Mới đây, tôi thấy một số người dùng cụm từ “đào tạo
nhân tài”. Đằng sau từ ngữ còn có khái niệm, quyết
tâm và cách tiến hành. Vì thế nên tôi đã tìm tra từ
điển, rồi lại hỏi thăm đồng nghiệp trong và ngoài
nước về ý nghĩa của cụm từ đó, rốt cục cũng chẳng ai
giải thích được cho thỏa đáng. Tôi đành thử “đoán”
và viết mấy dòng này như những câu hỏi cần được nêu
:
1.
Theo cuốn “Từ điển tiếng Việt” , nxb Đà
Nẵng-Trung tâm từ điển học, 2001, thì “nhân tài “ là
“người có tài năng xuất sắc”, và “tài năng” là “năng
lực xuất sắc, khả năng làm giỏi và có sáng tạo một
công việc gì”. Và nếu như “tài năng” được hiểu tương
đương với tiếng Pháp là “talent” thì cụm từ kể trên
làm tôi băn khoăn. Để thanh minh rằng tôi không có ý
làm một thứ hủ nho “bới lông tìm vết” dùng câu chữ
để bàn ngang, (và vì tôi mong còn được trình bày ý
kiến về việc sử dụng và đãi ngộ nhân tài, cũng như
về giải pháp cho giáo dục đào tạo) tôi xin được nêu
vài thí dụ ở xứ sở tôi định cư và biết, để minh họa
: Kỹ sư G.Eiffel (1832-1923) là một nhân tài, ông
là người dựng cái tháp cao hơn 300m hồi cuối thế kỉ
19 ở thủ đô Paris, ông cũng là người xây dựng cái
cốt sắt của tượng Nữ thần Tự do của Bartholdi ở
ngoài khơi New York, cũng là người xây cất rất nhiều
công trình sắt thép nổi tiếng ở khắp năm châu và ở
chính Việt Nam. Ông tốt nghiệp trường kỹ sư Centrale
de Paris (nhưng trượt vấn đáp kỳ thi tuyển vào
trường Polytechnique, có tiếng hơn). Nói rằng ông và
các bạn học đồng khóa của ông đã được đào tạo từ một
trường có tiếng nghiêm túc, thì ai ai cũng hiểu.
Nhưng không ai dám nói rằng trường đó đã đào tạo ra
“tài” cho ông, bởi vì tài năng của ông được phát huy
sau khi tốt nghiệp và các bạn đồng khóa của ông
không phải nguời nào cũng làm được như ông. Nhà vật
lý A.Kastler (1902-1984), (giải thưởng Nobel),và nhà
toán học L.Schwartz (1915-2002) (huy chương Fields),
hai người “bạn” của Việt Nam trong thời chiến tranh
giành độc lập, đều kể là thời các ông còn là cựu học
sinh (không cùng khóa) trường Ecole Normale
Supérieure và Đại học Paris, các ông không phải là
những người học giỏi nhất. Các ông được đào tạo
nghiêm túc, nhưng tài năng phát huy sau đó của các
ông qua những kết quả nghiên cứu, thì chẳng ai “đào
tạo” được cho các ông cả. Doanh nhân L. Renault
(1877-1944) chỉ có bằng tú tài, nhưng ai mà không
biết tiếng các xưởng sản xuất xe hơi , xe tăng, và
cả máy bay của ông trong một thời, vv. và chính
trong trận phản công thắng lợi lớn của Pháp ở vùng
La Marne đối với Đức trong chiến tranh thế giới lần
thứ nhất năm 1914, Pháp đã dùng xe hơi taxi Renault
để cấp tốc chở quân …
Cũng xin nêu một thí dụ về một người Việt Nam, để
lại càng thấy rõ hơn : ông Hoàng Xuân Hãn
(1908-1996) thuở trước du học ở Pháp, đỗ vào trường
Polytechnique và sau đó tốt nghiệp trường kỹ sư Cầu
đường Ponts et Chaussées là những trường lớn của
Pháp. Nhưng khi về nước năm 1934 thì chính quyền
thuộc địa Pháp không bổ nhiệm ông vào chức vụ ngang
