Nói « vấn đề con người là quan trọng », thì ai cũng
nói ; nhưng hình như nói vậy thôi, chứ cũng không
mấy ai chịu bỏ công giải thích cách phân tích của
mình, hoặc kiên nhẫn một chút để lắng nghe người
khác; đôi khi lại có ý cho là lời bàn phù phiếm. Vậy
tôi lại cố, một lần nữa, nêu vấn đề đội ngũ
nhà giáo đại học, khởi thủy của nhiều vấn đề
của nền giáo dục nói chung, bởi vì có thầy giỏi thì
mới có trò giỏi, có một nền đại học tốt, thì mới có
nền trung học tốt và nền tiểu học tốt, và trong đời
sống hàng ngày của một xã hội, trong mọi guồng máy
của một nước, con người hay hay dở cũng ở nhà trường
mà ra.
Lý luận dài dòng, không bằng nêu vài điểm cụ thể :
1. Trước
tiên là sự quan niệm « không đúng » về vai trò của
giáo sư đại học.
Đó là một chức vụ,
gắn liền với một cơ sở đại học, gồm nhiệm vụ giảng
dạy, nghiên cứu, hướng dẫn nghiên cứu và điều hành
các công việc khoa học liên quan đến chuyên môn của
một ngành, một bộ môn. Trong một xã hội trên đà phát
triển, nhu cầu cần giải đáp các vấn đề mới nảy sinh,
buộc phải có việc nghiên cứu và « đào tạo qua nghiên
cứu ». Cũng vì thế mà người giáo sư đại học phải
đồng thời là nhà nghiên cứu. Chức vụ là như vậy, nó
gắn với nhu cầu của xã hội. Cho nên quan niệm giáo
sư đại học như là một « hàm » hay một « danh hiệu »
cao quí mà Nhà nước phong thưởng cho những
cá nhân xuất sắc vì những công trình cá nhân của họ,
là một quan niệm không có cơ sở khoa học. Tôi đã
phát biểu nhiều lần trong quá khứ mà không được
chú ý. May mắn mới đây, ông Lê Văn Giạng, nguyên thứ
trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, có
viết một bài báo, đăng trên báo Tiên Phong
chủ nhật, số 48 ra ngày 28-11-2004, trong đó ông đã
giải thích cặn kẽ sự khác biệt giữa « chức vụ » và
« danh hiệu », lợi hại như thế nào, và cho phép tôi
được dẫn toàn văn tài liệu này. Ông là người cũ của
Bộ, quen với ngôn ngữ và phong tục tập quán, tôi
nghĩ rằng ông giải thích đã quá rõ, vậy tôi xin
không nói thêm về điểm này, mà xin mời độc giả xem
tài liệu đó dưới đây.
2. Câu
hỏi: « Ở ta, có quá nhiều GS, PGS không ? », cần
được xác định thì câu trả lời mới có thể đúng. Nếu
giáo sư đại học là một « hàm » hay một « danh hiệu
», thì ở ta quá nhiều GS (và PGS), và ở các
nước khác không hề có. Nếu giáo sư đại học là một
«chức vụ », thì ở ta quá ít. Nhắc lại một thí
dụ so sánh : ở Pháp số giáo sư đại học (professeurs
des universités) hiện nay là 19655, và số
maîtres de conférences (một danh hiệu khó dịch ra
tiếng Việt, vì bằng cấp tối thiểu là tiến sĩ và lý
lịch khoa học tương đối cao) là 35301, tổng
cộng là 54956 nhà giáo đại học cơ hữu,
không kể các phụ giảng viên cơ hữu hay giảng
viên theo hợp đồng có bằng tiến sĩ hay không, giáo
viên thỉnh giảng, các nghiên cứu viên thấp hay cao
như loại directeurs de recherche CNRS tham gia giảng
dạy một số giờ, cũng không kể các nhà giáo của hệ tư
lập.
3. Nếu
may
mắn
mà chính quyền ta chấp nhận quan niệm giáo sư đại
học như một «chức vụ », như thông lệ quốc tế, thì
đội ngũ nhà giáo đại học nên như thế nào ? Tôi không
có ý bênh vực cách làm hoàn toàn giống như ở Pháp
hiện nay, mà nghĩ rằng nên chọn những cái hay của
Pháp và những cái hay của Mỹ, để mà áp dụng cho ta.
