Trong tình hình hiện tại rất phức tạp, không
đồng đều và đôi khi tự phát của giáo dục đại học
của nước ta, một cuộc chấn hưng “toàn bộ” có lẽ
khó thực hiện được. Do đó, một trong những kiến
nghị của tôi trong thời gian qua là lập ra một
vài cơ sở công lập hoàn toàn “mới”, cỡ nhỏ để có
sức quản lý cho tốt để làm gương. Đồng thời cứ
để cho các đại học khác tiếp tục tồn tại, dù là
công lập, dân lập hay tư lập, kệ họ phát
triển tốt, hoặc lay lắt, hoặc biến đi, miễn là
đừng đi lệch hướng. Rồi dần dần sẽ tính sau.
Việc lập ra những cơ sở mới bên cạnh những cơ sở
cũ (đang tồn tại nhưng không đáp ứng được hết
những yêu cầu của thời đại) cũng là chuyện đã
xảy ra từ thuở xưa ở nước khác. Thí dụ như ở
Pháp, năm 1530, vua François I cho thành lập
Collège royal (ngày nay gọi là Collège de
France, một cơ sở đào tạo nghiên cứu bậc nhất
của nước Pháp) bởi vì nhà vua có những lý do để
không hài lòng về đại học Sorbonne thuở ấy. Rồi
đến năm 1867 dưới triều hoàng đế Napoléon III,
bộ trưởng Victor Duruy thành lập Ecole Pratique
de Hautes Etudes cũng trở thành một cơ sở đào
tạo nghiên cứu nổi danh ngày nay. Còn nước ta
trong quá khứ, đã có lúc chính các vua chúa cầm
quyền cũng biết là việc học nước ta không được
“ổn”, nhưng có lẽ “hãi” một sự cải cách cho là
quá lớn, nên đâm ra rụt rè không dám thực hiện.
Thí dụ như thế kỉ 19, vua Gia Long tiếp xúc với
phương Tây, có lẽ đã biết rõ tình thế việc học
nước ta thuở đó ; rồi tới vua Minh Mạng, đã có
lời nói với triều thần: “Lâu nay khoa cử làm
cho người ta sai lầm. […]. Học như thế thì trách
nào mà nhân tài chẳng mỗi ngày một kém đi. Song
tập tục đã quen rồi, khó đổi ngay được. […]”
(theo Việt Nam sử lược của Trần Trọng
Kim). Huống chi vua Tự Đức! Do đó, tôi nghĩ rằng
không nên tiến hành cải cách bằng việc đổ ồ ạt
những phương tiện vào những cơ sở cũ, (dù cho có
cài một vài tính cách “cho là mới” vào đó), vì
như vậy là vừa tốn kém vừa ít hiệu quả. Việc lập
ra một cơ sở nhỏ, nhưng hoàn toàn “mới”, mang
tính cách “hoa tiêu”, chính là cách tiến hành
cuộc chấn hưng có hiệu quả, mà không làm cho các
thành phần liên quan bị “hãi”. Bây giờ tôi xin
nói, theo ý tôi, thế nào là một cơ sở “mới”:
1/ Đó là một đại học (công lập) “mới”
không có qui mô lớn (có thể lúc đầu chỉ vài trăm
sinh viên), nhưng chất lượng phải tương xứng,
nghĩa là phải được cung cấp những phương tiện
mọi mặt, (kể cả việc sinh viên được miễn học
phí, có học bổng, được có chỗ ăn ở đàng hoàng),
vv... “Mới” không có nghĩa là phải xây
trưòng sở mới, phương tiện sang trọng, vv., mà
có nghĩa là: tuyển lại thày “mới” (theo
nghĩa rộng: chuyển từ nơi khác sang hay tuyển
người mới vào nghề), tuyển trò“mới”, theo
một mô hình “mới”.