như người Pháp có bằng cấp tương đương, nên ông lại
trở sang Pháp học theo ngành khác ở Đại học, thi đỗ
cử nhân, cao học rồi thi trúng tuyển đỗ agrégé
về Toán (ở đây, tôi không dùng tên gọi “thạc sỹ”
theo kiểu gọi thuở đó, vì ngày nay từ này dùng để
chỉ bằng Master). Nhắc lại là
agrégé Toán ở Pháp là tên gọi những người thi đậu kỳ
thi tuyển cao cấp để ra dạy Trung học; nó khác với
agrégé thuở xưa về các ngành Y Dược (nay đã bỏ) và
Luật (nay còn tồn tại) để ra dạy đại học. Cho nên
khi ông trở về nước lần này 1936, thì được bổ nhiệm
dạy ở trường Bưởi, tức trường Trung học Bảo hộ. Còn
việc khi đó ông dạy thêm ở Đại học thì là với tư
cách giảng viên, vì lẽ rằng qui chế của Pháp rất
chặt chẽ về đội ngũ giảng dạy: chỉ có thể là giáo sự
đại học (professeur d’université) trong các ngành
khoa học và văn khoa-khoa học xã hội, khi hội tụ 3
điều sau đây, là có bằng tiến sỹ nhà nước (docteur
d’Etat ès sciences hay ès lettres - ngày nay được
thay thế bằng HDR, Habilitation à Diriger des
Recherches), phải được hội đồng khoa học toàn quốc
đánh giá công trình nghiên cứu khoa học mà ghi tên
trên danh sách những người có thể là ứng viên giáo
sư đại học (liste d’aptitude aux fonctions de
professeur d’université), và phải được các đồng
nghiệp đã là giáo sư đại học bàu vào một “chỗ ” giáo
sư trong một đại học. Cho nên thuở ấy, Đại học Đông
Dương ở Hà Nội, phụ thuộc Đại học Bordeaux, chưa
có giáo sư người Việt Nam.
Trong mấy năm giảng dạy, ông Hãn đã góp phần đào tạo
đuợc nhiều học sinh giỏi, có người sau này thành đạt
lớn. Nhưng giới nghiên cứu biết đến ông Hãn chủ yếu
là do các công trình nghiên cứu độc đáo của ông
trong các ngành sử, văn học sử, ngữ văn, vv. và coi
trọng ông như một học giả uyên thâm, tuy ông chẳng
có bằng cấp gì trong lĩnh vực này cả. Vào năm 1951,
khi trở lại Pháp sinh sống, ông hành nghề kỹ sư (ông
không phải là nhà nghiên cứu về Toán học và không có
bằng tiến sĩ trong ngành này; và tôi không hề thấy
ông che đậy hay mặc cảm điều đó, chứng tỏ bản lĩnh
con người trung thực, trái hẳn với một số người Việt
Nam nhập nhằng về bằng cấp và danh hiệu). Trường hợp
ông Hãn là một trong những thí dụ rõ rệt nhất về
việc được hưởng phương pháp đào tạo đúng đắn nghiêm
túc, và rồi từ đó tài năng phát huy không cứ trong
ngành mà mình đã từng học. Còn công lao của ông Hãn
trong phong trào “Truyền bá quốc ngữ”, trong việc
xây dựng danh từ khoa học tiếng Việt, trong việc góp
phần đặt nền móng cho một nền giáo dục Việt Nam độc
lập, thì lại là một vế khác của vấn đề.
Như tôi đã viết trong cuốn sách “Chung quanh việc
Học”, xnb Thanh Niên, Hà Nội 2004, tôi thiết
tưởng, ai làm nên sự nghiệp lớn thì là vĩ nhân, độc
lập với bằng cấp. Như trường hợp Hồ chủ tịch, việc
“học” là ở “trường đời”, như trường hợp Đại tướng Võ
Nguyên Giáp việc “học” (quân sự) là do sự tự tìm tòi
hiểu biết và nghiền ngẫm. Vấn đề sự nghiệp không nằm
trong khuôn khổ của việc đào tạo ở nhà trường.
2.
