Phan Huy Chú

                                       
 
.
 

Danh Nhân Văn Học Việt Nam:

Lê Quí Đôn - Một Nhà Bác Học

Phan Huy Chú - Nhà Bách Khoa Lỗi Lạc

Nam Chi

Lê Quí Đôn - Một Nhà Bác Học

Trong văn học Việt Nam, Lê Quí Đôn là một trường hợp đáng lưu ý. Ông là một thiên tài văn học, hơn nữa, một nhà bác học, bởi sự nghiệp trước tác của ông rất lớn, bao gồm mọi lĩnh vực: triết học, lịch sử, địa lý, văn học, văn chương, khoa học ...

Vài Nét Về Thân Thế

Lê Quí Đôn sinh năm 1726. Quê ở làng Duyên Hà, tỉnh Thái Bình (Bắc Việt). Sinh trưởng trong một gia đình quan lại. Năm 18 tuổi đậu giải nguyên (đỗ đầu khoa thi Hương), năm 27 tuổi đỗ đầu khoa thi Hội và tiếp luôn đỗ đầu khoa thi Đình với danh hiệu Bảng Nhãn. Sau khi thi đỗ, ông ra làm quan dưới triều Lê-Trịnh, đảm trách nhiều chức vụ trong triều và ở các trấn. Năm 1760-1762, ông đi sứ sang Tàu, có xướng họa thơ với các văn sĩ Tàu và sứ thần Cao Ly. Ông đã giới thiệu một số tác phẩm của ông, họ đề tựa và hết sức ca ngợi. Ông mất năm 1784, đưới đời Trịnh Tông.

Tác Phẩm

Tác phẩm của Lê Quí Đôn rất phong phú, phần lớn viết bằng Hán văn và có thể chia làm 5 loại:

A - Giảng luận về kinh truyện:

  1. Dịch Kinh Phu Thuyết (lời bàn nông cạn về Kinh Dịch): 6 quyển.
  2. Thư Kinh Diễn Nghĩa (giảng về Kinh Thư): 3 quyển.

B - Khảo Cứu Cổ Thư:

  1. Quần Thư Khảo Biện (xét bàn các sách). Có tựa của tác giả cùng Chu Bội Liên (Tàu) và Hồng Khải Hy (Cao Ly).
  2. Thánh Mô Hiền Phạm Lục (ghi chép mẫu mực của thánh hiền): 12 quyển. Có tựa của Chu Bội Liên và Hồng Khải Hy.
  3. Vân Đài Loại Ngữ (lời nói ở nơi đọc sách phân ra từng loại): 4 quyển. Sách này có 9 mục, trích văn các sách Tàu kèm lời bàn theo quan điểm tác giả.

C - Sưu Tập Thi Văn

  1. Toàn Việt Thi Lục (chép đủ thơ Việt): 15 quyển. Sưu tập thơ từ thời Lý đến Hậu Lê, gần 200 thi gia, kèm tiểu truyện từng thi gia.
  2. Hoàng Việt Văn Hải (bể văn nước Việt): 10 quyển. Sưu tập các bài văn hay từ thời Lý, Trần đến Lê.

D - Sử Ký Địa Chí

  1. Đại Việt Thông Sử: Bộ sử viết theo thể "kỷ truyện" (kỷ = chép công việc của nhà vua, truyện = chép truyện các nhân vật) từ đời Lê Thái Tổ đến Lê Cung Hoàng (1418-1527). Sách này không còn trọn bộ, chỉ sót lại mấy phần: đế kỷ, nghệ văn chí, liệt truyện.
  2. Phủ Biên Tạp Lục (ghi chép linh tinh về chính trị ở biên thùy): 6 quyển. Sách khảo cứu về lịch sử, địa dư, chính trị, phong tục hai miền Thuận Hóa và Quảng Nam.
  3. Bắc Sứ Thông Lục (ghi chép việc đi sứ tàu): 4 quyển.
  4. Kiến Văn Tiểu Lục (chép vặt các điều nghe thấy): 12 quyển. Sách ghi những kiến thức về lịch sử, văn minh nước Việt từ cuối đời Trần đến đời Lê.