Nghĩa là :
a) Trong
hệ thống công lập cũng như tư lập, nên chỉ có một
« đoàn » (corps) giáo sư đại học, với chức vụ định
nghĩa ở điểm 1, làm nhà giáo cơ hữu của các trường
đại học với nhiều bậc thang lương. Cùng bất đắc
dĩ thì cũng chỉ nên chia làm hai hạng giáo sư
đại học (cùng một nhiệm vụ, và quyền lực như nhau),
chỉ khác nhau về « mới vào chức vụ giáo sư » hay
« đã có kinh nghiệm dày dạn trong chức vụ giáo sư »
(tuy lý do « non » hay « dày dạn » trong chức vụ này
là lý do rất là khiên cưỡng, có chăng là lý do tài
chính). Đó là cách làm kiểu Mỹ, tuy họ có 3 hạng
giáo sư với nhiệm vụ như nhau (full professor,
associate professor và assistant professor).
Không nên theo kiểu Pháp hiện nay, với hai
« đoàn » (corps) nhà giáo đại học, với nhiệm vụ khác
nhau (professeurs des universités và maîtres de
conférences, dựa trên 2 lý do: truyền thống tôn ti
trật tự và tài chính, chứ không có lý do khoa học
vững chắc). Đề nghị ở ta bỏ tên gọi « phó
giáo sư » vì loại nhà giáo này không làm « phó » cho
các giáo sư.
b) Trong
hệ thống đại học công lập, việc tuyển chọn
giáo sư đại học nên tiến hành theo 2 « vòng » (giống
như kiểu Pháp): « vòng 1» qua hội đồng khoa học toàn
quốc khẳng định đủ trình độ làm ứng viên vào chức vụ
giáo sư đại học; « vòng 2 » do hội đồng khoa học
trường đại học bàu chọn. Lý do là vì khi đã được bàu
chọn vào một chỗ làm-chức vụ giáo sư của một đại học
công lập, đương sự vào biên chế, trở thành công chức
của Nhà nước, do Nhà nước quản lý hoàn toàn, nên
phải có sự đồng đều.
Trong hệ thống đại học tư lập, nên để các đại
học tư lập tự tuyển chọn (giống kiểu Mỹ), kệ họ «
giữ giá trị» của trường họ, để cạnh tranh tùy ý.
c) Nên
qui định bằng cấp tối thiểu để trở thành giáo sư đại
học (công hay tư) phải là học vị tiến sĩ. Do
đó, không còn lý do để tôn xưng giáo sĩ tiến sĩ,vv.
nữa. Không nên đi theo « vết xe đổ » của quá khứ.
Hồi 1975, khi kiến nghị lập lại chức vụ-danh hiệu
giáo sư đại học, tôi đã thiết tha mong mỏi các vị
xứng đáng được bổ nhiệm vào chức vụ này (vì công
trình nghiên cứu và học lực) được tổ chức công nhận
học vị tiến sĩ trước đã. (Thuở ấy, trong nước cũng
có vài người có đủ học vị để lập nên ban giám khảo).
Việc không tiến hành như vậy đã để lại những hậu
quả, gây ra tình trạng bất ổn, nếu không nói là xung
đột, giữa vài trường hợp có học vị nhưng không có
thực lực, và những trường hợp có thực lực nhưng
thiếu học vị. Riêng tôi ngày nay, khi phát biểu điều
gì với trong nước, cảm thấy buộc phải ghi học vị,
một sự bất đắc dĩ không lấy gì làm vui sướng cả
d) Ngoài
« đoàn giáo sư » làm nhà giáo cơ hữu cho đại học,
chỉ nên có những giảng viên theo hợp đồng, giáo viên
thỉnh giảng, tham gia giảng dạy một số giờ. Lý do là
vì những nhà giáo nào, sau một số năm làm việc, mà
không phù hợp với chức năng ở đại học, thí dụ như
không có công trình nghiên cứu, không hoàn thành được
xong luận án tiến sĩ, thì nên được
đổi công tác; chứ nếu đã vào biên chế rồi, thì không
thể giải quyết được nữa. Đó là kinh nghiệm đã thấy ở
Pháp với « đoàn phụ giảng viên (corps des
assistants), trót trong biên chế », tuy đã thôi
không tuyển từ hơn 20 năm, đến nay vẫn chưa chấm dứt
tàn dư. Chất lượng giảng dạy đại học có những giá
phải trả, là như thế.
4. Quan
niệm về giáo sư đại học, như đã nói trên (giảng dạy
và nghiên cứu) gắn liền với cách tổ chức đại học.
