Âm phi gà ri ?

Vietsciences-Bùi Trọng Liễu    04/07/2008

 

Những bài cùng tác giả


Lời cảnh báo :

Xin những nhà ngôn ngữ hàn lâm, học giả uyên thâm, chuyên gia về khoa học giáo dục, cao thủ trong làng dịch, nhà tư tưởng phải đạo, nên cẩn thận, đọc nội dung bài này có thể làm bẩn mắt các vị đấy. Nhưng nghĩ cho cùng: Trái với ý cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, tiếng Việt thời thị trường hóa ngày nay, không cần trong sáng, nếu cần đã có tiếng Mỹ làm chuẩn. Một nhà văn có tiếng, khi đi nhận giải văn học ở nước ngoài, đã phát biểu “Thưa các quí ông, thưa các quí bà”; ngày xưa chữ “quí ông, …”, tự nó đã mang số nhiều ; ngày nay vị ấy thản nhiên dùng “ các quí ông, các quí bà ”, có ai dám nói gì đâu, nếu có ai nói gì thì có khi còn bị fans của vị đánh tơi bời. Vậy thì bài này được văng [lên] mạng, chắc cũng chẳng can gì.


Cái gì vậy ?

“Âm” đây là bởi vì “cái này” nó tù mù tối tăm như âm phủ. “Phi” bởi vì nó phi lý, vô nghĩa. “Gà”, chữ Nho nghĩa là “kê”, bởi vì cái này nó tào lao, cà kê dê ngỗng. “Ri” là tiếng Tây bồi bị Việt hóa một thời đã qua, nghĩa là cười, bởi vì nó muốn hài hước.

Tiếng Pháp, tiếng Anh, có từ “amphigouri” mà hình như không có tương đương tiếng Việt; nó được định nghĩa là bài viết hay diễn văn với nội dung lộn xộn “không thể hiểu” được vì vô nghĩa, đồng thời mang tính hài hước. Vô tình hay chủ ý vô nghĩa, dưới dạng xấu của nó, cũng là dạng đáng chú ý hơn, nó còn mang tính lố lăng. Nếu nó không có trong tiếng Việt, thì phải “tạo từ” để dịch, bởi vì cắt nghĩa, không phải là dịch. Nghe nói chữ Hán được dịch là "vô ý nghĩa nhi hoạt kê đích văn chương", dài lòng thòng ; vả lại thay tiếng Tây bằng tiếng Tàu, thì cũng là “kẻ kia tám lạng người này nửa cân” [ta]. Vậy tôi liều dịch nó là “âm phi gà ri” (1). Chập lại và cắt gọn đi cũng là chuyện thường thấy trong từ ngữ Việt Nam như : “Quốc hội” vốn là “Quốc dân đại hội”; “Tuyên huấn” vốn là “Truyên truyền huấn luyện” ; “chính ủy” vốn là “chính trị ủy viên” , vv.

Đã muốn nhấn mạnh đến chữ “lố”, thì phải dịch sao cho nó lố. Cũng như đóng vai “Xúy vân giả dại” mà không diễn tả được cái “điên” (2) thì không đạt . Hoặc như khúc “le pianiste” (người đàn dương cầm) của bản nhạc “Carnaval des animaux” (cacnavan súc vật) của Saint-Saens, thì phải tả được cái “dở” thì mới là “hay”, nếu không thì sao nâng được “le pianiste” vào hàng súc vật? (3). Hoặc như có một lúc, tôi đã dịch từ “nombriliste” là “rốn nhân”.

Nhưng mục đích của tôi không phải là tạo từ để chọc đũa vào mâm các nhà ngôn ngữ học, các nhà dịch giỏi. Tôi vốn là nhà giáo, nhìn sự việc qua lăng kính của một nhà giáo (có lẽ loạn thị), cần “từ” nói trên để phát biểu ý tôi về việc học và việc đời.

Ở đây, tôi muốn nói “việc Học và việc Đời” vốn gắn chặt với nhau.