E - Thi Văn:

  1. Quế Đường Thi Tập: Thơ có chú thích của tác giả.
  2. Liên Châu Thi Tập: 4 quyển, gồm trên 400 bài thơ của Lê Quí Đôn cùng các thi gia khác và các bài xướng họa giữa ông cùng các thi sĩ Tàu và Cao Ly.
  3. Quế Đường Văn tập: 4 quyển. Tập văn của tác giả (Quế Đường là biệt hiệu của Lê Quí Đôn).
  4. Một số tác phẩm thơ văn viết bằng chữ Nôm (còn lưu lại rất ít).

Ngoài các tác phẩm kể trên, theo phân loại của Dương Quảng Hàm, một số còn lưu ở các thư viện Hà Nội, chư phân loại như: Quốc Sử Tục Biên, Lịch Triều Danh Phú, Tứ Thư Ước Giải, Thái Ất Dị Giản Lục, Thưởng Tâm Nhã Tập, Hội Hải Minh Châu Toàn Tập, Đại Việt Địa Lý Chư Gia Kiềm Ký Bí Lục, Âm Chất Văn Chú, Liên Sơn Quy Tàng Nhị Dịch Thuyết.

Một số sách của Lê Quí Đôn không còn tồn tại như: Xuân Thu Lược Trận, Thi Thuyết, Lễ Thuyết, Thiên Văn Thư, Địa Lý Tinh Ngôn Thư, Dân Chính Thư, Tồn Tâm Lục, Hoàng Triều Tri, Giám Cương Mục Vũ Bị Tâm Lược, Địa Lý Tuyển Yếu, Thái Ất Quái Vận, lục Nhâm Hội Thống, Lục Nhâm Tuyển Túy, Hoạt Nhân Tâm Kinh, Kim Cương Kinh Chú Giải, Đạo Đức Kinh Diễn Thuyết.

Xét toàn bộ tác phẩm của Lê Quí Đôn ta thấy đó là một công trình trước tác cá nhân hết sức vĩ đại ít có người làm nổi. Xét riêng từng mặt, mặt nào cũng biểu hiện tinh thần dồi dào của ông.

I - Triết Học

Các tác phẩm có tính tiết học của Lê Quí Đôn là: Thánh Mô Hiền Phạm Lục, Quần Thư Khảo Biện, Thư Kinh Diễn Nghĩa, Dịch Kinh Phu Thuyết, Vân Đài Loại Ngữ, Tứ thư Ước Giải, Kiến Văn Tiểu Lục. Qua các tác phẩm đó, Lê Quí Đôn đã nêu lên những vấn đề: nguyên nhân hưng vong của các triều đại, vai trò của người hiền tài và quần chúng nhân dân trong lịch sử, đức trị và pháp trị trong đường lối trị nước, đức và tài trong việc dùng người, lý và khí trong quan hệ giữa vật chất và tinh thần.

II - Văn Học

Về mặt văn học, Lê Quí Đôn đã có nhiều đóng góp về vấn đề: ngôn ngữ, văn tự Việt (Vân Đài Loại Ngữ), lịch sử khoa cử ở nước ta (Kiến văn Tiểu Lục), mục lục sách của tiền nhân từ thời Lý Trần (Đại Việt Thông Sử), tuyển chọn thơ Việt (Toàn Việt Thi Lục), tuyển chọn văn Việt (Hoàng Việt Văn Hải), tiểu truyện các danh nhân, phần nhiều là các nhà văn, thơ (Kiến Văn Tiểu Lục). Những đóng góp ấy có khuynh hướng phục vụ cho một bộ văn học sử Việt từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVIII.

III - Sử Địa

Các tác phẩm về sử địa của ;q đã làm nguồn tài liệu cho các nhà biên khảo về sau, nhất là Quốc Sử Quán triều Nguyễn, qua các sách Đại Việt Thông Sử, Phủ Biên Tạp Lục, Kiến Văn Tiểu Lục ...

Khi nghiên cứu lịch sử, Lê Quí Đôn đã đánh giá công bằng các nhân vật lịch sử, một số bị các sử gia lãng quên như trường hợp Lê Chích, một vị tướng đã theo Lê Lợi, hiến kế cho ông chuyển quân vào Nghệ An để về sau xuất phát từ đó tiến công thắng lợi cả hai mặt nam bắc.