Việc tách rời các viện nghiên cứu cơ bản ra khỏi các
đại học (theo kiểu Liên Xô cũ mà các nhược điểm đã
được thấy rõ) là điều bất cập, tàn dư hiện còn tồn
tại ở ta. Ngược lại, thí dụ của các đại học
nghiêm chỉnh của Mỹ cho thấy rất rõ hiệu quả của
họ như thế nào, không chỉ vì phương tiện, mà còn vì
quan niệm của họ về cách tổ chức đại học và về vai
trò giáo sư đại học. Sự tồn tại ở Pháp của một Trung
tâm quốc gia về nghiên cứu khoa học (CNRS) - vì lý
do lịch sử ở một giai đoạn, và mặc dù phần lớn các
phòng nghiên cứu trực thuộc và nằm ngay trong các
đại học - không phải là một gương đáng theo. Cũng đã
có những tiếng nói yêu cầu giải thể. Nghe nói có dự
án sắp tới sẽ dẹp khoảng 40% các phòng nghiên cứu
của CNRS. Cũng đã có một vài biện pháp làm lệch chút
đỉnh sự « tương đương » giữa các giáo sư đại học và
các directeurs de recherche thuộc CNRS nói trên, thí
dụ như theo qui chế hiện hành, tuổi nghỉ hưu là 65
tuổi, nhưng có ngoại lệ cho các giáo sư đại học, nếu
muốn, được quyền tiếp tục ở tại chức vụ cho đến 68
tuổi, (và nếu chưa hoàn toàn đúng 68 tuổi vào thời
điểm khai trường, thì có thể tiếp tục cho đến hết
niên học, tức là 69 tuổi), quyền mà các directeurs
de recherche không được hưởng như trước kia nữa.
Không kể đến việc bảo vệ luận án tiến sĩ, dù nghiên
cứu sinh làm luận án dưới sự hướng dẫn của một
directeur de recherche ở CNRS, cũng phải đưa bảo vệ
ở một trường đại học. Ở đây, tôi không hề mảy
may có ý phân bì cao thấp, tôi chỉ nêu thí dụ để
thấy là ý định giải thể CNRS là có cơ sở thực, chứ
không phải lời bàn vu vơ ; việc này chưa thực hiện
là vì có những sự phản đổi rất kịch liệt, không phải
thuần túy vì lý do khoa học. [Nhắc lại là trong tài
liệu dẫn dưới đây, ông Lê Văn Giạng có nêu việc dịch
tên gọi cấp bậc directeur de recherche này ra tiếng
Việt: có người dịch là « giám đốc nghiên cứu » ; ông
Lê Văn Giạng đặt câu hỏi dịch là « chủ nhiệm nghiên
cứu », có lẽ đúng nghĩa hơn ? Kỳ thật ra, ở ta hiện
nay trong nước hay một số đương sự, đều gọi hay tự
gọi là « giáo sư, giáo sư tiến sĩ », kể cả người đã
về hưu. Và đôi khi có người lại hiểu lầm cấp bậc này
là giám đốc « của » CNRS. Cũng xin nói thêm là hình
như tôi là trường hợp « hiếm », đã dùng chữ « nguyên
[giáo sư đại học Paris] » khi cần chứng tỏ kinh
nghiệm nghề nghiệp trong quá khứ - vì tôi đã về hưu
từ hơn 1 năm nay và vì tôi coi giáo sư là một « chức
vụ » ; ngoài ra có nhà báo tưởng rằng cần « chính
xác hoá » bằng cách ghi thêm con số của đại học
Paris trong trường hợp của tôi, cũng là thừa : tôi
được bàu và bổ nhiệm giáo sư thời Đại học Paris
(Université de Paris) còn là một khối; khoảng hai
năm sau khi tôi nhậm chức mới chia ra làm 13 đại học
đa khoa kết hợp (universités pluridisciplinaires).
