trốn ở huyện Kim
Thành (Hải Dương), rồi bị bắt và bị chém ở Thăng
Long.
-Lúc ấy lòng dân vùng Đông Bắc (Hải Dương, Kinh Bắc
v.v...) còn quy phụ nhà Mạc. Dư đảng nhà Mạc nổi lên
khắp nơi, từ sông Nhị hà trở lên miền Bắc khói lửa
liên miên, giặc cướp không yên, dân mất mùa, đói
kém.
-Mạc Kính Chỉ chiếm Đông Triều, Thanh Lâm, xưng hiệu
Bảo Định rồi Khánh Hựu ở Chí Linh. 1593 Mạc Kính Chỉ
bị chém ở bến Thảo Tân (Bến Cỏ, Thăng Long).
-Mạc Kính Dụng, con Kính Chỉ, giữ Thái Nguyên, xưng
Uy Vương, 1598 bị thắt cổ ở chợ cửa Đông (Thăng
Long).
-Mạc Kính Chương chiếm Thiên Thi. 1596 bị giết...
1593
-Mạc Kính Cung xưng đế hiệu Càn Thống, giữ châu Yên
Bác ở Lạng Sơn.
-Nhà Lê khôi phục Thăng Long, vua Lê Thế Tông về
kinh sư.
1598
-Tháng 12, Mạc Kính Cung thua chạy sang Tầu từ 1594,
được nhà Minh giúp ép Trịnh Tùng cho Kính Cung trấn
ở Cao Bằng.
1600
-Bọn Phan Ngạn, Bùi văn Khuê làm phản theo về nhà
Mạc, vua phải lánh đi Thanh Hoa.
-Mạc Kính Cung được Bùi thị, mẹ Mạc Mậu Hợp, đón về
chiếm Đông Kinh (Thăng Long) dân theo vài vạn. Tháng
12, thua quân Trịnh Tùng, chạy sang Kim Thành.
1601
-Mạc Kính Cung lại thua, bỏ Kim Thành, trốn lên Lạng
Sơn.
-Vùng Hải Dương, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc bình
định.
1609
-Mạc Kính Cung chiếm Lạng Sơn rồi quấy rối Thái
Nguyên, sau thua quân Trịnh phải chạy vào hang động
ẩn náu.
1613
-Trịnh Tráng dẹp xong Yên Quảng, đi kinh lý vùng
này.
1616
-Mạc Kính Cung nhường
ngôi cho Mạc Kính Khoan (Biên Niên Lịch Sử Cổ
Trung Đại) (Theo Lê Quý Đôn thì mãi đến 1621/23
Mạc Kính Khoan mới tiếm ngôi).
1618
-Mạc Kính Khoan chiếm
Thái Nguyên, Cao Bằng, thua quân Trịnh Tráng, chạy
trốn. 1621-23 -Mạc Kính Khoan xưng Khánh Vương, hiệu
Long Thái, cùng Kính Cung chiếm giữ Cao Bằng, nhưng
biệt lập (theo Lê Quý Đôn).
1623
-Trịnh Tráng lên ngôi, phải dẹp dư đảng của em là
Trịnh Xuân, về đóng ở Thanh Hoa.
-Mạc Kính Khoan thừa cơ kéo quân đến Gia Lâm, dòm dỏ
kinh sư, người theo hàng vạn, bị Trịnh Tráng đánh
tan phải chạy về Cao Bằng
1625
-Mạc Kính Cung bị diệt. Mạc Kính Khoan xin làm phiên
trấn, triều đình thuận nhưng bắt bỏ đế hiệu.
1638
- Mạc Kính Khoan mất, con là Kính Vũ lên ngôi, lại
xưng đế hiệu Thuận Đức.
1657
-Trịnh Tráng mất, được truy phong Nghị Vương. Con là
Trịnh Tạc (Dương Vương) lên nối ngôi.
1667
-Mạc Kính Vũ thua quân Trịnh Tạc, chạy trốn sang
Tiểu Trấn Yên của nhà Thanh.