Về địa lý, Lê Quí Đôn đã có nhận thức đứng đắn về việc áp dụng khoa thiên văn vào địa lý ngày xưa như xác định khu vực các vì sao tương ứng với khu vực quốc gia trên quả đất và cũng từ đó qui ra các điềm lành hay dừ của trời đất đối với người. Ông nghi ngờ điều ứng hiện lành dữ trên vì không có cơ sở. Qua các tập Vân Đài Loại Ngữ, Phủ Biên Tạp Lục, Lê Quí Đôn cung cấp một số tài liệu quí báu về địa lý nước Việt như các miền địa đầu, hải đảo, thắng cảnh, sản vật, đường sá, di tích lịch sử ...

IV - Nghệ Thuật

Trong tập Kiến Văn Tiểu Lục, Lê Quí Đôn đã viết về nhạc Việt và ở tập Vân Đài Loại Ngữ đề cập đến qui luật âm nhạc. Ông đã có những nhận xét rất tỉ mỉ và chính xác.

V - Văn Chương

Qua một số thi tập, tiêu biểu là Quế Đường Thi Tập, Lê Quí Đôn là một nhà thơ gần gũi với nhân dân, phản ảnh đời sống của đồng bào nông thôn với tình cảm yêu mến nồng hậu, thiết tha. Hơn nữa, thơ Lê Quí Đôn còn biểu lộ một tinh thần dân tộc rất cao qua những bài ngợi ca non sông đất nước, tình cảm về quê hương xứ sở, với đồng bào nghèo khổ.

VI - Khoa Học

Lê Quí Đôn đã có những tri thức khoa học tiền tiến. Khác với quan niệm cũ cho rằng "trời tròn đất vuông", ông là người đầu tiên ở nước Việt chấp nhận lý thuyết quả đất tròn và qua các bài nghiên cứu về địa lý, ông có thể là người đầu tiên biết đến bốn đại châu Á, Âu, Phi, Mỹ trên thế giới. Ngoài ra ông đã có những hiểu biết tường tận về hàng trăm giống lúa, hàng trăm giống cây, hàng chục giống cá ...

Sự đóng góp của Lê Quí Đôn vào kho tàng văn học, tư tưởng Đại Việt đã dành cho ông địa vị một nhà bác học xứng đáng mà đến ngày nay chúng ta vẫn còn cảm phục về tri thức ở mọi mặt, có tính chất sâu rộng và vượt lên trên thời đại của ông.

Phan Huy Chú - Nhà Bách Khoa Lỗi Lạc

Trong số những tài năng làm phong phú nền văn học Việt Nam, ngoài Lê Quí Đôn, phải kể đến Phan Huy Chú, một người thông kim bác cổ, với những trước tác lớn lao, nhất là bộ Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, một cuốn Bách Khoa Toàn Thư và ông được xem như là một nhà bách khoa lỗi lạc vào đầu thế kỷ 19.

A - Thân Thế

Phan Huy Chú sinh năm 1782. Quê ở xã Thu Hoạch, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Con của Phan Huy Ích (một dịch giả Chinh Phụ Ngâm). Ông đậu tú tài hai khóa (1807 và 1819), làm quan dưới triều vua Minh Mạng nhà Nguyễn. Ông đã được cử đi sứ ở Tàu năm 1830 và cuối năm ấy dự phái bộ sang Giang Lưu ba (Batavia) để hiệu lực (dương trình hiệu lựcT ). Sau đó ông cáo bệnh xin về nghỉ. Ông mất năm 1840.

B - Tác Phẩm

Phan Huy Chú đã viết:

  • Hoàng Việt Địa Dư Chí (2 quyển)
  • Hoa Thiều Ngâm Lục (2 quyển): tập thơ làm khi đi sứ Tàu lần thứ nhất.
  • Hoa Trình Tục Ngâm: tập thơ làm khi đi sứ Tàu lần thứ hai.
  • Dương Trình Ký Kiến: tập ký những điều trông thấy khi sang Batavia.
  • Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí: tác phẩm quan trọng nhất của ông.