Dĩ nhiên, cần có học để có thể vào đời ; đó là một sự hiển nhiên, như tôi có dịp nhắc đi nhắc lại nhiều lần (thí dụ như trong bài báo « Góp ý kiến về việc học », tôi viết chung với GS Phan Đình Diệu và đăng trên báo Nhân Dân đăng ngày 27/12/1987), trong đó có đề cập đến mục tiêu của việc học như sau:
1.- Mục tiêu thứ nhất là tạo lập một cơ sở tri thức, văn hoá cho con người và xã hội.
a/ « Học » là một đòi hỏi của xã hội, bởi vì một xã hội tiến bộ chỉ có thể là tập hợp của những con người có trình độ hiểu biết cao.
b/ « Học » là một nhu cầu tri thức của mỗi cá nhân: nhu cầu đó cần được đáp ứng vì nó dựa trên quyền được hiểu biết của mỗi người.
2.- Mục tiêu thứ nhì là việc đào tạo chuyên môn nghề nghiệp:
a/ Đào tạo chuyên môn nghề nghiệp để đáp ứng cho các khu vực sản xuất, kinh tế, hành chính và cho các hoạt động xã hội khác của đất nước.
b/ Cho mỗi cá nhân một (hay những) chuyên môn nghề nghiệp, để mưu cuộc sống (và để thực hiện vai trò của mình trong chỗ đứng của mình trong xã hội).
Hai mục tiêu đó tạm gọi tắt là mục tiêu « kiến thức » và mục tiêu « nghề nghiệp » quan hệ với nhau, nhưng phải được phân biệt, và không nên xem là đồng nhất.
(Có thể xem chi tiết trong trang mạng của tôi http://www.buitronglieu.net).

Nhưng ngược lại, việc đời cũng gắn liền với việc học.

Theo sách Liệt nữ truyện, Mạnh tử – (tên tục là Mạnh Kha, nhà triết học Nho giáo Trung quốc, có nguồn ghi là sống vào khoảng 372–289 trước Công nguyên (4), sớm mồ côi cha, do mẹ nuôi dạy) – thuở nhỏ, nhà ở gần nghĩa địa, thấy người ta đào, chôn, lăn khóc, về nhà cũng bắt chước đào chôn, lăn , khóc. Bà mẹ thấy thế nói: “Chỗ này không phải là chỗ con ta ở được”. Rồi dọn nhà ra gần chợ. Mạnh tử ở gần chợ, thấy người ta buôn bán giả dối, lừa đảo, về nhà cũng bắt chước chơi đùa giả buôn bán lừa đảo. Bà mẹ thấy thế, lại nói: “Chỗ này không phải chỗ con ta ở được”. Bà lại dọn nhà đến ở cạnh trường học. Mạnh tử ở gần trường học, thấy trẻ đua nhau học tập lễ phép, đọc sách vở, về nhà cũng bắt chước học tập lễ phép, đọc sách vở. Bấy giờ bà mẹ mới vui lòng nói: “Chỗ này là chỗ con ta ở được đây” (5). Tất nhiên, chuyện “nhà ở gần …” chỉ mang tính ngụ ngôn, cũng như người xưa thường nói: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.

Ngày nay, nhiều bất cập trong Giáo dục đào tạo đã được phanh phui, một số đang trên đà được sửa, mặc dù kết quả rất mỏng manh. Báo chí đã nói đến, chắc chẳng cần nhắc lại.

Tôi chỉ thử nêu vài trường hợp cụ thể việc học dính tới việc đời, để làm thí dụ:

