Hiện nay, một số người nêu những câu hỏi, loại «Có
hay không có thị trường giáo dục? Có thể coi giáo
dục như hàng hóa không ? Với kinh tế thị trường, các
nước tiên tiến giải quyết vấn đề Giáo dục Đào tạo
(GDĐT) như thế nào ? vv.». Tất nhiên câu trả lời rất
phức tạp bởi vì các từ sử dụng phải được hiểu theo
nghĩa nào? Thí dụ như : ở nước tiên tiến nào, kinh
tế thị trường nào và mục tiêu GDĐT nào ? vv. Do đó
trong khung cảnh câu chữ giới hạn, để diễn tả ý
tưởng, tôi nghĩ rằng cách tốt nhất là dẫn một vài
thí dụ.
Tôi nghĩ rằng khó có thể coi vấn đề
giáo dục như một thị trường thông thường, kiểu hễ có
« cầu » thì có thể có « cung », nó không như thí dụ
có nhiều người muốn uốn tóc, thì cứ có thể mở hiệu
uốn tóc. Đặc biệt là nếu trong một xã hội mà, vì lý
do này khác, đa số không coi việc học như một nhu
cầu để hiểu biết mà coi như một nhu cầu để có bằng
cấp (mặc dù bằng cấp trên nguyên tắc đánh giá khối
lượng hiểu biết) thì “cầu” và “cung” sẽ như thế
nào ?
Tôi xin dẫn trường hợp nước
Pháp là nơi mà tôi định cư từ lâu năm, nơi mà tôi đã
hành nghề nghiên cứu trong doanh nghiệp 4 năm, trước
khi làm giáo sư đại học trong 40 năm, và có tham dự
vào mấy cải cách ; do đó tôi cũng đã có thời gian
nghiền ngẫm chút ít - (và muốn nêu trường hợp này
làm thí dụ vì đã có thử nghiệm từ lâu đời, chứ không
phải là tôi có ý tán dương để mong được áp dụng
nguyên si ở Việt Nam một cách vu vơ). Nước Pháp là
nước tư bản nhưng không phải là tư bản hoang dã,
Pháp cũng không phải là một nước liên bang, mà là
nước có chính quyền tập trung, theo kinh tế thị
trường nhưng chính quyền luôn luôn chú ý điều tiết;
mục tiêu GDĐT nói tóm tắt dựa trên hai vế: chuyển
giao kiến thức cơ bản và đào tạo nghề nghiệp (tất
nhiên ngoài hai vế đó, còn có những râu ria kèm theo
: nghiên cứu, trao đổi quốc tế, vv.).
Là một nước thống nhất, Pháp rất chú ý đến mức độ
đồng đều của cả nước, nên trọng bằng cấp “quốc gia”
(diplômes nationaux), Nhà nước (tôi nói nhà nước chứ
không nói chính quyền nhất thời) độc quyền phát bằng
; dân chúng coi “sự hiểu biết” là vốn quí của dân
tộc (tuy không gọi GDĐT là quốc sách hàng đầu) nên
Nhà nước đầu tư và cáng đáng phần lớn chi phí cho
việc GDĐT [tiểu học trung học công lập thì không có
học phí, học phí đại học công lập ở Pháp rất rẻ so
với một số nước; trường tư đúng đắn được Nhà nước hỗ
trợ (một phần do lịch sử để lại: thỏa thuận giữa nhà
thờ và chính quyền), vv.]. Nhà giáo các trường tiểu,
trung, đại học công lập, khi đã vào ngạch, đều là
công chức. Bộ Giáo dục, gọi là Bộ “quốc gia” Giáo
dục. Tùy theo nhu cầu của xã hội, Nhà nước cải cách,
điều chỉnh tổ chức việc học sao cho phù hợp với tình