1669
-Nhà Thanh bắt Trịnh Tạc trả lại 4 châu ở Cao Bằng
cho Mạc Kính Vũ.
1677
- Mạc Kính Vũ theo Ngô Tam Quế chống lại nhà Thanh.
Quế mất, triều đình gửi thư cho nhà Thanh kể tội
Kính Vũ. Khi Kính Vũ thua quân Đinh văn Tả chạy sang
Long Châu, nhà Thanh bắt giao trả họ Trịnh. Nhà Mạc
đến đây mới dứt.
A/ Câu hỏi thứ nhất : Bà
sinh năm nào ?
a) Sớm
nhất vào năm 1589
Mãi đến tháng 12 năm 1598,
Mạc Kính Cung mới dựa thế nhà Minh, được về trấn
đóng ở Cao Bằng. Gia đình bà chỉ có thể di cư lên
Cao Bằng sớm nhất vào năm sau (1599), khi ấy bà mới
10 tuổi :
1599 - 10 = 1589
b) Muộn nhất vào năm
1591
- Bà chỉ phò hai chúa Trịnh
thì muộn nhất phải mất cùng năm với Trịnh Tạc
(1657-82), nếu mất sau 1682 thì thành "nhất kính
chiếu tứ vương" chứ không phải "tam vương" nữa. Nếu
bà mất vào năm 1682, thọ 80 tuổi, thì bà sinh muộn
nhất vào năm :
1682 - 80 = 1602
10 tuổi theo cha lên Cao
Bằng tức là vào năm :
1602 + 10 = 1612
Khi ấy Hải Dương, quê bà, đã
bình định từ 1601, thì gia đình bà còn chạy lên Cao
Bằng làm gì ? Tất nhiên không phải bà sinh năm 1602.
- Gia đình bà chạy lên Cao
Bằng muộn nhất phải vào đầu năm 1601, ngay trước khi
Hải Dương bình yên, như vậy bà sinh muộn nhất vào
năm :
1601 - 10 = 1591
c) Bà sinh năm 1590
Nguyễn Trọng Thuật viết
:"Năm 20 tuổi, nhà Lê khôi phục Thăng Long, bà theo
cha lên Cao Bằng ...". Từ cuối thế kỷ XVI đến đầu
thế kỷ XVII, nhà Lê "khôi phục" Thăng Long ba lần :
1. Năm 1593, sau khi Mạc Mậu
Hợp chết, lúc ấy Mạc Kính Cung chưa trấn đóng Cao
Bằng, tất nhiên gia đình bà không chạy lên Cao Bằng,
lên với ai ?
2. Năm 1623, Nghị Vương
Trịnh Tráng mới lên ngôi, đang lo diệt dư đảng Trịnh
Xuân, kinh thành rối loạn, phải bỏ về Thanh Hoa. Mạc
Kính Khoan nhân cơ hội tiến quân đến Gia Lâm, dòm dỏ
kinh sư, nhưng một tháng sau bại trận, bỏ chạy về
Cao Bằng, quân Trịnh chiếm lại Thăng Long. Nếu khi
ấy bà 20 tuổi, thì bà sinh năm :
1623 - 20 = 1603
Thọ 80 tuổi, tức là bà mất
năm 1683, sau Dương Vương một năm, trường hợp này
lại rơi vào cảnh "nhất kính chiếu tứ vương", không
ổn.
3. Năm 1600, bọn Phan Ngạn,
Bùi văn Khuê làm phản, theo nhà Mạc, vua Lê phải
lánh về Thanh Hoa, Mạc Kính Cung toan chiếm giữ
Thăng Long, nhưng thua quân Trịnh, phải chạy đến Kim
Thành, rồi lên Lạng Sơn. Nếu năm ấy bà 20 tuổi thì
bà sinh :
1600 - 20 = 1580
Cho là bà lấy Nghị Vương
ngay khi mới lên làm chúa (1623) thì lúc ấy bà đã :
1623 - 1580 = 43 tuổi
e già quá, chắc chúa Trịnh
không nạp cung.
