Những bài cùng tác giả
Một vấn đề thời sự làm tôi băn khoăn là vấn đề dùng hoàn toàn
tiếng nước ngoài làm chuyển ngữ trong Giáo dục đại học. Hiện nay
có một khuynh hướng muốn sinh viên đại học, ở một số trường, học
trực tiếp bằng tiếng nước ngoài để dễ dàng trong việc giao tế,
kiếm việc làm trong thời kinh tế toàn cầu hóa. Tôi e rằng những
quan chức có trọng trách trong việc lấy quyết định, chưa cân
nhắc hết mọi khía cạnh của vấn đề. Nó không đơn giản như vậy.
1/ Ở đây, tôi xin được dùng kèm vài từ tiếng
Pháp vì tiếng Việt – cũng những ngôn ngữ khác – có những từ được
sử dụng với nhiều nghĩa, tôi sợ gây hiểu lầm. Tuy tôi không phải
là chuyên gia, nhưng tôi nghe nói là về chính trị học, xã hội
học, dân tộc học gì gì đó, người ta phân biệt các khái niệm
Nước/ Nhà nước (Etat) và Dân tộc (Nation). Đó là những khái niệm
phức tạp khi diễn tả, nhưng tóm tắt có thể hiểu rằng khái
niệm Dân tộc bao gồm một tập thể người có chung một ngôn ngữ,
một lịch sử, một nền văn hóa, vv. , còn khái niệm Nước được hiểu
theo nghĩa một lãnh thổ, có biên thùy bao bọc, với dân cư, với
một thể chế chính trị, vv. Một thí dụ thường thấy được nêu ra để
phân biệt, là trường hợp của Bỉ : một Nuớc với hai Dân tộc – một
Etat, hai Nations : Wallon (nói tiếng Pháp) và Flamand (nói
tiếng Flamand gần với tiếng Hà Lan). Trong trường hợp nước Việt
Nam ta, tuy có hơn 50 « dân tộc » (Ethnies), nhưng dân tộc Kinh
là đông trội hơn hết, và theo tôi hiểu thì tới nay, có một sự
đồng thuận về một chính quyền tập trung (không phải là một nước
liên bang), một ngôn ngữ chính thức là tiếng Việt, và tự coi
mình là một Etat-Nation. Không phải như Ấn Độ, một nước « ghép
mảnh » (mosaïque), dùng tiếng Anh làm chuyển ngữ. Do đó, tiếng
Việt phát triển, là một chất keo gắn liền các công dân trên toàn
lãnh thổ lại với nhau, góp phần cho sự thống nhất và cho nền độc
lập tự chủ. Điều này nói lên tại sao năm 1945, có một sự hồ hởi
phấn chấn, khi tiếng Việt được sử dụng làm chuyển ngữ trong Giáo
dục, từ tiểu học, trung học cho đến đại học.
Thuở đó, hầu như đa số nghĩ rằng trong thời
kỳ Pháp thuộc, tiếng Pháp được dùng làm chuyển ngữ trong các cấp
học tương đối cao cấp, là vì chính quyền thuộc địa Pháp muốn đào
tạo ra những loại người mà họ sử dụng được trong guồng máy hành
chính, kinh tế, kỹ nghệ, nông nghiệp, vv. phục vụ họ, và do đó
phần nào giáo dục của Pháp trên đất Việt Nam bị coi như một thứ
giáo dục đào tạo nô bộc. Vậy thì ngày nay, nước nhà độc lập, tự
mình bỏ tiền ra đào tạo một loại người học đại học bằng một thứ
chuyển ngữ hoàn toàn ngoại quốc, có phải là tự mình bày ra một
thứ giáo dục đào tạo để làm nô bộc không ? Mà loại người được
đào tạo kiểu đó liệu có được người nước ngoài kén sử dụng hay
không ?
Ở đây, không chỉ có niềm tự hào dân tộc. Còn
có những lý lẽ khác đáng được để ý.
2/ Tôi nghe đâu đó, có thuyết cho rằng ngôn
ngữ không chỉ dùng để trao đổi, mà còn là một công cụ để chuyển
tải tư tưởng nữa. Tôi xin kể một câu chuyện kỷ niệm nhỏ để minh
họa ý :
Cách đây đã lâu, thời còn chiến tranh chống
Mỹ, tôi thường xuyên gặp nhà toán học G., giải Fields ; ông G.
được nhiều đồng nghiệp coi là một trong những nhà toán học bậc
nhất của thế kỉ 20. Thuở ấy, ông G. có « dưới trướng » của ông
một nhà toán học, anh S., cũng có tên tuổi. Anh này có mẹ là
người Mông Cổ, bố là người Hán, nhà giáo ở Thượng Hải. Anh S.
học chút đỉnh ở Trung quốc rồi lén xuất ngoại, sang Pháp, có lúc
bị bệnh lao, cũng ở dưỡng đường cùng thời với tôi, nên tôi biết.
Anh ta không thông thạo được một thứ tiếng nào cả, tiếng Mông
Cổ, chữ Hán, tiếng Pháp, tiếng Anh đều ú ớ. Ông G. bảo tôi : anh
ta có một số kết quả toán học mỹ mãn, nhưng lý luận của anh ta
thì rất khó hiểu vì lang thang quanh co, không mạch lạc ; ông G.
cho rằng ngôn ngữ là dụng cụ cần thiết cho tư tưởng, không có
được một ngôn ngữ hoàn chỉnh thì không thể có tư tưởng hoàn
chỉnh ; và tiếc rằng giá như S. biết thành thạo được một ngôn
ngữ thì … Sau khi anh S. bảo vệ luận án tiến sĩ nhà nước, không
một trường đại học nào dám tuyển anh ta, vì không ai hiểu anh ta
nói gì khi anh ta phát biểu. Sau, họ để anh ta làm Directeur de
Recherche ở Trung tâm nghiên cứu khoa học CNRS. (Tất nhiên ở
đây, tôi chỉ nói ý kiến của ông G. về ngôn ngữ, chứ tôi không hề
mảy may có ý so sánh anh S. và tôi, vì tôi không là cái thá gì
cả).