5. Vì
xã hội ta có truyền thống quá trọng vọng danh hiệu,
có một luồng dư luận cho rằng một phần đội ngũ quản
lý giáo dục cũng do danh hiệu mà được trao trọng
trách, chứ không phải vì có kinh nghiệm quản lý dày
dặn và vì có tầm nhìn chiến lược. Phải chăng vì thế
mà lý luận một thời bị tập trung vào cấp bậc, ngôi
thứ cao thấp, mà bỏ quên những khía cạnh khác
của vấn đề. Thí dụ như sự duy trì cách tổ chức hệ
thống các trường đại học, phần
lớn
quan niệm như những trường dạy nghề cao cấp, tuyển
sinh quá sớm (ở mức tú tài), học cơ bản chưa đủ đã
chuyên vào học kỹ thuật nghề nghiệp, cho nên vào đời
lao động khó cập nhật, khó đáp ứng được với nhu cầu
của thị trường luôn luôn thay đổi trong một
khung cảnh toàn cầu hóa, ảnh hưởng đến công nghiệp,
nông nghiệp, doanh nghiệp … nói chung. Đặc biệt cũng
có thể kể tới hệ thống đại học sư phạm tách rời
thành một khối riêng biệt, chú trọng nhiều đến những
phương pháp giảng dạy trong khi nội dung hiểu biết
lại chưa
tương xứng, ảnh hưởng rất nhiều đến nền giáo dục
trung học, tiểu học. Đó là những điều bất cập, lẽ ra
phải mau chóng có quyết định thay đổi, bởi vì từ lúc
có quyết định đến khi thay đổi xong hoàn toàn, có
khi cũng phải kéo dài mấy chục năm.
6. Nhiều
điều còn lại cũng phụ thuộc vào vấn đề nhà giáo, thí
dụ như câu hỏi « GD có là hàng hóa không?» cho thấy
rằng « cầu » thì có nhưng
lấy đội ngũ nhà giáo đại học nào để « cung », để
chất lượng vẫn được bảo đảm? Không lẽ một mặt thì
muốn thỏa mãn đòi hỏi của một phần xã hội « muốn có
bằng cấp », đồng thời mặt khác lại muốn thỏa mãn đòi
hỏi của một phần khác của xã hội muốn « việc học
hành phải có chất lượng », mà lại không thấy rằng
« vấn đề đội ngũ nhà giáo » cần được cấp bách giải
đáp ? Hô khẩu hiệu thì dễ, nhưng xác định từ ngữ sử
dụng thì khó, bởi vì đằng sau từ ngữ là những khái
niệm, khi đã sáng tỏ rồi liệu có đúng như mình
« muốn » hô nữa không ? Thế nào là « xã hội hóa »
giáo dục đào tạo ?
Ở những nước khác, khi
các
thành phần của xã hội ngoài chính quyền (phụ huynh
học sinh, giới doanh nghiệp, công đoàn,…) « tham
gia » vào vấn đề giáo dục đào tạo, thì là để nói lên
những yêu cầu làm lợi ích chung cho xã hội, chứ
không phải là để chuyển gánh nặng tài chính mà Nhà
nước « nhường » lên vai người công dân (phải trả học
phí nặng, phải cung đốn đủ thứ nhu cầu, từ trường sở
cho đến trang thiết bị, sách giáo khoa, vv.). Thiết
tưởng Nhà nước xã hội chủ nghĩa ngày nay và Nhà nước
quân chủ chuyên chế ngày xưa, khác nhau một phần
cũng ở cái chuyện sưu thuế… Thế nào « quyền tự quản
của đại học » ? Người thì nói là để tránh được những
qui định quá chặt chẽ và đôi khi phi lý của Bộ GDĐT,
người thì nói là để dễ có những phương tiện sinh
hoạt mà lẽ ra Nhà nước (qua Bộ) cần cung cấp cho ;
vậy là tự quản về chương trình, bằng cấp, hay tiền
bạc, lương bổng nhà giáo ? Ở các nước trên thế giới,
kể cả Hoa Kỳ, GDĐT thường được coi là những hoạt
động vô vị lợi, nhưng ở các nước này, có những nhà
hảo tâm (mécène) giàu có, trợ giúp tiền bạc không
hoàn lại ; còn ở ta liệu có tư nhân nào đủ giàu và
có ý muốn trợ giúp tiền không hoàn lại hay không ?