Có lẽ Nguyễn Trọng Thuật sơ
ý viết nhầm 10 tuổi thành 20 tuổi, vì các sách khác
đều ghi bà lên Cao Bằng năm 10 tuổi. Nếu bà lên Cao
Bằng năm 10 tuổi thì bà sinh năm :
1600 - 10 = 1590
d)
Kiểm
chứng lại :
Nếu qủa bà sinh năm 1590 thì
trước hết không phản với thuyết trình bày trên đây
cho bà sinh sớm nhất năm 1589, muộn nhất năm 1591.
Những chi tiết khác cũng đều phù hợp :
1600 , Bà 10 tuổi, lên Cao
Bằng. Khi ấy nhà Lê vừa khôi phục Thăng Long, Hải
Dương chưa bình định, mà Mạc Kính Cung thì đã trấn
đóng Cao Bằng được hơn một năm, đủ thì giờ ổn định
tình thế, lại có nhà Minh ủng hộ đằng sau, lòng dân
còn quy phục nhà Mạc, gia đình bà chạy lên Cao Bằng
là phải.
1607 , Bà 17 tuổi, đã lên
Cao Bằng và cải trang đi học được 7 năm, đủ sức đi
thi. Mạc Kính Cung chiếm giữ Cao Bằng đưọc 9 năm, đủ
thì giờ tổ chức khoa cử.
1609 , Mạc Kính Cung thua
quân Trịnh phải chạy vào hang động ẩn náu, tất bà
cũng chạy theo, cho nên quân Trịnh mới bắt được bà ở
trong rừng, nhưng không rõ vào năm nào. Trịnh Tráng
mãi đến năm 1623 mới chính thức làm chúa, và đến khi
chết (1657) mới được truy phong làm Nghị Vương. Câu
"quân đem bà về nộp chúa Trịnh Nghị Vương..."rất tối
nghĩa. Nếu quả bà bị bắt khi Trịnh Tráng mới lên làm
chúa (1623) thì lúc ấy bà vừa 33 tuổi, kể ra cũng
còn trẻ, có thể được nạp cung. Chỉ sợ bà bị bắt từ
trước, quân đem về nộp không phải cho chúa Trịnh
Tùng, mà là nộp cho Trịnh Tráng, lúc ấy là Thanh
quận công, tuy chưa làm chúa nhưng từ 1612 đã thống
lãnh quân đội đi dẹp họ Mạc mấy lần, Tráng là người
sau này sẽ làm chúa và được phong tước Nghị Vương.
1631 , Bà 41 tuổi, đủ già
dặn để khảo duyệt lại các bài văn thi Đại khoa,
Nguyễn Thọ Xuân nhờ bà được đỗ đầu.
1670 , Bà mất năm 80 tuổi,
trước Dương Vương Trịnh Tạc 12 năm, hợp câu "nhất
kính chiếu tam vương".
B. - Câu hỏi thứ hai : Bà
lấy chúa Mạc nào ?
Bà chỉ có thể lấy một trong
ba chúa Mạc đã chiếm giữ Cao Bằng là :
- Mạc Kính Cung, con Kính
Điển, Điển là cháu gọi Mạc Đăng Dung bằng ông,
- Mạc Kính Khoan, cháu gọi
Kính Cung bằng chú,và là cha của Kính Vũ,
- Mạc Kính Vũ, cũng gọi là
Kính Hoàn, là con của Kính Khoan.
a) Bà không thể lấy Mạc
Kính Vũ (1638-77)
Mãi đến 1638 Kính Vũ mới lên
ngôi mà 1631 bà đã theo về chúa Trịnh và chấm thi ở
Thăng Long, tất nhiên không phải Vũ cho bà đỗ Trạng,
và bà tất không lấy Vũ.
b) Bà cũng không thể lấy
Mạc Kính Khoan
(1616/21/23-38)
- Cho là bà lấy Kính Khoan
từ khi Khoan mới lên Cao Bằng (1616) và tổ chức thi
cử ngay, thì năm ấy bà đã :
1616 - 1590 = 26 tuổi
26 tuổi mới thi đỗ thì không
lấy gì làm sớm đối với một người nổi tiếng là thông
minh xuất chúng; 26 tuổi mới xuất giá thì lại càng
không sớm đối với một phụ nữ thời xưa, thứ nhất lại
là một người rất đẹp, càng vô lý.