Nếu như xã hội mà dung túng việc “có bằng cấp mà không có trình độ tương xứng”, thì đương nhiên mục tiêu của việc học sẽ bị lái đi (dù cho được bưng bít bằng những mỹ từ): người ta sẽ tìm cách có bằng cấp bằng bất cứ giá nào, để chiếm được một địa vị xã hội, ăn trên ngồi trốc, mà chẳng cần có khả năng thực sự. Khi có người có quyền chức vì có được bằng cấp bằng những biện pháp bất chính, thì dẹp loạn bên dưới sao nổi trong khi loạn to bên trên? Lại thêm, không thiếu những trường hợp tôn vinh những người giả mạo bằng cấp, hay tiếm xưng, đôi khi thô thiển đến mức kỳ dị : Một vài vị “viện sĩ” trong nước quá biết mình không phải là viện sĩ thực mà chỉ vì đã trả tiền ghi tên vào một hội tư trong tên gọi mang chữ academy. Hoặc như Việt kiều cũ về trong nước, tiếp tục xưng mình là cựu giáo sư đại học ở Pháp, trong khi không có bằng cấp tương xứng để làm ứng viên vào loại chức vụ đó, dù đã là nhà nghiên cứu có cống hiến đáng kể về văn hóa (bằng cấp, và sắc lệnh tổng thống Pháp bổ nhiệm giáo sư đại học đều có thể kiểm tra) (6). Thiết tưởng khi người ta đã có danh vọng khoa học thực sự, thì cần gì phải tự phủ cho mình một lớp phấn son giả tạo như vậy. Tôi đã cố thử “giảm khinh” bằng cách nêu lý do vụ việc này là tại “những kỷ niệm sai” – theo tạp chí Science et Vie số 1089, tháng 6/2008 (7): “Hiện nay, các khoa học về nhận thức/hiểu biết cho phép ước tính là khoảng 30% cá nhân ghi trong trí nhớ những kỷ niệm sai” (nguyên văn câu tiếng Pháp là “Aujourd’hui, les sciences cognitives permettent d’estimer que 30% des individus se remémorent des faux souvenirs”) – tôi diễn dịch là “có những người có những ước mơ thuở trẻ không thực hiện được, về già vô tình tự tạo cho mình một quá khứ hoành tráng ảo mà ngỡ là có thật” ? Dù sao, sự việc ngoài đời mà như vậy thì khó mà đem làm gương, khuyến khích được sự lương thiện trong Giáo dục Đào tạo, trong giới trẻ muốn có trình độ đào tạo cao.

Nếu cứ để tồn tại việc lương nhà giáo không đủ sống và nuôi gia đình, trả học phí cao cho con cái, buộc họ phải có giải pháp bên lề, thì lời hô hào “yêu nghề” , “có lương tâm nghề nghiệp”, khó thể có hiệu quả, trong khi ngân quĩ nhà nước (cũng chính là tiền của dân) dành cho Giáo dục Đào tạo không phải là ít, và trong khi ngoài đời đầy rẫy những chi tiêu lăng nhăng phí phạm .

Tôi nhớ thuở nhỏ đi học, có bài luân lý (trong cuốn Quốc văn Giáo khoa thư “lớp sơ đẳng”): “Thấy người hoạn nạn thì thương; thấy người tàn tật lại càng trông nom; thấy người già yếu ốm mòn ; thuốc thang cứu giúp, cháo cơm đỡ đần, …” (8). Không biết cái luân lý đó, hiện còn giá trị không, trong khi cái triết lý “lợi nhuận trên hết” đang được uốn éo diễn tả uy thế đạo đức của nó, và trên cụ thể đang có những người dửng dưng trước những cảnh chênh lệch giàu nghèo quá đáng (thí dụ như đua nhập hàng ngoại thật sang vào chơi, trong khi hàng loạt học sinh nghèo phải bỏ học hay thiếu ăn, …). Có ý cho rằng người giàu có dư của cải (giả thử như người ta làm giàu không bất chính), thì người ta có quyền chơi sang, thí dụ như nhập hàng ngoại sang để sài cho thỏa, vì người ta đóng thuế cho nhà nước. Tôi không thấy thuyết phục lắm, ít nhất vì hai lẽ (hay thí dụ) có thể là chủ quan : Tôi không thể thản nhiên vênh vang ăn ngon những món sang trọng khi chung quanh bàn ăn có những trẻ em đói, đang chìa tay xin miếng cơm thừa. Tôi chưa tin rằng tiền thuế nhà nước thu được, được sử dụng hợp lý cho lợi ích của toàn dân.