Thế nào là « đổi mới tư duy » ? Thế là « đổi cách
học, cách dạy » ? Người thì nói việc dạy quá tải,
người thì chủ trương giáo sư đại học không lên lớp
giảng bài ; nhưng vai trò người thày giỏi phải chăng
là chắt lọc ra được những sự hiểu biết cần thiết và
tinh túy đã tích lũy của thiên hạ để chuyển giao một
cách gọn ghẽ cho sinh viên học sinh, tiết kiệm thời
giờ để họ (sinh viên học sinh) có thì giờ nghiền
ngẫm và tự tìm hiểu thêm ? Thế nào là « chất
lượng của nhà giáo đại học » ? Hình như đâu đó có sự
lẫn lộn giữa sự « nên » có và sự « phải » có. Thí dụ
như tiếng Anh và sử
dụng máy vi tính là những
phương tiện mà một nhà giáo « nên » có để hành nghề
cho tốt, chúng không phải là điều kiện « phải » có,
để đưa vào tiêu chuẩn của nhà giáo trong bất cứ
ngành nào. Chẳng hạn với một nhà nghiên cứu về văn
hóa cổ như văn hóa Chăm ở Việt Nam, công trình
nghiên cứu nghiêm túc tại chỗ mới là đáng kể, nếu
cần sử dụng máy vi tính thì cũng có thể sử dụng cộng
tác viên, tiếng Anh dùng để giao thiệp cũng có thể
dùng phiên dịch, đâu có phải là những tiêu chí tuyển
bổ. Cho nên, hãy nên bắt đầu bằng nhìn lại vấn đề
nhà giáo đại học, quan niệm chức vụ của họ là gì,
trước khi bàn về vai vế cao thấp, đánh giá theo số
lượng công trình theo kiểu này hay theo kiểu kia,
vv. Rồi sau đó hãy bàn đến các vế khác trong việc
cải cách.
Nói tóm tắt như vậy, nhưng
tôi đã trình bày những
lý luận chi tiết liên tục từ nhiều năm nay - kể cả
giải pháp cụ thể qua việc thành lập một vài "đại học
hoa tiêu", để tránh sự xáo trộn - qua các thư kiến
nghị, các bài báo và cuốn sách « Chung quanh việc
Học », nxb Thanh Niên 2004. Tôi không có ý chê
bai. Nếu có ai đang mãn nguyện với những thành tựu
của nền GDĐT của nước nhà hiện nay, thì tôi chỉ xin
nói thêm : nếu sửa được những điều bất cập nói trên
thì nền GDĐT của nước nhà lại càng tốt đẹp hơn nữa,
có gì đáng ngần ngại đâu.
Tài
liệu dẫn:
Bài đăng trên báo Tiên Phong chủ nhật, số 48 ra ngày
28-11-2004
Tác giả là ông Lê Văn Giạng, nguyên thứ trưởng Bộ
Đại học và
Trung học chuyên nghiệp.
Giáo
sư và Phó giáo sư là một « chức vụ »,
không phải là một danh hiệu.
Phải chăng
chúng ta đã hiểu không đúng về
danh hiệu GS và PGS ?
Lê Văn Giạng
Mươi năm gần đây, trên báo chí thường có ý kiến lo
lắng, bức xúc về thực chất của một tỷ lệ đáng kể (có
người cho là trên 30%) trong đội ngũ GS và PGS nước
ta. Nhưng nên sửa đổi cách bầu cử, lựa chọn các chức
danh đó như thế nào thì chỉ mới có vài nhà khoa học
đề xuất, trong đó có một nhà toán học Việt kiều,
giáo sư tại Đại học Paris, ông Bùi Trọng Liễu có
những kiến nghị rõ ràng và cụ thể nhất
[i].
Tôi có tìm hiểu thêm một số tài liệu nước ngoài về
vấn đề nói trên và thấy có những ý kiến của GS Bùi
Trọng Liễu là rất xác đáng, cần được tiếp thu. Nhưng
hình như dư luận ở nước ta, nhất là trong các cơ
quan có trách nhiệm, chưa chú ý đúng mức đến thực
chất các ý kiến đó nên tôi xin nhắc lại dưới đây
vắn tắt nội dung chính các kiến nghị của GS Bùi
Trọng Liễu (theo tôi hiểu được) và nhấn mạnh vài
điểm để mong các kiến nghị của GS Bùi Trọng Liễu
được tham khảo đầy đủ trong việc cải cách cần thiết
về bầu cử các chức danh GS và PGS, coi đó như là một
trong các biện pháp lớn để nâng cao chất lượng đại
học của chúng ta.
1. Trước
hết và cơ bản nhất,
cần quan niệm rõ ràng các chức danh GS và PGS là một
chức vụ giảng dạy ở đại học chứ không phải là
một danh hiệu để tôn vinh, công nhận trình độ
và thành tích của nhà khoa học nói chung hay nhà
giáo ở đại học nói riêng.
a)
Vậy chức vụ khác danh
hiệu ra sao ?