Tôi đoán : phải chăng cụm từ “đào tạo nhân
tài” là câu nói tắt của “đào tạo ra những người có
sự hiểu biết đúng đắn, để có thể trở thành những
nhân tài cho đất nước”? Tôi thiết tưởng (như tôi dã
viết trong cuốn sách “Chung quanh việc Học”
đã dẫn trên), một nền giáo dục đào tạo (GDĐT) “hay”
cho một xã hội « bình thường » (ở đây, « bình
thường » không phải là « tầm thường », mà nghĩa là
« lành mạnh »), là giáo dục được những con người
« bình thường » thành những công dân « bình
thường », đào tạo họ thành những con ngưòi « biết
việc », đảm nhiệm tốt những công việc « bình
thường ». Trong một xã hội bình thường như vậy,
lương đủ sống làm cho ai cũng đảm nhiệm công việc
của mình, không phải làm thêm để kiếm của ; xã hội
ổn định, nên con người không phải lo tích lũy riêng
cho mình, rồi cho con mình, rồi cho cháu mình một
cách vô tận; giàu nghèo không chênh lệch quá đáng
cho nên tình người tồn tại, vv. Trong xã hội bình
thường đó, bằng cấp đánh giá đúng được trình độ hiểu
biết, chức danh phù hợp với nhiệm vụ, luật pháp cho
phép và bảo đảm cho những người làm ăn lương
thiện
phát huy được tài năng của họ, và nhân tài từ
đó mà có. Trong một xã hội bình thường đó, ngành
nghề nào cần được tăng cường thì chỉ cần tăng số
sinh viên, số người học nghề, số nghiên cứu sinh, và
trang bị thêm phương tiện cho ngành đó, mà chẳng cần
bàn luận dài dằng dặc về trình độ nào, hạch xát như
thế nào, tính số năm dài ngắn như thế nào, để có
được nhân tài.
Lại nhắc lại một câu chuyện mấy chục năm trước đây,
một nhân vật cao cấp trong nước
hỏi tôi nghĩ gì về khả năng có thể có một người Việt
Nam sẽ được giải thưởng Nobel khoa học, và nếu có,
thì sự việc đó ảnh hưởng như thế nào đến sự tiến
triển của khoa học ở Việt Nam. Tôi trả lời rằng :
nước người ta phát triển khoa học và công nghệ, có
đội ngũ khoa học và kỹ thuật đông đảo được sử dụng
tốt, dân chúng có trình độ văn hóa tương xứng; lúc
đó sẽ nảy ra những nhà khoa học có khả năng được
giải thưởng này. Còn giả thử như đem một nhà khoa
học đã có giải thưởng này, đặt vào một nước chưa
phát triển, trong một môi trường không phù hợp, thì
rốt cục người đó cũng chẳng làm gì được cho ai, mà
lại trở thành vô hiệu cho chính bản thân mình. Nay,
tôi vẫn tiếp tục nghĩ rằng việc tổ chức GDĐT nên
được tiến hành sao cho hợp lý thì nền khoa học của
nước nhà sẽ tự nó lên cao, khỏi phải tốn của, mất
công tìm kiếm xa vời.
3.
Đã nói tới một nền GDĐT “hay”, thì ngược lại,
cũng xin nói đến một nền GDĐT “dở”. Đó là một nền
GDĐT chủ yếu chỉ nhắm khuyến khích con người nuôi
dưỡng ý tưởng trở thành những danh nhân bản xứ, danh
nhân sở tại. Đó là nền GDĐT thuở xưa đã có lúc từng
thấy ở nước ta : giáo dục và đào tạo ra những người
có chí làm quan, kiểu muốn vinh thân phì gia, hưởng
ơn vua lộc nước, nhưng chẳng thiết tha gì mấy đến
bàn dân thiên hạ. Trong một xã hội với một nền GDĐT
như vậy, người ta coi chức vị như mối lời phải giành
lấy, giữ lấy, trao đi đổi lại với nhau, chứ không
đặt nặng nhiệm vụ của chức vị, không có ý muốn GDĐT
bao trùm mọi ngành nghề liên quan đến đời sống, đến
xã hội. Cứ thử nhìn lại mấy môn thi trong mấy khoa
thi Hương cuối cùng, nghĩa là vào thời kỳ chuyển từ
cựu học sang tân học, thì cũng thấy rõ, không kể sự
thô sơ của nội dung học: 1906 (kinh nghĩa, thi phú,
văn sách, phúc hạch), 1909 (văn sách, 2 bài luận,
quốc ngữ luận, luận), 1912 (4 bài văn sách, 4 bài
quốc ngữ, dịch Pháp văn, luận Hán văn và luận quốc
ngữ), 1915 ở Bắc kỳ và 1918 ở Trung kỳ (3 bài văn
sách, luận quốc ngữ và sử địa, 2 bài tính đố, Pháp
văn). Điều chua xót là việc bỏ cựu học chuyển sang
tân học lại là do chính quyền thuộc địa áp đặt thực
hiện, chứ không phải tự ta. Rồi lại còn vấn đề thi
cử kiểm tra. Có người đả kiểm kê so sánh trong thời
kỳ quá độ chuyển tiếp đó: Vào những khoảng thập niên
30-40 của thế kỉ 20 dưới thời Pháp thuộc ở nước ta,
các học sinh theo hệ thống trường Việt thì từ lúc đi
học cho đến lúc thi tú tài, phải thi tất cả 8 lần:
sau 3 năm Sơ học, thì thi Sơ học yếu lược; đỗ xong
thì phải thi tuyển vào học Tiểu học 3 năm; đỗ xong
bằng Tiểu học thì thi tuyển vào học Cao đẳng tiểu
học 4 năm, thi bằng Thành chung ; đỗ xong thì thi
tuyển vào học 3 năm Trung học, thi tú tài phần 1 rồi
tú tài phần 2 (tú tài mới). Còn học trường (kiểu)
Pháp mỗi năm học có 3 lần kiểm tra (ngay trong lớp
học) mỗi môn, đủ điểm thì lên lớp, không cần thi
bằng cấp trung gian, chỉ phải thi thú tài phần 1,
rồi thi tú tài phần 2, nghĩa là từ lúc học đọc học
viết đến hết phổ thông, chỉ đi thi có 2 lần; mà học
sinh người Việt học trường kiểu này, nói chung,
không những đỗ sớm hơn mà còn có thì giờ để trau dồi
kiến thức bên ngoài chương trình học chính thức. Có
lẽ cũng là điều đáng suy ngẫm cho ngày nay.
