Trong vụ "nạn kiều" trước khi Trung Quốc xua quân đánh Việt Nam năm
1979, phần nhiều bạn đọc thấy ngậm ngùi cho Hoa Kiều bị "sống giữa hai
làn đạn". Tôi xin phép nói ngược, rằng bà con Hoa Kiều ở Việt Nam đã lợi
dụng được cả hai làn đạn đó, và tự chứng tỏ là một cộng đồng cực kỳ
thông minh.
Năm 1979, làn sóng "nạn kiều" gồm hai luồng chính. Ở vùng biên giới là
làn sóng đua nhau về với tổ quốc xã hội chủ nghĩa hùng mạnh, tránh vỏ
dưa gặp vỏ dừa. Còn một làn sóng khác ở các thành thị Việt Nam – với
những "đứa con thân yêu" dẫu sao cũng mở mang hơn những người ở hũ nút
biên giới – thì ngược lại, họ chẳng chịu trở về với núm vú Mẹ hiền đâu!
Họ chèo thuyền đi ngang tổ quốc và sau đó tìm cách định cư tại Mỹ, tại
Canada, tại Úc… và tại những nơi béo bở khác. Thì đấy, có Bắc Hải là một
địa điểm trung chuyển để tiếp tế lương thực dầu mỡ đi tiếp cuộc hành
trình "nạn kiều", Bắc Hải chỉ cách vài ba bước chân là lên được đất Mẹ
thân yêu. Nhưng họ đi tiếp chứ không dừng lại. Sau Bắc Hải, họ vẫn không
rẽ trái lên phương Bắc, mà đi tiếp qua trại tị nạn Hồng Kông chầu chực
có khi vài tháng vài năm ròng chờ được phỏng vấn, và tếch. Sự lựa chọn
thế là quá rõ.
Do gần chục năm liền làm công việc nghiên cứu dạy tiếng Việt cho học
sinh dân tộc thiểu số, nên tôi có điều kiện có mặt ở huyện Xín Mần và
các huyện vùng cao tỉnh Hà Tuyên vào thời buổi "nạn kiều" đó. Có hôm
sáng bảnh mắt ngủ dậy đã nghe tin cả một bản ở sát biên giới đêm trước
êm ái bỏ qua Trung Quốc. Cả ông bí thơ chi bộ Đảng cũng bỏ đi theo, chắc
là để tiếp tục "lãnh đạo toàn diện" dân kiều nạn.
Khi chiến tranh biên giới bùng nổ đầu năm 1979, đề tài dạy tiếng Việt
của tôi phải đóng cửa, hai tác giả cuốn gói về xuôi. Và tôi lại được
chứng kiến cảnh "nạn kiều" ở giữa lòng thủ đô.
Ngôi nhà số 99 phố Hàng Buồm là của bà Hoàng Bảo Liên, chị ruột cùng cha
khác mẹ với vợ tôi. Trước khi lấy vợ, dĩ nhiên tôi không biết gia đình
đó. Trong những thủ tục trước khi cưới, dĩ nhiên tôi phải đến làm quen
với gia đình Chị Cả mà khắp lượt đều gọi bằng Phồ – "Bà" của các cháu,
và con trai con gái cùng dâu rể cũng thay các con gọi "a má" bằng "Bà".
Một dạo Hà Nội cải tạo công thương nghiệp. Gia đình Phồ xung phong vào
hợp tác xã. Nộp từ cái quạt trần nộp đi. Nghĩ bụng, đó là đồ gia dụng,
sao lại tính là công cụ sản xuất? Nộp! Nhà mình ở, nay hợp tác xã bảo
cắt một khúc quây cót ép thành cái buồng cho một ông cán bộ đem vợ con
đến ở, cũng đồng ý. Người ta bảo nộp quạt, nộp nhà, cái lý chưa thông,
nhưng mình thích xung phong nên thành ra thông cái lý! Những khẩu hiệu
học lỏm từ bên kia biên giới hấp dẫn lắm, hứa hẹn lắm! "Lao-Tư lưỡng
lợi". "Công-Tư kiêm cố". Những người dân vừa mới hồ hởi vẫy tay chào các
chiến sĩ giải phóng Thủ đô tin chắc là không bao giờ mình nhầm.
Vài năm sau, Phồ ra góc phố mở hàng chè chén năm xu. Tôi đến uống và
quan sát. Thấy thương Phồ vất vả, cũng thắc thỏm vì thấy Phồ "đi chệch
con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội". Phồ giải thích cho tôi ngắn gọn:
"Nuôi được cả nhà đó chú ạ". Mãi sau này, tôi mới hiểu, cái năm phần
trăm tư nhân ở nông thôn nuôi được cả nhà, thì ở thành phố cũng có cái
năm phần trăm chè chén năm xu của nó. Con gái và con rể Phồ khôn hơn, họ
mở cửa hàng cà phê. "Cửa hàng"? Vâng, cửa hàng! Không có biển báo gì
hết. Ai biết thì lên gác, ở bên phồ Hàng Giầy. Người đi trước rước người
đi sau, cùng nhau leo gác. Cà phê hạt do các ông "giặc lái" đường dài
cung cấp, mang từ Đông Hiếu, Tây Hiếu ra. Toàn loại cà phê cứt chồn,
ngon không thể tả. Rang xay thì anh con rể làm lấy. Anh tên là Lương Côn
Minh, phát âm là Mềnh, hoạt động thể thao cho khu phố, giao thiệp rộng,
chẳng như Phồ chỉ quanh quẩn mấy đứa "con nuôi" làm ở Phòng thuế ngày
ngày uống nước hút thuốc của a-má! Anh Mềnh rang cà phê và có sáng kiến
không hãm bằng nước lã, cũng không hãm bằng nước mắm tốn tiền, anh hãm
bằng dầu hỏa, bốc hơi nhanh, giữ hương vị đậm.