Người được bổ nhiệm vào một chức vụ thì bao
giờ cũng làm một công việc mới mà trước khi được bổ
nhiệm họ chưa làm (trừ khi được tái bổ nhiệm), thí
dụ bổ nhiệm làm bộ trưởng, làm vụ trưởng, làm chủ
tịch vv.
Người
được công nhận một danh hiệu để tôn vinh thì
không nhất thiết sẽ thay đổi công việc đang làm :
thí dụ danh hiệu tiến sĩ, nhà giáo nhân dân, nhà
giáo ưu tú, anh hùng lao động, vv.
Vì thế, chức vụ bao giờ cũng gắn với một tổ chức,
một nhiệm sở xác định như Bộ trưởng là Bộ
trưởng Bộ Giáo dục hay Bộ Thủy sản vv…, Chủ tịch thì
là Chủ tịch tỉnh X hay quận Y vv…không có chức vụ bộ
trưởng hay chủ tịch chung chung. Cũng vì thế, ở mỗi
chức vụ cụ thể, chỉ có thể bổ nhiệm một người,
khi vì lý do nào đó phải thay thì mới bổ nhiệm người
khác (không kể chức vụ phó). Một danh hiệu thì có
thể phong, tặng, công nhận cho nhiều người có
đủ tiêu chuẩn như tiến sĩ, nhà giáo nhân dân vv…
Cũng vì vậy, chức vụ không phải là suốt đời,
người nào khi nào làm chức vụ bộ trưởng thì mới gọi
là bộ trưởng, thôi không làm nữa thì thôi không gọi
như vậy (trừ khi còn thì gọi là nguyên
bộ trưởng nếu còn sống, cố bộ trưởng nếu đã chết).
Trái lại danh hiệu khi được phong, được
công nhận thì là suốt đời, trừ những trường
hợp quá đáng mới bị tước bỏ (các danh hiệu
còn có thể được
truy tặng cho những người đã chết, không có chuyện
truy tặng chức vụ).
b) Căn
cứ vào những khác nhau đó, rõ ràng là lâu nay ta
luôn luôn coi GS và PGS là các danh hiệu danh dự
chứ không phải là một chức vụ (dù ta gọi đó là phong
hàm hay là công nhận chức danh, thực chất vẫn là
danh hiệu danh dự). Như vậy ta đã hoàn toàn làm khác
tập quán các trường đại học trên thế giới, vì ta đã
hiểu sai và làm sai, chứ không phải đó là một sáng
kiến độc đáo của Việt Nam ta.
c) Vậy
nội dung các chức vụ GS và PGS là gì ?
Mỗi trường đại học có một số ngành học. Sinh viên
mỗi ngành phải học một số môn học (khoảng một chục
môn). Trong các môn đó, có các môn chủ đạo và các
môn phụ trợ, môn chủ đạo của ngành này lại có thể là
môn phụ trợ ở ngành khác ; thí dụ môn thực vật học
là một môn chủ đạo ở ngành trồng trọt nhưng
lại là môn phụ trợ ở ngành chăn nuôi, vv…
Ở
các trường đại học, các môn chủ đạo – để có chất
lượng giảng dạy cao – đòi hỏi phải kết hợp với
nghiên cứu khoa học và thường là có tổ chức bậc
nghiên cứu sinh. Vì thế mỗi môn chủ đạo phải có một
người
đủ trình độ đảm đương chức vụ giảng dạy (kết
hợp việc nghiên cứu) : đó chính là chức vụ GS và PGS
(coi như 2 bậc về trình độ trong một chức vụ, chứ
không phải PGS là làm phó cho GS).
d) Ở
bài viết này, để khỏi quá dài, tôi không nói về lý
do tại sao chúng ta đã hiểu sai, làm sai về chức vụ
GS và PGS. Tôi chỉ muốn nói về 2 cái hại lớn của
việc hiểu sai và làm sai đó.
Một là : cách bầu cử và công nhận GS và PGS như lâu
nay ta vẫn làm là không có tác dụng nâng cao chất
lượng giảng dạy và nghiên cứu ở các trường đại học,
vì người được phong, được
công nhận các danh hiệu GS hay PGS trước đó làm gì
và làm như thế nào, thì sau vẫn tiếp tục làm các
công việc đó như cũ (có khi còn thôi không làm gì
nữa liên quan đến giảng dạy đại học) do việc bầu cử
không đặt
ra cho họ một nhiệm vụ gì mới nào đối với giảng dạy
ở đại học.