2/ Mô hình đại học “mới” đó, nên là
3+2+3, nghĩa là gồm 3 cấp (tương ứng với 3 “đầu
ra”, cần phù hợp với thị trường lao
động):
- Cao đẳng - cử nhân : đầu ra là tú tài +3 (hay
+4 nếu phải “bổ túc” sinh viên vì trình độ học ở
trung học yếu).
- Thạc sỹ - kỹ sư: đầu ra là tú tài +5.
- Tiến sỹ : đầu ra là tú tài +8.
Tôi ở xa nên không rõ thực
tế trong nước về các trường Cao đẳng. Nhưng tôi
nghĩ rằng sẽ thất sách, nếu như qui định ngay từ
đầu rằng có một hệ cho sinh viên « kém » (học
ngắn) và một hệ cho sinh viên « giỏi » (học
dài), bởi vì như vậy thì các trường cao đẳng có
thể bị « rỗng », nước nhà sẽ tiếp tục thiếu « kỹ
thuật viên » trung gian giữa
công nhân và kỹ sư, cũng như tiếp tục thiếu
những chuyên viên hạng trung gian trong các
ngành khác, vv. Sự lựa chọn cho học tiếp lên cao
hay không, chỉ nên thực hiện khi đã học hết
cấp. (Cử
nhân giỏi, có khả năng học tiếp, thì mới cho ghi
tên học Thạc sỹ , vv.). Theo nghĩa đại học
“mới” này, cao đẳng là chặng đầu cho
bất cứ sinh viên nào, bất cứ ngành nào. (Về Y,
Dược, Nha thì tùy tình hình mà châm chước).
3/ Trong mô hình đại học “mới”
đó,
Cấp Cao đẳng :
2 năm đầu cấp dành cho học « cơ bản » chung theo
một số ngành, năm thứ ba thì tách (tỏa ra) học
chuyên môn nghề.
Cấp Thạc sỹ :
năm đầu học cơ bản cấp cao, năm thứ nhì làm « đề
án chuyên nghiệp », (không nên lẫn với nghiên
cứu và phát minh ra cái mới).
Cấp Tiến sỹ :
chủ yếu là nghiên cứu cái mới, song song với
việc bổ túc hiểu biết qua các xê-mi-na (không
còn việc học thi, trả bài nữa). Cấp này bao gồm
đào tạo và nghiên cứu gắn liền với nhau, chính
là cái cấp « đào tạo qua nghiên cứu ».
Quan trọng không phải ở số năm học (cho nên
không nhất thiết phải hoàn toàn đúng số năm
nhưnói trên), mà là ở hướng tổ chức và tinh thần
học tập. Mô hình 3+2+3 hiện đang đưa vào áp dụng
ở Tây Âu, mang tính liên thông trong cộng đồng
này, đồng thời tương ứng với cách tổ chức đại
học kiểu Mỹ.
4/
Đại học “mới” này, nên là đại học đa
khoa. (Tôi không dám dùng chữ “đại học tổng
hợp”, vì quá khứ, tên dùng này trót bị hiểu theo
một nghĩa « không đẹp », có thể do bị hiểu lầm :
cho cảm tưởng là tuy nhiều khoa nhưng “song
song” chứ không “kết hợp”, dù cho là khoa học tự
nhiên, khoa học kỹ thuật hay khoa học xã hội,
nhân văn vv. Đa khoa đây nên hiểu theo nghĩa
rộng (đại học “bách khoa » có thể hiểu là đa
khoa theo nghĩa này; trái lại “sư phạm”, hoặc
“ngoại ngữ” vv. không phải là đa khoa theo
nghĩa này, vv.).
Đã là một kiến nghị, tất nhiên có thể gặp sự
đồng ý, cũng như có thể gặp sự phản bác (tôi vui
lòng chấp nhận việc này nếu như có giải pháp tốt
hơn được nêu ra). Điều đáng lo ngại nhất là sự
không có giải pháp thay đổi, trong khi tình hình
giáo dục đại học nói chung đang không sáng sủa.