C - Nội Dung Bộ Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí (Phép tắc các triều chép thành loại)

Gồm 10 chí, 49 quyển:

  1. Địa Dư Chí (1-5): Bờ cõi Việt Nam qua các đời và phong thổ các tỉnh.
  2. Nhân Vật Chí (6-12): Tiểu sử các vua, quan, tướng, nho sĩ, người tiết nghĩa.
  3. Quan Chức Chí (13-19): Chế độ và tổ chức quan lại các đời.
  4. Lề Nghi Chí (20-25): Chế độ áo mũ, xe kiệu, võng lọng của vua chúa, quan lại, lề thờ cúng, tang ma, sách phong, tế cáo.
  5. Khoa Mục Chí (26-28): Chế độ thi cử các đời.
  6. Quốc Dụng Chí (29-32): Chế độ thuế má, ruộng đất, tiền tệ.
  7. Hình Luật Chí (33-38): Luật lệ các đời.
  8. Binh Chế Chí: (39-41): Chế độ và tổ chức quân đội.
  9. Văn Tịch Chí (42-45): Thống kê sách vở các đời.
  10. Bang Giao Chí (46-49): bang giao các đời giữa Việt Nam và Trung Quốc cùng nghi lễ đón tiếp sứ thần.

D - Giá Trị Công Trình Biên Khảo Của Phan Huy Chú

Bội Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú là một công trình biên khảo lớn lao và có giá trị của một bộ bách khoa toàn thư của nước Việt.

Giá trị công trình này được ghi nhận ở nhiều điểm:

  1. Xây dựng có phương pháp khoa học, bởi các sự việc ghi chép đều có dẫn chứng với các tài liệu, văn thư, nếu có tài liệu khác nhau thì cân nhắc và có nhận xét riêng. Nhờ phương pháp khoa học đó mà công trình có tính chất chính xác.
  2. Biên khảo với quan điểm quốc gia dân tộc, công trình biểu dương văn hóa, văn minh bắt nguồn từ thời Hùng Vương, đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc và khẳng định Việt Nam là một quốc gia "thanh danh, văn hóa và nhân tài thịnh vượng không kém gì Trung Hoa." Quan điểm quốc gia của Phan Huy Chú còn tỏ rõ ở khái niệm: "Của báu của một nước không có gì quí bằng đất đai. Nhân dân và của cải đều do đấy mà sinh ra... "
  3. Biên khảo lịch sử với một nhận thức mới, bao gồm các mặt xã hội (kinh tế, chíng trị, xã hội, văn hóa), khác với các công trình đã có từ trước cho rằng lịch sử đất nước chỉ là ghi chép lịch sử của các dòng họ vua chúa và sự biến động liên hệ đến sự kiện đó. Khi nghiên cứu lịch sử đất nước bao gồm các mặt xã hội như trên, Phan Huy Chú đã nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của kinh tế: "Việc chính trị to lớn của một nước không gì thiết yếu bằng của cải" (Quốc dụng Chí). Và trong vấn đề kinh tế, Phan Huy Chú đã lưu ý đến vấn đề lưu thông tiền tệ, hàng hóa, vấn đề khai thác các tiềm năng kinh tế cùng vấn đề quản lý các tài nguyên của đất nước.
  4. Công trình của Phan Huy Chú được viết với một quan niệm nhân đạo. Ông cho rằng việc "quân điền" (chia ruộng đồng đều) là một "chính sách nuôi dân, làm cho dân có tài sản", và chủ trương lấy lại ruộng đất trong tay cường hào để chia đều cho nông dân.
  5. Vấn đề luật pháp được đề cao trong công trình biên khảo và được nhận thức theo một quan điểm mới lạ. Theo Phan Huy Chú, luật pháp không đơn thuần là những điều luật, lệnh cấm, hình phạt mà là những phương cách để trị nước qua các đời đã được thể chế hóa.
  6. Quan niệm đứng đắn về sứ mạng của văn học. Đó là phản ảnh kinh nghiệm cuộc sống tinh thần và vật chất của con người, là biểu hiện của văn minh ("... Xem văn chương để hiểu thấu đường đời. Văn minh của loài người đều chứa đựng trong sách vở" - Tựa Văn Tịch Chí.)

Văn Tịch Chí - một phần trong tập Lịch Triều Hiến Chương - không chỉ là một bản thư mục đầy đủ về các tác phẩm thi văn của các đời mà còn là một công trình biên khảo, phê bình văn học giúp cho người đọc lĩnh hội được mọi vẻ hay đẹp về tư tưởng, tình cảm và nghệ thuật chứa đựng trong các tác phẩm nói trên.