hình kinh tế, xã hội, văn hóa vv. Thí dụ: vào
những thập niên phát triển sau thế chiến thứ hai -
(người Pháp gọi là “les 30 glorieuses”, 30 năm vinh
quang, khoảng từ sau thế chiến thứ nhì cho đến giữa
thập niên 1970; cụm từ này do nhà kinh tế học Jean
Fourastié chế ra, phỏng theo cụm từ “les 3
glorieuses” của 3 ngày 27,28,29/7 của cuộc cách mạng
1830 đuổi vua Charles X) - nền công nghiệp của Pháp
cần gấp một số kỹ thuật viên trung gian, nên vào
thập niên 1960, Bộ Quốc gia GD Pháp mở ra các IUT
(Instituts Universitaires de Technologie) đào tạo tú
tài+2. Khi nền công nghệ phát triển cao hơn, yêu cầu
của doanh nghiệp đòi hỏi, nên vào thập niên 1970, Bộ
cho các đại học mở ra các bằng MST (Maîtrise de
Sciences et Techniques) ở mức tú tài +4. Sau đó, khi
nền công nghiệp phát triển cao hơn nữa, Bộ cho các
đại học mở các bằng DESS (Diplôme d’Etudes
Supérieures Spécialisées) ở mức tú tài+5. Đấy là các
bằng cấp hướng về đào tạo nghề nghiệp, chủ yếu cho
nền công nghiệp, thương mại, tài chính, vv. bên cạnh
các bằng kỹ sư của các trường kỹ sư (tú tài+5),
không kể các bằng cấp khác của đại học. Đó là một
trong những thí dụ cho thấy GDĐT liên quan với thị
trường. Và tất nhiên ngày nay, vì thị trường chung
châu Âu, Pháp đang chuyển sang mô hình đào tạo kiểu
3-5-8 (ba “đầu ra” ở mức cử nhân (tú tài+3), thạc sỹ
(tú tài +5) và tiến sỹ (tứ tài+8) cũng vì thế.
Nhưng cũng vì theo kinh tế thị trường, cho nên ở
Pháp không quan niệm đào tạo theo kiểu Liên Xô trước
đây, nghĩa là không tổ chức đại học theo kiểu
các trường dạy nghề nghiệp cao cấp, không
tuyển sinh sớm ở mức tú tài, (các trường kỹ sư lớn
của Pháp tuyển sinh ở mức tú tài +2), tránh
đào tạo quá hẹp, bởi vì nhu cầu của thị trường luôn
luôn thay đổi, sợ thiếu hiểu biết cơ bản thì không
“cập nhật” nổi hay không đổi hướng được, khi nhu cầu
đòi hỏi. Cũng vì theo kinh tế thị trường, nên Pháp
không có kiểu đào tạo để rồi “phân phối công tác”
theo kế hoạch triệt để kiểu Liên Xô, mà áp dụng sự
“tuyển dụng”; mà vì “tuyển dụng” (tuyển lựa bằng
cách này hay cách khác, chọn người giỏi nhất vào
những chỗ công việc làm) nên mỗi “chỗ làm” phải có
nhiều “ứng viên” thì lựa
chọn mới được. Cho nên Nhà nước luôn luôn chú ý đến
cái “khối dự trữ” con người - (tiếng Pháp gọi nôm na
là “vivier”, cái ao nuôi cá) - điều chỉnh GDĐT sao
cho cái “khối dự trữ” vừa phải cho từng ngành, nếu
“khối dự trữ” phình to quá thì gây căng thẳng trong
xã hội - (nếu quá nhiều người có bằng cấp để làm
“ứng viên”, mà không được chỗ làm, thì họ bất mãn) -
nếu “khối dự trữ” teo lại quá nhỏ thì chất lượng
tuyển lựa sẽ kém. Đó cũng là những thí dụ cho thấy
GDĐT liên quan với thị trường.