- Nếu 17 tuổi bà thi đỗ và
lấy chúa Mạc, tất phải vào năm :
1590 + 17 = 1607
Khi ấy Mạc Kính Khoan chưa
lên Cao Bằng và có thể cũng chưa chính thức lên
ngôi. Theo Lê Quý Đôn, sau khi Mạc Mậu Hợp chết,
Kính Khoan còn lẩn quất trên 20 năm ở vùng Đại Từ,
Vũ Nhai, rồi mới lên Cao Bằng. Biên Niên Lịch Sử
Cổ Trung Đại chép :"năm 1616 Kính Cung nhường
ngôi cho con là Kính Khoan" tính ra cũng trên 20 năm
sau khi Mạc Mậu Hợp bị chém ở Thăng Long. Nếu 1616
Khoan mới lên Cao Bằng thì tất nhiên Khoan không
phải là người cho bà đỗ Trạng, và bà cũng không lấy
Khoan.
c) Bà chỉ có thể lấy Mạc
Kính Cung nếu bà thi đỗ và lấy chúa Mạc ở Cao Bằng
năm 1607, khi ấy Kính Khoan chưa lên Cao Bằng, và
Kính Vũ chưa lên ngôi.
Câu "nhà Mạc mất, bà theo về
chúa Trịnh Nghị Vương" không đúng, phải sửa lại là
:" Mạc Kính Cung bại trận, bà trốn theo vào rừng, bị
quân Trịnh bắt, nộp cho Trịnh Tráng (sau này làm
chúa và khi chết được phong tước Nghị Vương). Nhà
Mạc chỉ "mất" với Mạc Kính Vũ.
Sau đây là bảng tóm tắt
những năm đáng ghi nhớ trong đời bà (nếu có lầm,
chắc cũng chỉ xê dịch khoảng 10 năm) :
1590 Sinh ở làng Kiệt Đặc.
1600 10 tuổi, lên Cao Bằng
tị nạn.
1607 17 tuổi thi đỗ, lấy
Mạc Kính Cung (có thể thi đỗ lấy Mạc Kính Cung muộn
hơn mấy năm).
1623 33 tuổi, lấy Trịnh
Tráng (có thể lấy từ trước).
1631 41 tuổi, chấm thi ở
Thăng Long, cho Nguyễn Thọ Xuân đỗ đầu.
1660
70 tuổi về làng, dựng
am "Đàm Hoa" để ở.
1670 Mất năm 80, táng ở
núi Trì Ngư, làng Kiệt Đặc.
Châtenay-Malabry tháng 5,
1990
(Văn học, số 53-54, tháng 7 & 8, 1990)
IV- Chú thích :
1. Trần Lê Sáng, Phùng
Khắc Hoan, tr. 30.
2. Bùi Hạnh Cẩn, Lê Quý
Đôn, tr. 159.
Sử Ký Toàn Thư IV,
189 chép Nguyễn thị Niên là vợ Bùi văn Khuê, vì có
chị lấy Mạc Mậu Hợp, thường ra vào trong cung. Hợp
thấy đẹp, mưu giết Khuê để toan chiếm.
3. Đông Châu, Nam Phong
số 24. Có thể tên này do chúa Trịnh đặt cho, vì các
cung tần của vua Lê, chúa Trịnh, tên đệm chữ "Ngọc".
4. Các sách đều chép bà đỗ
thủ khoa, một vài chỗ nói bà đỗ Trạng nguyên, không
rõ đó là sự thực hay thấy nói đỗ thủ khoa vội cho
ngay là phải đỗ Trạng ? Nhà Nguyễn có lệ không lấy
ai đỗ Trạng nguyên, song nhà Mạc hầu như khoa nào
cũng lấy người đỗ Trạng, nên tôi cũng để bà đỗ Trạng
cho thích hợp với truyền thống nhà Mạc.