Công trình của Phan Huy Chú là một tổng kết toàn bộ lịch sử nghìn năm văn hiến của nước Việt, được phân loại và trước tác có phương pháp khoa học với những quan điểm, nhận thức mới mẻ, xứng đáng là một bộ bách khoa toàn thư có giá trị lâu dài. o

 

Phan Huy Chú (1782-1840)

   

Phan Huy Chú (1782-1840), người làng Thụy Khuê huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây (nay là Hà Tây), là nhà bác học lớn, danh nhân văn hóa của Việt Nam thế kỷ 19. Cuốn "Lịch triều hiến chương loại chí" của ông là một công trình khoa học đồ sộ, khảo cứu nhiều bộ môn, được đánh giá là bộ bách khoa toàn thư về Việt Nam. Ông còn để lại nhiều tác phẩm có giá trị khác như Hoàng Việt dư địa chí, Hoa thiều ngâm lục...

Phan Huy Chú tự là Lâm Khanh, hiệu Mai Phong, sinh vào mùa đông năm Nhâm Dần 1782, mất năm 1840. Ông là con trai thứ ba Phan Huy ích, thân mẫu là bà Ngô Thị Thục, em gái Ngô Thì Nhậm. Phan Huy Chú sinh ra và lớn lên ở Thụy Khuê, tục gọi là làng Thày. Vốn thông minh, sớm có chí học tập, tìm tòi, lại được sự dạy dỗ cẩn thận của gia đình, nên Phan Huy Chú học giỏi nổi tiếng cả vùng Quốc Oai, Sơn Tây (nay là Hà Tây). Tuy học giỏi song Phan Huy Chú, hai lần đi thi đều chỉ đỗ tú tài nên người ta gọi là ông "Kép Thầy". Không đứng trong hàng khoa bảng nhưng thực học, thực tài của Phan Huy Chú vẫn nức tiếng xa gần. Năm 1821, vua Minh Mệnh có triệu Phan Huy Chú vào Huế giữ chức Hàn lâm biên tu. Năm 1825, ông được xung sứ bộ sang Trung Quốc. Năm 1828, thăng Phủ thừa phủ Thừa Thiên. Năm 1829, được điều làm Hiệp trấn Quảng Nam, sau đấy bị giáng. Năm 1831, lại được cử sang sứ Trung Quốc. Khi trở về, do cả đoàn sứ bộ phạm tội "lộng quyền", Phan Huy Chú bị cách chức. Năm sau, Phan Huy Chú bị Minh Mệnh bắt đi hiệu lực ở Giang Lưu Ba (thuộc Indonesia ngày nay), tức là đi phục vụ cho một sứ bộ làm công việc buôn bán đường biển giữa triều Nguyễn và Nam Dương. Xong nhiệm vụ trở về, Phan Huy Chú được khôi phục giữ chức Tư vụ bộ Công nhưng đã chán cuộc đời làm quan, ông mượn cớ đau yếu xin về nghỉ và dạy học ở Thanh Mai, huyện Tiên Phong, Sơn Tây (nay là xã Vạn Thắng, huyện Ba Vì, Hà Tây) rồi mất tại đó.

Cuộc đời làm quan của Phan Huy Chú rất buồn chán và lận đận. Nhưng về phương diện văn hóa Phan Huy Chú có một cống hiến rất lớn. Ông đã để lại cho dân tộc một công trình khoa học đồ sộ, đó là bộ "Lịch triều hiến chương loại chí". Ngoài ra, Phan Huy Chú còn có các tác phẩm: "Hoàng Việt dư địa chí", viết về địa lý nước ta thời Nguyễn. Năm 1838, sách này được in ở hai nơi là Hội văn đường và Quảng văn đường. Năm 1897, Tụ văn đường tái bản. "Hoa thiều ngâm lục", là tập thơ Phan Huy Chú làm lần đi sứ thứ nhất, gồm 2 quyển. Quyển thượng có 1 bài tựa của tác giả, 161 bài thơ và 3 bài phú. Quyển hạ có 114 bài thơ, 1 bài phú và 8 bài từ. "Hoa trình ngâm lục", là tập thơ Phan Huy Chú sáng tác lần đi sứ thứ hai, gồm 127 bài. "Dương trình ký kiến" (ghi chép những điều mắt thấy trong cuộc hành trình trên biển), viết lúc đi hiệu lực ở Indonesia, sách này bị thất truyền. "Nam trình tạp ngâm", làm năm 1821 trên đường từ Sơn Tây vào Huế nhận chức, cũng bị mất.