Sau 1945, nền Dân chủ Cộng hòa.đã mang lại cho nước
nhà độc lập một nền GDĐT tương xứng và đã đáp
ứng
được nhu cầu trong một khoảng thời gian. Nếu nay
GDĐT có những bất cập, thì không nên ngần ngại tìm
giải pháp thay đổi. Tôi thiết tưởng ngày nay, đất
nước không thể thịnh vượng hơn nếu chỉ cứ nhắm tăng
số anh hùng được bàu, tăng các kỳ thi đua (bởi vì
cao thấp cũng chỉ là tương đối, “trong nhà nhất mẹ
nhì con”), nếu chỉ qui định rằng đang ở chức vụ này
thì phải có bằng cấp kia (người ta sẽ tìm cách mua
bán bằng cấp, giả mạo trong thi cử, dối trá trong
việc làm luận văn), nếu chỉ nhắm những
tiêu chí kiểu bao nhiêu trường, bao nhiêu thày, bao
nhiêu trò, bao nhiêu năm (bởi vì sẽ rơi vào cái cảnh
của câu nói trào phúng mà giới khoa học biết : “có
ba cách nói dối : nói dối, nói dối trắng trợn, và
nói dối theo thống kê ”), vv. và vv.
4.
Nhưng câu hỏi đáng được chú ý hơn cả là : trong một
xã hội mà GDĐT đã “trót không bình thường” như ở ta,
thì giải pháp trong cấp bách phải là gì? Tôi thiết
tưởng, nói gọn vài nét, cái “hướng” chung phải là :
nghiêm phạt những sự gian lận (như cấm thi mươi năm
đối với những học sinh quay cóp; có hình án đối với
những người tổ chức gian mạo; cất chức những người
bao che; truy tố kẻ mạo danh). Những việc ấy sẽ
không làm xáo trộn xã hội, mà ngược lại sẽ góp phần
mang lại ổn định.
Về quan niệm, không thể coi GDĐT là một thứ hàng hóa
mua bán kiếm chác lờ lãi, điều mà ở ngay cả những
nước có nền kinh tế hoàn toàn tự do họ cũng không
quan niệm như vậy. Đấy không phải là một lĩnh vực mà
“có tiền mua tiên (bằng cấp) cũng được”. Sự hiểu
biết và khả năng nghề nghiệp phải là do sự học hành
nghiêm túc mà có. Trường công lập hay “ngoài công
lập” đều phải có chức năng GDĐT như vậy. Và chính vì
thế mà vai trò điều tiết hợp lý của Nhà nước, với
một bộ máy quản lý phù hợp, rất là quan trọng, chứ
không phải là cứ để GDĐT tự phát Về cách tổ chức,
trong tình hình hiện tại rất phức tạp, một cuộc chấn
hưng “toàn bộ” có lẽ khó thực hiện được. Nếu như
thực sự chấp nhận là GDĐT đang “không bình thường”,
thì phải có biện pháp gỡ mối bòng bong, mà nên gỡ từ
trên xuống dưới, dựa trên nhận xét sau đây: có thày
giỏi thì mới có trò giỏi; cần có những nhà giáo có
sự hiểu biết tương xứng, hơn là những nhà giáo được
đào tạo nặng về những cái gọi là phương pháp sư phạm
nhưng quá nhẹ về nội dung kiến thức. Do đó, xin nhắc
lại một trong những kiến nghị của tôi trong thời
gian qua (tôi đã phát biểu chi tiết hơn trong bài
tham luận “ Giáo dục đại học: nhắc lại một kiến
nghị”) là lập ra một vài cơ sở đại học công lập
hoàn toàn “mới”, cỡ nhỏ, đa khoa, không cần đủ các
ngành, nhưng đủ các “cấp” kể cả cấp đào tạo qua
nghiên cứu, để có sức quản lý cho tốt để làm gương.