Ở Pháp, người
ta cũng quan niệm rằng một trọng tâm của GDĐT là đội
ngũ nhà giáo. Thày có giỏi thì học trò mới khá, GDĐT
mới nghiêm chỉnh, bằng cấp mới tương xứng với sự
hiểu biết. Do đó Nhà nước đặc biệt chú trọng việc
đào tạo nhà giáo, chứ không để tự phát. Hiện nay ở
Việt Nam đang có khuynh hướng phê bình cách học vẹt,
nhồi nhét, làm sinh viên học sinh mất tính độc lập
suy nghĩ. Điều đó rất đúng, nhưng ta cũng nên thận
trọng khi đề nghị giải pháp sửa chữa. Thật vậy, theo
tôi, loài người tiến bộ được là nhờ tích luỹ được
những hiểu biết của các thế hệ nối tiếp, chứ đâu có
phải là mỗi thế hệ luôn luôn phải trở lại tự phát
minh từ đầu. Cho nên ở mức độ bình thường, phải có
những hiểu biết cơ bản đã, trước khi nhắm tới « sáng
kiến ». Việc “chuyển giao hiểu biết cơ bản” nên được
coi là một trong những « vấn đề trung tâm » của
GDĐT, nhất là giáo dục đại học; còn vấn đề chuyển
giao như thế nào cũng là việc đáng nói. Ở
đây, nên tránh sự hiểu lầm : tôi nói « hiểu biết cơ
bản » - (tiếng Pháp là connaisances de base, thí dụ
như những hiểu biết cơ bản cho một ngành khoa học
nào đó, trước khi chuyển giao những kỹ thuật nghề
nghiệp chuyên môn, dù là cao nhưng thường là hẹp,
nếu không có hiểu biết cơ bản thì không tiếp thu
được thực
sự và sẽ là « học vẹt » và áp dụng một cách máy móc,
giả thử như áp dụng được) - chứ tôi không nói « kiến
thức chung chung » (culture générale). Một người
giáo sư đại học, bỏ công ra soạn bài một cách nghiêm
túc, đúc kết sự hiểu biết đã tích lũy của thế giới,
phân tích, giảng giải mặt này mặt nọ cho sinh viên,
thì trong 1 giờ giảng, chuyển giao được cho sinh
viên một khối lượng hiểu biết quí giá lớn ; chưa kể
việc chỉ dẫn cho sinh viên các tài liệu cần tham
khảo thêm, thì tránh cho sinh viên biết bao
công sức mò mẫm linh tinh và có khi lung tung không
kết quả ! « Lên lớp giảng bài», có ý nghĩa như thế.
Nhưng đó là trong giả thuyết mà giáo sư là giáo sư
có trình độ «thật ». Còn nếu giáo sư là người có
danh hiệu dỏm, trình độ thấp kém, lên lớp bằng cách
đọc cho sinh viên nghe những bài giảng chắp nhặt
được ở đâu đâu, lù mù như những lời phù chú, không
giải thích được, không cắt nghĩa được cho sinh viên
tại sao nội dung của bài giảng lại như thế, thì đó
là tại trình độ của nhà giáo, chứ không phải là tại
nguyên tắc « lên lớp giảng bài » của nhà giáo. (Phải
chăng có hiện tượng « học vẹt » là tại thày dở như
vừa nói trên, nên học sinh sinh viên không hiểu nổi,
nên phải học thuộc như thuộc những
lời « phù chú » để « tụng » ra trở lại khi bị kiểm
tra?). Tất nhiên, thày giỏi mà học trò dở không tiếp
thu được, thì bài giảng có hay đến mấy, cũng không
tiếp thu nổi. Cũng không thể vì thế mà đổ lỗi cho
việc « lên lớp giảng bài».
Ở Pháp,
người ta không quan niệm học sinh là “khách
hàng” của GDĐT, không quan niệm rằng hễ học
trò đòi hỏi bằng cấp thì phải mở trường, cứ trả tiền
thì được học, và cứ trả tiền học thì phải có văn
bằng ; không quan niệm rằng chương trình, môn
học, mức độ phải theo yêu cầu của “khách hàng” (học
sinh). Cũng không quan niệm GDĐT như một thứ
hàng hóa để kiếm ra lời. Nếu cái đó được coi là “thị
trường giáo dục”, thì ở Pháp không có thị trường
kiểu đó. Các trường có muốn ganh đua thu hút học
sinh sinh viên, thì là do trình độ cao thấp của GDĐT
của mình mà cố gắng, chứ không hút sinh viên học
sinh nhiều để lấy tiền.