Sau năm 1975, hợp tác xã của những "lao động chính" ấy chỉ còn cái tên.
Họ sống bằng kỹ năng Trời phú cho người Minh Hương: buôn bán và quan hệ.
Vẫn cái quán chè chén, nay nâng cấp lên bán đủ thứ. Cũng vẫn cái quán cà
phê trên gác nay còn cung cấp cà phê rang xay cho anh nào thích nhâm nhi
ở nhà. Và mua bán nhiều thứ, có Giời biết! Mùi cà phê sộc lên mũi, sao
giữ kín được? Có Giời và có các ông "con nuôi" của Phồ biết.
Nhà có thằng cháu nội duy nhất bị mắc nạn. Ba bốn thằng choai choai lôi
một cô gái lai lịch không rõ ràng ra ngoài đê làm chuyện bậy. Công An
bắt được, Tòa xử tội dâm ô tập thể. Gia đình nhờ người cãi, lập luận đó
là quan hệ với gái điếm. Nhưng thế là cãi liều: chế độ xã hội chủ nghĩa
dứt khoát không có tệ nạn đó. Mấy đứa choai choai đi tù ở Nghĩa Lộ.
Trước khi có vụ "nạn kiều", thằng bé được tha về trước thời hạn. Nó tới
thăm tôi, mặt mũi tươi tỉnh, nói năng úp mở "rồi ông trẻ sẽ còn thấy
nhiều chuyện lạ!" Nó lấy đôi giầy da cao cổ bộ đội tôi vẫn đi miền núi,
nay đã há mõm, đem đi khâu lại tươm tất. Hóa ra đó là biểu hiện tình cảm
cuối cùng của nó. Mấy hôm sau, nó biến mất qua ngả Hải Phòng.
Nửa tháng sau, đùng một cái, gia đình Phồ bày bán la liệt các thứ tài
sản, bán từ cái nồi đến cái tủ lạnh, bán từ cái áo nhung cổ lỗ sĩ đến
đôi giầy mô-đéc mua lại được từ người đi học tận Bungari mang về (Liên
Xô không có giầy đẹp thế). Rồi đến ngày tôi cùng gia đình Phồ xuống Hải
Phòng tiễn đưa lần cuối. Phồ bảo tôi "Tháng ba bà già đi biển, chú đừng
lo cho chị với các cháu". Hóa ra, đã có kế hoạch từ A đến hơn là Z! Nay
thì cái tổ ấm cũ ở Hàng Buồm và Hàng Giầy đó chia ra ở hai nơi: Hoa Kỳ
và Canada. Cứ nhìn những lần con cháu về thăm quê hương thì thấy họ cùng
những "nạn kiều" khác thảy đều sung sướng, sang trọng. Thằng bé đi tù và
mù chữ giở ngày xưa, nay khen tôi "tiếng Anh của ông trẻ khá lắm, nhưng
vẫn pha giọng Pháp, tiếc thật!"
Cả nhà hình như có một người bất hạnh. Đó là cháu Trinh, phát theo âm
người Hoa là Chếnh. Cô bé đã học xong Cao đẳng sư phạm Hà Nội. Yêu một
cậu cùng lớp, con một nghệ sĩ điện ảnh cao tuổi chỗ bạn bè với tôi. Khi
chúng chia tay nhau ở Hải Phòng tôi mới biết chuyện hai đứa. Khi đó,
trước khi họ lên đường, cả gia đình đến ở nhờ nhà bạn tôi là hai vợ
chồng cùng làm giáo viên (nay vẫn còn mạnh khỏe và đang sinh sống trong
Sài Gòn). Bạn tôi vốn thích sưu tầm thơ tình, bảo "đúng là hai con chim
cu, thương quá!" Chàng hiệp sĩ sau một hồi chung thủy thì được Chếnh
khuyên nên lấy vợ cho bố mẹ yên lòng. Đàn ông dễ nghe những lời nói dẽ
dàng phải chăng từ cửa miệng những người con gái hết lòng với mình. Còn
Chếnh bây giờ nhiều tuổi lắm rồi, nhưng vẫn không lấy chồng.
Xét ra về đại cục, Hoa Kiều cực kỳ thông mình, họ đi giữa hai làn đạn và
tạo được cái hạnh phúc trên đại cục. Gia đình lớn có vẻ ổn. Còn cá nhân
thì hơi đau. Nhưng biết làm thế nào? Được cả bầy, cũng cần một vài con
lót ổ chứ?
Đăng trên BBC Vietnamese ngày
9/5/2009