Nhà trường là nơi giáo dục đào tạo nên con người, nhưng ngược lại nếu không có đạo đức ngoài đời , thì cũng khó có được đạo đức nơi nhà trường, dù là tiểu, trung hay đại học.

Nếu xã hội mà không chấn hưng , thì e rằng Giáo dục Đào tạo khó chấn hưng được một mình, và những triết lý, những văn bản về Giáo dục Đào tạo sẽ chỉ là những “âm phi gà ri”.



Chú thích:

(1) Tôi xin cám ơn tất cả các anh chị xa gần đã góp ý hoặc cho thông tin về vấn đề này và những vấn đề dưới đây.
(2) "Xúy Vân giả dại" là một đoạn trong Kim Nham , một vở chèo cổ của Việt Nam. Nội dung tóm tắt của vở chèo này là như sau : Kim Nham là một học trò nghèo ở tỉnh lấy được cô vợ đảm đang. Chàng lên Kinh trọ học; chàng vắng nhà; nàng chăn đơn gối chiếc, bị một tay nhà giàu ve vãn, xúi nàng giả dại để chồng bỏ, và hứa hẹn sau đó sẽ cưới nàng. Nàng giả điên; chồng tìm hết cách chữa chạy, thuốc men, bói toán, không kết quả, đành trả lại tự do cho nàng. Gã kia “đoạt” được nàng , rồi bỏ rơi. Xúy Vân lỡ làng, không dám trở về nhà, và từ chỗ giả điên, trở thành điên thật, lang thang ăn mày để sống. Kim Nham, đỗ đạt làm quan, một lần tình cờ gặp lại vợ cũ đang ăn xin, chàng sai người đem cho một nắm cơm trong có một nén bạc. Nàng bẻ nắm cơm, thấy nén bạc, hỏi ra mới biết là của chồng cũ. Xấu hổ (điên mà vẫn tỉnh!), nàng nhảy xuống sông tự tử.

(3) Camille Saint-Saëns (1835-1921) , nhà soạn nhạc và nhạc sỹ chơi dương cầm tài ba. Tương truyền rằng tác phẩm “Carnaval des animaux” (1886) là tác phẩm của ông viết chơi, nhưng rốt cục lại là một trong những bản nhạc của ông được biết đến nhất. Trong tác phẩm này, ông tả nhiều loại súc vật : sư tử, gà, rùa, voi, thiên nga, vv. và … người đàn dương cầm.

(4) Tôi rất lúng túng khi dùng từ“Công nguyên”, nhưng dùng từ “Tây lịch” thì cũng lúng túng không kém, vì “Tây lịch” nào : lịch julien hay lịch grégorien, hay lịch cộng hòa Pháp thuở xưa, dù cho không đụng đến lịch Hồi giáo tuy mấy nước đạo Hồi cũng ở phía Tây nước ta ? Nếu muốn, xin đọc bài “Nhân đọc lại vài tác phẩm của Zola” trong chương 3, phần 3 của cuốn “Học gần Học xa” trên trang mạng của tôi http://www.buitronglieu.net.