5. Đại Nam Nhất Thống Chí
chép :"Vua Lê triệu vào dậy cung nữ, phong cho
tước hiệu là Nghi Ái quan".
6. Theo Vũ Phương Đề thì đến
thế kỷ 18, văn thơ bà đã thất lạc gần hết. Nguyễn
Trọng Thuật viết trong Nam Phong số 161 :
"Sách này (Gia ký) còn truyền đến gần đây mới
mất" không rõ tác giả có bằng chứng hay chỉ chép
theo họ Vũ mà quên rằng với họ Vũ thì "gần đây" có
nghĩa là thế kỷ thứ XVIII, còn vói họ Nguyễn thì
"gần đây" có nghĩa là đầu thế kỷ thứ XX ?
7. Có bản chép :
Kém vì một chút đảo điên,
Song le Bạc thị vốn
duyên Hán thần.
8. Có bản chép :
Nữ nhi dù đặng có rầy
9. Có bản chép :
Giận loài vàng đá hỗn hào
Nguyễn Trọng Thuật kể là
"một ông quan trong làng đến hỏi, bà giận, viết câu
này". Thiết tưởng nếu ông quan dến hỏi là có đủ nghi
lễ, nếu bà không thuận thì thôi, cớ sao lại ghép cho
người ta tội "hỗn hào" ? Thuyết "cậu ấm chọc ghẹo"
hợp lý hơn.
V- Sách tham khảo :
- Biên Niên Lịch Sử Cổ
Trung Đại, Hà Nội : Khoa Học Xã Hội, 1987.
- Bùi Hạnh Cẩn, Lê Quý
Đôn, Hà Nội : Văn Hoá, 1985.
- Đại Nam Nhất Thống Chí,
III, tr. 437, Hà Nội : Khoa Học Xã Hội, 1971.
- Đồ Nam (Nguyễn Trọng
Thuật), "Bà Sao Sa, Nữ Trạng nguyên", Nam Phong
số 161, 9-1931, tr. 342-4.
- Đông Châu (Nguyễn Hữu
Tiến), "Bà Lễ Phi Nguyễn Thị", Nam Phong số
24, 6-1919, tr. 501-2.
- Khâm Định Việt Sử Thông
Giám Cương Mục, XV & XVI, Hà Nội : Văn Sử Địa,
1957.
- Lê Quý Đôn, Đại Việt
Thông Sử, Hà Nội : Khoa Học Xã Hội, 1978.
- Ngô Sĩ Liên, Đại Việt
Sử Ký Toàn Thư, IV, Hà Nội : Khoa Học Xã Hội,
1968.
- Nguyễn Bá Trác, Hoàng
Việt Giáp Tý Niên Biểu, Saigon : Bộ Quốc Gia
Giáo Dục, 1963.
- Phan Huy Chú, Lịch
Triều Hiến Chương, Khoa Mục Chí, Hà Nội : Sử
Học, 1961.
- Quỳnh Cơ, Mai Quốc Liên,
Văn Phác, Chuyện Hay Sử Cũ, Hà Nội : Thanh
Niên, tr. 24-6, 1989.
- Trần Lê Sáng, Phùng
Khắc Hoan, Hà Nội : 1985.
- Trần Trọng Kim, Việt
Nam Sử Lược, Saigon : Tân Việt, 1953.
- Vũ Phương Đề, Công Dư
Tiệp Ký, Saigon : Bộ Quốc Gia Giáo Dục, Dịch giả
: Nguyễn Đình Diệm.
Tập III, tr. 118-22 "Lễ phi
sinh thông tuệ..."