Nếu tôi nói nhiều đến thí dụ Pháp, là vì tôi nghĩ
rằng nước Pháp là nước có diện tích khiêm tốn, dân
số không đông, do tổ chức xã hội của họ, do quan
niệm về GDĐT của họ, mà giữ được một thế đứng khả
quan trên thế giới ; trong xã hội giàu nghèo không
chênh lệch quá đáng ; trong công việc làm ăn không
phải tranh đua quá gay gắt và tàn nhẫn ; cuộc sống
tương đối êm đềm. Cho nên tôi nghĩ rằng nuớc Việt
Nam ta, có lẽ cũng “nên” xây dựng một nền GDĐT gần
tuơng tự, có lẽ nó phù hợp với ước mơ của một số
người mình chăng. Vì thế nên đã nhiều năm, trên
nhiều bài báo (thí dụ xem bài báo trên Thời báo
Kinh tế Sài Gòn 25/3/2004), và trong cuốn
sách « Chung quanh việc Học », nxb Thanh
niên, 2004, tôi có trình bày những lý do vì sao tôi
kiến nghị một số điều. Sự tồn tại của các trường dân
lập tư lập tất nhiên có mặt tích cực, nhất là trong
tình hình đã trót như hiện nay, nhưng không nên để
dân lập tư lập vượt quá một tỉ lệ vừa phải, lợi tức
tài chính phải được giới hạn. Tuy tôi là người khơi
ý thành lâp đại học dân lập đầu tiên (1988), theo
tôi, đẩy gánh nặng về GDĐT sang người dân, cho « tư
hóa » tự do để việc học trở thành sự mua bán kiếm
lời vô hạn, để mặc cạnh tranh kiểu « mạnh ai nấy
sống », là một sự từ bỏ trách nhiệm của Nhà nước.
Cách lý luận ở Mỹ thì có khác (so với Pháp), mà
không ít người Việt Nam hiện nay mới thoáng biết lại
rất đang “mê”, có lẽ vì thấy Mỹ là siêu cường, nhưng
hình như quên rằng Mỹ là nước giàu, đất rộng, dân
đông, có những vế họ có mà Việt Nam không thể có ;
thí dụ như tuy họ có những trường rất có
tiếng đào tạo rất hay, nhưng cũng có những mảng giáo
dục đào tạo khá dở; họ có truyền thống nhập cư và có
tiền để hút được những tài năng đã được đào tạo từ
nơi khác tới (điều mà nước ta không thể làm được).
Cũng không nên quên rằng ngay chính ở Mỹ, người ta
cũng quan niệm rằng nếu coi giáo dục như một thứ
hàng hóa, thì hàng hóa này cũng khác với loại hàng
hóa khác, ở chỗ nó là một thứ hàng hóa có nhiều
« ngoại ứng » (external effects, như một giáo sư
kinh tế có nhắc : khi một người có giáo dục thì
không chỉ có lợi cho người đó mà còn có lợi cho
người khác). Vả lại nhà nước họ cũng đâu có thả lỏng
cho giáo dục tự phát ; cũng như mọi nhà nước, họ
cũng luôn luôn dự báo, kiểm soát, điều tiết, điều mà
có khi có người thoáng nhìn nên chưa thấy. Cố nhiên
là Mỹ là nơi hội tụ nhiều tài năng siêu việt, nhưng
không phải chỉ vì mô hình GDĐT của họ, mà còn vì họ
« nhập » được tài năng như nói trên. Nhưng ta có
điều kiện và ý chí để làm như họ không?
Chưa kể đến cái xã hội nào mà ta ước mong muốn có?
Cho nên khi đề cập đến vấn đề GDĐT, thị trường hay
không, thiết tưởng cũng không thể bỏ qua các khía
cạnh khác của vấn đề : trong khung cảnh nào, với
phương tiện nào, vv. Tất nhiên, bất cứ lý luận hay
giải pháp nào cực đoan, cũng đều không tốt, cho nên
cũng cần nhìn trước ngó sau một chút Có điều là khi
đã “mê” thì khó lý giải lắm.