Đồng thời cứ để cho các đại học khác tiếp tục tồn
tại, dù là công lập, dân lập hay tư lập, kệ họ phát
triển tốt, hoặc lay lắt, hoặc biến đi, miễn là đừng
đi lệch hướng, để tránh một sự thay đổi đột ngột
trong xã hội. Việc lập ra một vài đại học nhỏ, nhưng
hoàn toàn “mới” như kể trên, hoạt động theo tiêu
chuẩn quốc tế “bình thường”, mang tính cách “hoa
tiêu” (“đại học hoa tiêu”), chính là cách tiến hành
cuộc chấn hưng có hiệu quả, mà không làm cho các
thành phần liên quan bị “hãi”. Đó là con đường
“khiêm tốn” và “đỡ tốn kém nhất” dẫn tới chấn hưng
GDĐT, để từ đó có triển vọng để có nhân tài cho đất
nước.
5.
Còn việc đãi ngộ? Tôi không biết có nên đặt
câu hỏi như vậy không, hay là chỉ nên đặt vấn đề sử
dụng người vào đúng chỗ. Nguyên tắc thì đơn giản; nó
cũng đơn giản như bệnh nhân sắp phải mổ không muốn
trao tính mạng mình cho người có bằng bác sỹ nhưng
không biết phẫu thuật, đơn giản như khách hàng bỏ
tiền mua thực phẩm nhưng không muốn mua phải của ôi,
vv. Nhưng đi vào thực tế, thì lại cần có quyết tâm
và sáng suốt. Những người đã được đào tạo xong một
cách nghiêm túc có được một sự chú ý khác với những
trường hợp dỏm như thế nào? Những người được gửi đi
du học xong có được khuyến khích trở về chưa, và khi
trở về nước đã được sử dụng như thế nào? Có điều gì
cản trở sự đề bạt những
nhà khoa học trẻ để tăng cường cho đội ngũ nhà giáo
đại học đã lão hóa? vv. và vv. Ngày nay, chắc ít ai
cả tin như Tần Thủy hoàng bỏ tiền bạc sai người đi
tìm thuốc trường sinh bất tử ở chốn Bồng Lai, hoặc
cả tin như ông vua nào đó trao vàng cho một người
hầu khi kẻ này cả quyết có thể dạy trong mươi năm
cho một con khỉ biết nói (mươi năm thì khỉ và người
cũng đều chết cả rồi!), hoặc cả tin như Chu Bình
Mạn (trong sách Trang tử) bỏ ngàn vàng đi học được
cái kỹ thuật giết rồng, rồi chả biết tìm rồng ở đâu
mà giết. Vì thế mà vấn đề nhân tài, tưởng dễ mà hóa
ra khó.
Có thể rằng vốn tiếng Việt của tôi không đủ chuẩn
xác, nên tôi có thể hiểu lầm chăng ? Trong sự hồ
nghi còn tồn tại, tôi xin kể câu chuyện sau đây như
một thứ kết luận tạm thời. Tôi quen hai anh người
Việt Nam định cư ở nước
ngoài ; hai anh vốn là bạn thân từ lâu năm, tạm gọi
là anh A và anh B. Anh A là nhà khoa học, nhưng cũng
là nhà văn nghiệp dư ; anh viết mấy cuốn sách. Anh B
là nhà xã hội học, nhưng cũng là nhà phê bình văn
học nghiệp dư ; anh B viết bài điểm sách đăng trên
báo, khen mấy cuốn sách của anh A. Từ đó, hai anh
giận nhau.
Tôi hỏi anh B, sao lại giận. Anh trả lời : « Tại tôi
khen anh A là nhân tài, anh ấy cho là chưa đủ, vì
anh ấy là thiên tài ». Hay là « nhân tài » là những
người « bình thường », còn « thiên tài » là hơn thế
một chút ?