Tập III, tr. 34-41 "Nguyễn
Công Thọ Xuân"
*
* *
Bài này viết năm 1990,
đến 1993 tôi được đọc "Bà Tiến sĩ thời
Mạc" (Những bà giáo thời xưa, Hà Nội: Phụ nữ,
1988) của Đỗ thị Hảo cho biết bà Nguyễn thị Duệ đỗ
Tiến sĩ ở Cao Bằng thời Mạc Kính Cung, khoa Bính
Thìn (1616). Chính ra Chí Linh Phong Vật Chí
chép bà Duệ đỗ năm Mậu Thìn, tức là 1628 hay 1688,
song theo Đỗ thị Hảo thì có lẽ Mậu Thìn không đúng
vì từ 1628 đến 1644 quân Trịnh không đánh nhau với
quân Mạc trận nào, mà năm 1631 thì bà Duệ đã ở Thăng
Long cho Nguyễn Minh Triết đỗ Tiến sĩ, có lẽ vì thế,
dựa vào chữ "Thìn" Đỗ thị Hảo đã đổi Mậu Thìn sang
Bính Thìn ?
Có điều không ổn là từ
1609, Mạc Kính Cung đã thua quân Trịnh phải chạy vào
hang động ẩn náu. Việc bà chạy trốn theo vào rừng
rồi bị quân Trịnh bắt nộp Trịnh Tráng chứng tỏ khi
ấy bà đã thành hôn với Kính Cung, tức là bà đã đỗ
Trạng từ trước.
Nếu Biên Niên Lịch Sử
Cổ Trung Đại chép đúng thì 1616 Mạc Kính Cung
nhường ngôi cho Kính Khoan, thế thì còn tổ chức thi
cử kén người làm gì ?
Chữ "Thìn" chưa chắc là
đúng, nay ta thử căn cứ vào chữ "Mậu"và đổi Mậu Thìn
sang Mậu Thân (1608) thì thấy nó không xa với thời
điểm tôi tính là mấy (1607). Tuy nhiên, vì dựa vào
Chuyện Hay Sử Cũ, nói bà đỗ năm 17 tuổi (xét
ra có lý bởi bà rất thông minh), nhưng lại là đỗ
ở... Thăng Long và vào cuối thời nhà Mạc (1527-1592)
cho nên tôi đã dè dặt đặt (1607) trong ngoặc đơn, có
nghĩa là có thể muộn hơn mấy năm.
Ngoài ra bà Đỗ thị Hảo
còn cho biết thầy học của bà Du họ Cao và câu "nhất
kính chiếu tam vương"còn có thể hiểu là bà Du sống
dưới triều ba vì vua Lê, tức là :
Lê Thần tông :1619-42 rồi
1649-62
Lê Chân tông :1643-48
Lê Huyền tông : 1663-71
Hoặc trải qua ba đời chúa
Trịnh :
Trịnh Tráng : 1623-57
Trịnh Tạc : 1657-82
Trịnh Căn : 1682-1709
Hoặc ba vương triều, tức
là triều nhà Lê, triều nhà Mạc và cả triều các chúa
Trịnh nữa.
Trước hết, "chiếu tam
vương" mà hiểu là "tam vương triều" thì có lẽ hơi
gượng ép.
Còn nói bà "sống", với
nghĩa "phục vụ" dưới triều ba vua Lê Thần tông, Chân
tông, Huyền tông thì có thể được vì cộng cả ba đời
vua là :
1671 - 1619 = 52 năm.
Ta đã biết bà thọ 80
tuổi, vậy thì 28 năm còn lại gồm 18 năm đầu đời khi
bà còn đi học và 10 năm cuối đời khi bà đi tu, không
phục vụ ai cả.
Về các chúa Trịnh nếu kể
bà sống dưới Trịnh Căn e không ổn vì Trịnh Căn lên
ngôi năm 1682, cho là bà chỉ phục vụ Căn có một năm
rồi đi tu thì bà mất năm :
1682 + 10 = 1692
Và sinh năm :
1692 - 80 = 1612
Vậy thì làm thế nào đỗ
năm 1608 (theo tôi tính) hay 1616 (theo bà Hảo tính)
được ? Bà phải sống dưới thời Trịnh Tùng (1571-1623)
và Trịnh Tráng, Trịnh Tạc mới hợp lý.
Suy nghĩ kỹ, tôi vẫn thấy
"tam vương" trỏ vào Mạc Kính Cung, Trịnh Tráng và
Trịnh Tạc đúng hơn cả.
Trích từ tác phẩm Lối Xưa
Xe Ngựa |