Hai là : Coi GS và PGS là các danh hiệu danh dự làm
tăng lên không cần thiết các danh hiệu danh dự đã
có. Không có nước nào trên thế giới đã lạm phát
danh hiệu GS và PGS coi như một danh hiệu danh dự
như ở ta, tạo ra một sự chen đua tìm kiếm các danh
hiệu ấy
[ii],
trong khi các chức vụ GS và PGS đúng với
nghĩa đó lại rất thiếu.
2. Từ
việc quan niệm khác nhau về cơ bản giữa chức danh GS
và PGS là chức vụ giảng dạy ở đại học (đây là quan
niệm đúng) với coi cái chức danh đó là danh hiệu
danh dự (đang là quan niệm sai mà ta đã và đang
thực hiện) sẽ kéo theo một sự thay đổi lớn trong
cách bầu cử và công nhận GS và PGS.
a) Đã
là chức vụ phải gắn với một nhiệm sở xác định, cho
nên không thể có GS, PGS chung chung mà phải là GS,
PGS về một bộ môn khoa học chủ đạo ở một trường
đại học cụ thể, xác định (về các viện nghiên
cứu, tôi sẽ nói ở dưới). Và theo tập quán quốc tế,
các chức vụ giảng dạy đại học (cũng như học vị) khoa
học cao đều phải do một tập thể các nhà khoa học có
trình độ tương đương hay cao hơn làm việc ở bộ
môn đó tại trường đại học đó bầu ra (nếu bộ môn
đó tại trường đó không có đủ người có trình độ cần
thiết thì sẽ mời thêm các người có trình độ như vậy
ở ngoài trường tham gia vào hội đồng bầu chọn). Như
vậy, không có GS và PGS mà lại không do một
trường đại học nào đó bầu ra. Đây là khâu
không thể thiếu trong việc bầu cử GS và PGS.
b) Còn có các khâu khác nữa không ?
Ở
Hoa Kỳ, nơi mà Nhà nước tham gia rất ít vào việc
quản lý các trường đại học, hầu như mọi việc trong
trường đều do trường đó tự giải quyết (vì vậy các
trường đại học ở Hoa Kỳ rất khác nhau về trình độ,
không thành một hệ thống có những quy chế giống
nhau), khâu bầu cử GS và PGS là khâu duy nhất trong
việc bổ nhiệm các chức vụ tại trường đó. Còn ở hầu
hết các nước khác trên thế giới, nhà nước đều có
trách nhiệm quản lý các trường đại học, với một sự
phân cấp nào đó cho các trường, phân cấp khác nhau
tùy từng nước, nhưng vẫn dưới sự quản lý của nhà
nước. Như ở Pháp, Nhà nước hiện nay giữ thêm 3 khâu
dưới đây trong việc bầu cử và bổ nhiệm GS và PGS
[iii]:
- Nhà
nước (thông qua Bộ Giáo dục có các hội đồng khoa học
làm tư vấn) xác định mỗi năm, trường đại học nào
được bầu GS và PGS về những môn nào.
- Nhà
nước (cũng thông qua Bộ Giáo dục) căn cứ vào đơn xin
ứng
cử, mỗi năm xác định danh sách những người đủ tiêu
chuẩn được ứng cử vào chức vụ GS, PGS về những môn
nhất định. Những người này sẽ có quyền được ứng cử
vào bất cứ trường đại học nào có yêu cầu chọn GS hay
PGS về những môn đó (nếu được bầu ở nhiều trường,
người đó phải chọn nhận chức vụ chỉ ở một trường).
- Kết
quả bầu cử của các trường đại học phải được
Nhà nước (thông qua Bộ Giáo dục) chấp nhận và do Nhà
nước ra văn bản chính thức bổ nhiệm (ở Pháp là do
Tổng thống bổ nhiệm).
Cách làm như trên của Pháp vừa bảo đảm quyền của các
trường đại học được bầu ra GS và PGS của trường
mình, vừa bảo đảm chất lượng và trình độ tương đương
của các chức vụ đó giữa các trường đại học trong cả
nước.
Về tiêu chuẩn
ứng
cử và lựa chọn, nên chú ý là không đặt vấn đề phải
thâm niên giảng dạy ở đại học, cũng như không đòi
hỏi phải là người thuộc biên chế các trường đại học
(nhưng nếu được
bầu thì sẽ thuộc biên chế của trường).