Sự nghiệp trước tác lớn nhất của Phan Huy Chú là bộ "Lịch triều hiến chương loại chí". Ông đã bỏ ra 10 năm (1809-1819) để hoàn thành bộ sách này, tức là bộ sách được khởi thảo lúc Phan Huy Chú 27 tuổi. Năm 1821 khi làm "Hàn lâm biên tu", Phan Huy Chú dâng "Lịch triều hiến dương loại chí" lên Minh Mệnh, được Minh Mệnh thưởng 30 lạng bạc, 1 chiếc áo sa, 30 cái bút, 30 thoi mực.

"Lịch triều hiến dương loại chí" là một bộ sách gồm 10 chí, ghi chép 10 bộ môn được phân loại, khảo cứu một cách hệ thống theo trình tự sau:

Dư địa chí: Nghiên cứu sự thay đổi về bờ cõi đất đai qua các đời, sự khác nhau về phong thổ của các địa phương.

Nhân vật chí: Nói về tiểu truyện của các vua chúa, những người có công lao xây dựng các triều đại, những tướng lĩnh có danh tiếng, những trí thức có đức nghiệp.

Quan chức chí: Bao quát việc đặt quan chức ở các đời, sự thay đổi tên các quan chức, chức vụ ở các ty, chế độ ban cấp bổng lộc, chế độ bổ dụng quan lại...

Lễ nghi chí: Chế độ áo, mũ, xe kiệu của vua chúa, chế độ phẩm phục, võng kiệu của quan lại, lễ thờ cúng, tang ma, lễ sách phong, tế cáo...

Khoa mục chí: Đại cương về phép thi cử các đời, thể lệ các kỳ thi...

Quốc dụng chí: Việc làm sổ hộ khẩu, phép thu thuế, đánh thuế, chế độ ruộng đất, tiền tệ...

Hình luật chí: Khái quát về việc định luật lệ các đời, các loại luật...

Binh chế chí: Nghiên cứu việc đặt các ngạch quân, phép tuyển chọn quân lính, chế độ lương bổng, quân trang, quân dụng, phép thi võ...

Văn tịch chí: Nói về tình hình sách vở, trước tác của các đời.

Bang giao chí: Chép việc bang giao các đời, nghi lễ đón tiếp sứ thần các nước..

Qua tóm tắt cấu tạo sách "Lịch triều hiến chương loại chí", ta thấy dung lượng thông tin của nó rất lớn.

Đây là một bộ lịch sử văn hiến đồ sộ, một pho bách khoa thư của đất nước. Nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam G.P.Muraseva đánh giá: ""Lịch triều hiến chương loại chí" là một bộ sách xứng đáng được gọi là bộ bách khoa toàn thư về cuộc sống Việt Nam. Công trình này thực tế không có công trình nào sánh nổi về bề rộng của phạm vi các vấn đề trong khoa lịch sử sử học Việt Nam thời phong kiến".

10 bộ môn trong công trình của Phan Huy Chú là 10 lĩnh vực khoa học riêng. Nếu chia theo ngành khoa học, chúng ta thấy tập trung ở Phan Huy Chú: nhà sử học, nhà địa lý học, nhà nghiên cứu pháp luật, nhà nghiên cứu kinh tế, nhà nghiên cứu giáo dục, nhà nghiên cứu quân sự, nhà thư tịch học, nhà phê bình văn học, nhà nghiên cứu văn hóa, sử. Lĩnh vực này Phan Huy Chú cũng tỏ ra uyên bác và có những quan điểm sâu sắc. Với sự phân loại, hệ thống hóa từng bộ môn như thế, "Lịch triều hiến chương loại chí" đánh dấu một bước phát triển cao của thành tựu khoa học nước nhà hồi đầu thế kỷ 19.

Qua "Lịch triều hiến chương loại chí", chúng ta thấy Phan Huy Chú là một nhà bác học có lòng yêu nước thiết tha, có một ý thức dân tộc mạnh mẽ.

Phan Huy Chú là một danh nhân văn hóa đại biểu cho truyền thống khoa học tốt đẹp của đất nước. Ông đã nêu một tấm gương sáng về tinh thần say mê lao động sáng tạo khoa học, cống hiến cho đất nước một công trình học thuật có giá trị to lớn. Với công lao đó, Phan Huy Chú xứng đáng được xếp vào số không nhiều các nhà bác học lớn của Việt Nam thời xưa.