Đề cập đến vấn đề này, tôi muốn nói rằng lý
do « để dễ giao tiếp, trao đổi và đón nhận thông tin trực tiếp »
nêu ra để chủ trương nên học thẳng tiếng nước ngoài, thì tự nó
không đủ sức thuyết phục.
3/ Sẽ có người hỏi vặn, vậy thì Việt kiều ở
nước định cư, và du học sinh, du nghiên cứu sinh, ra nước ngoài
học tập thì sao ? Tôi nghĩ, nên phân biệt hai trường hợp. Trong
trường hợp người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài từ nhỏ, được
học tập và đào tạo ở nước định cư thì cũng như người sở tại. Họ
sẽ được sử dụng, với sự thành công hay thất bại, như những mắt
xích trong một dây chuyền của bộ máy của nước sở tại. Phải có
một sự cố gắng cá nhân đặc biệt họ mới có thể có những đóng góp
với nước gốc của mình ; huyết thống không đủ làm cho họ khác với
những người ngoại quốc thực sự, trừ sự « gắn bó » về mặt tình
cảm nào đó. Trong trường hợp du học sinh, du nghiên cứu sinh,
cũng nên phân biệt làm hai. Du học sinh ở tuổi còn nhỏ, thì cũng
không khác gì trường hợp nói trên ; có chăng là sự khó khăn bị
nhân đôi (khó khăn khi phải phù hợp hóa được với văn hóa nước du
học, và khó khăn khi phải phù hợp hóa được khi trở về quê nhà –
tất nhiên ở đây tôi không nói đến việc hiện nay một số gia đình
gửi con đi học sớm nước ngoài vì cho rằng giáo dục trong nước
quá lộn xộn ; đây là một cách « chạy loạn », nó không phải là
một vế của chiến lược giáo dục đào tạo). Còn du nghiên cứu sinh
xuất ngoại ở một tuổi nào đó, đã có sẵn một vốn văn hóa nước
nhà, thì tuy có khó khăn lúc đầu phải phù hợp hóa nơi học tập,
nhưng khi trở về quê hương thì hòa nhập tương đối dễ dàng hơn.
Đấy là nói về việc học tập, giáo dục đào tạo trong khung cảnh để
xây dựng quê hương đất nước – (tuy cũng cho bản thân cá nhân có
được con đường lập nghiệp).
4/ Thuở tôi còn tại chức, do công việc ở
trường, tôi cũng có nhiệm vụ tham gia vào việc liên hệ với những
doanh nhân để tìm chỗ thực tập trong doanh nghiệp cho sinh viên.
Ngoài những tiêu chuẩn về khả năng khoa học và kỹ thuật mà doanh
nghiệp đòi hỏi, các sinh viên còn phải viết tay một lá thư bày
tỏ lý do của mình (lettre de motivation), đó là « bước đầu » họ
bị/được đánh giá về trình độ văn hóa của mình. Tôi cũng nghe nói
là một số doanh nghiệp, khi mở chi nhánh ở nước ngoài, thường
muốn kén những cán bộ trung cao có một sự hiểu biết, không những
về ngôn ngữ của nước đó, mà còn có sự hiểu biết về văn hóa,
phong tục tập quán của nước đó nữa.
Tăng cường việc học tiếng nước ngoài, đặc
biệt là tiếng Mỹ, vì đó là một sinh ngữ thông dụng trên thế giới
hiện nay, thì chắc ai ai cũng đồng ý. Trong quá trình học tập,
có những tiết học chuyên môn bằng tiếng nước ngoài, chắc đông
người cũng đồng ý. Nhưng nay tại nước nhà, đào tạo chính người
nước mình, để phát triển đất nước mình, mà lại hoàn toàn
dùng tiếng nước ngoài, có lợi mặt nào nhưng cũng có hại mặt nào
hay không ?
Tóm lại, vì những lý do nêu trên, trong lòng
tôi nặng trĩu mối băn khoăn. Trong bài này, tôi nêu câu hỏi
nhiều hơn là mang lại những lời khẳng định. Tất nhiên, tôi không
chia sẻ lời bực dọc của một vài người quá khích (bất mãn về việc
giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam
này) : mấy người quá khích đó bảo rằng, nếu độc lập tự chủ không
còn là mối quan tâm chính nữa, thì sao không xin nhập quách làm
một bang của Mỹ, hay một tỉnh của Trung quốc, vụt một bước trở
thành thành phần của một cường quốc hoành tráng, có vũ khí hạt
nhân, có tàu vũ trụ, có giải thưởng Nobel, có những đại học top
1, top 10, có xe hơi xịn, có máy bay cá nhân, có thể thành tỉ
phú hàng đầu thế giới, vv., khỏi phải lo bàn cãi chiến lược này
chiến lược nọ cho giáo dục đào tạo, khỏi lo đến năm này năm nọ
sẽ thành Rồng, thành Cọp. Nhưng câu hỏi vẫn còn đó. « Nam quốc
sơn hà… » ?
Tôi không mong gì hơn là được các cao thủ
trong lĩnh vực lý luận, giải tỏa cho mối băn khoăn của tôi. Tôi
trân trọng cảm ơn.
Bùi Trọng Liễu Nguyên giáo sư đại học (Paris, Pháp)
Đã đăng trên Diễn Đàn Forum (Zidol)
© http://vietsciences.free.frr
và http://vietsciences.org
Bùi Trọng Liễu
|