Nên tham khảo kinh nghiệm của Pháp vì rất phù hợp
với thực
tế của ta. Pháp đã ban hành rất đầy đủ các văn bản
nhà nước về vấn đề này, đó đều là những tài liệu
công khai nên ta có thể dễ dàng tìm hiểu (qua sứ
quán Pháp ở Hà Nội, hoặc sứ quán Việt Nam ở Paris,
có thể cả trên Internet, không cần phải cử đoàn sang
Pháp khảo sát).
3. Cuối
cùng có một thực tế của ta cần làm rõ :
Lâu nay ta vẫn phong chức danh GS, PGS cho những nhà
khoa học công tác trong các viện nghiên cứu. Nếu
viện đó đồng thời là một cơ sở đào tạo nghiên cứu
sinh thì ở cơ sở đó cũng đặt ra chức vụ GS và PGS và
việc
ứng
cử, bầu cử cũng theo quy chế chung với các trường
đại học. Nếu viện đó không có đào tạo nghiên cứu
sinh thì không thuộc diện được
bầu cử chức vụ GS, PGS : trường hợp này cũng giống
như trường hợp các cơ quan và tổ chức có nhiều tính
chất khoa học như Bộ Giáo dục, Bộ Khoa học, Tổng
Công ty Điện lực,
Tổng Công ty Bưu chính viễn thông, vv… Không nên
tiếp tục « phong học hàm » hay « công nhận chức
danh » GS và PGS cho những
nhà khoa học ở nơi đó, dù đó là những nhà khoa học
rất giỏi, rất uy tín (trừ khi các nhà khoa học đó
muốn đổi công tác để
ứng
cử vào chức vụ GS, PGS ở một trường đại học nào đó).
Lý do đơn giản là, như ở điểm 1 và 2 đã nói, GS và
PGS là những chức vụ giảng dạy ở đại học chứ
không phải là những danh hiệu danh dự về khoa học.
Nếu ở các nơi đó có những chức vụ khoa học mà các
chức vụ hiện có chưa đủ để xác định thì nên đề nghị
đặt thêm các chức vụ tổng công trình sư, kỹ sư
trưởng vv… Ở Pháp, tại các viện nghiên cứu lớn, tầm
cỡ quốc gia, có đặt chức « directeur de recherche »
[iv] về
vị trí tương đương với chức vụ GS trong ngạch
lương.
Chú ý là chế độ chức vụ GS, PGS như đã nói trên
không ảnh hưởng gì đến chế độ giảng viên thỉnh giảng
ở các trường đại học, vì giảng viên được mời
để giảng dạy một số giờ nào đó trong thời gian nào
đó thôi.
4. Vì
chúng ta đang có hàng ngàn người có học hàm
(tức
là học vị danh dự) GS và PGS lâu nay không được
hiểu theo nghĩa nói ở trên, nên để tránh việc xáo
trộn không cần thiết, đề nghị :
- Những
người đã có học hàm giáo sư, phó giáo sư vẫn giữ
nguyên các học hàm đó như cũ.
- Từ
nay trở đi thôi không phong thêm GS và PGS theo kiểu
cũ nữa.
[i]
GS Bùi Trọng Liễu đã phát
biểu nhiều lần và từ lâu về vấn đề này. Mới
đây, NXB Thanh Niên, Hà Nội đã tập hợp và
xuất bản các bài báo tâm huyết của ông về
giáo dục đại học dưới nhan đề « Chung quanh
việc học » (2004).
[ii]
Chúng ta thường nghe và thấy
có nhà khoa học hạng xoàng cố gắng « xin »
một trường đại học nào đó một số giờ dạy để
có đủ tiêu chuẩn xin phong GS, PGS.
[iii]
Ở Pháp, từ lâu cho đến hiện
nay, vẫn có tập quán dùng thuật ngữ giáo sư
(professeur) theo nghĩa rộng, bao gồm cả
giáo sư trung học, nhưng không có sự hiểu
lầm, vì bao giờ cũng đi kèm với trường (trừ
trong giao tiếp, người ta vẫn nói vắn tắt :
« Thưa giáo sư » để xưng hô với các giáo sư
đại học).
[iv]
Ở ta, thấy có người dịch là
« giám đốc nghiên cứu ». Có người dịch là
« chủ nhiệm nghiên cứu », có lẽ đúng nghĩa
hơn ?