(5) Lại nhớ thời tôi còn nhỏ, một trong những đoạn của sách Mạnh tử mà người ta hay nhớ đến là cái đoạn “Mạnh tử kiến Lương Huệ vương. Vương viết : “Tẩu bất viễn thiên lý nhi lai, diệc hữu dĩ lợi ngô quốc hồ, …”. Tôi ghi nhớ nhất là cái đoạn câu trả lời của Mạnh tử là (tôi trích): “[…], đại phu viết hà dĩ lợi ngô gia; sĩ thứ dân viết hà dĩ lợi ngô thân ; thượng hạ giao chinh lợi, nhi quốc nguy hĩ ”. Câu này xem chừng còn thời sự chăng ?
Đã con cà con kê thì tôi cũng xin kể dài dòng chuyện bên lề một chút, để tưởng nhớ đến mấy người đã khuất : Cách đây đã 18 năm, một bữa anh Nguyễn Ngọc Giao, lúc đó đang nghỉ hè ở manoir d’Aubonne của bác Hoàng Xuân Hãn ở gần Deauville, gọi điện rủ vợ chồng tôi ra ăn cơm trưa, tôi không nhớ là vì lý do gì. 200 km cũng không xa, vợ chồng tôi ra đó ăn trưa. Bữa đó ngoài anh Giao, còn có hai bác Hãn, anh Tạ Trọng Hiệp, anh chị Bùi Mộng Hùng. Trong khi mọi người lo bếp núc, chỉ ba người luận chuyện với nhau: bác Hãn, anh Hiệp và tôi. Anh Hiệp, vốn là chuyên gia về Hán Nôm, có lẽ muốn thử trí nhớ của tôi – vì anh biết tôi thuở 11 tuổi (1945 vào dịp Nhật đảo chính Pháp, các trường học đóng cửa mấy tháng) có học vài tháng chữ Nho, và sau đó tôi phải lo học hành mưu sống, không có thì giờ mà ngó đến chữ Nho – anh bảo tôi đọc thử vài đoạn chính trong sách Mạnh tử. Thành ra ngẫu nhiên, tôi đang là nhà giáo, lại bị biến thành học trò bị hỏi thi vấn đáp. Tôi nhớ đọc tạm trôi cái đoạn sách Mạnh tử kể trên, anh Hiệp bảo “được” , còn bác Hãn chỉ mủm mỉm cười; tôi không biết tại sao. Lúc đó tôi còn luận thêm rằng : Thời Mạnh tử là thời Chiến quốc, các nước cạnh tranh nhau, nếu các quan chức làm giàu bất chính ở nước mình, xong rồi thu vén của cải, bồng bế vợ con, chạy sang nước khác thì có thể sống yên ổn hưởng cái tài sản của mình vơ được. Tôi cũng không ngờ là chuyện thời Chiến quốc, đến thời toàn cầu hóa này, có vẻ vẫn còn thời sự.
Bữa đó tôi cũng ngứa mồm luận đến câu của Mạnh Tử : “Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, và tôi luận rằng ông Trần Trọng Kim dịch là “Dân làm quí, xã tắc là thứ, vua làm khinh”; tôi hiểu chữ “khinh” ông viết là “nhẹ”, nhưng có người lại hiểu “khinh” là khinh bỉ (thời quân chủ, ai dám khinh vua, có mà mất đầu!). Bác Hãn bảo: “Phải”. Sau tôi kiểm tra lại trong cuốn Nho giáo, in lần thứ 3 (nxb Tân Việt, Sài Gòn, không đề năm in, nhưng ghi “giá ở Nam Việt là 80 $ ”– cách viết đồng bạc Đông Dương lúc đó như vậy, chứ không dùng riêng cho đồng đô-la như bây giờ – nên tôi đoán là in vào đầu những năm 50 gì đó vì các tên gọi Bắc Việt, Trung Việt, Nam Việt xuất hiện lần đầu tiên vào tháng 7/1949 trong vùng quân đội Pháp tạm chiếm), thì quả là ông Trần Trọng Kim dịch như thế, nhưng ông không luận gì về nghĩa của chữ “khinh” cả.

(6) Nhắc lại là thuở trước cuộc cải cách Savary (1984) ở Pháp, muốn là ứng viên làm giáo sư đại học ở Pháp (professeur d’Université), phải có bằng Tiến sĩ Nhà nước trong các ngành khoa học và Văn học (Doctorat d’Etat ès sciences hay Doctorat d’Etat ès Lettres). Rồi lại phải được Hội đồng khoa học toàn quốc (thuở ấy gọi là CCU, Comité Consultatif des Universités) xét hồ sơ khoa học xem có xứng đáng làm ứng viên giáo sư đại học không đã (liste d’aptitude aux fonctions de professeurs des universités), trước khi được nộp đơn làm ứng viên vào một chỗ làm giáo sư một đại học. Nếu được bàu làm giáo sư một đại học Pháp rồi, thì phải có sắc lệnh của tổng thống Pháp bổ nhiệm, thì mới đủ giá trị. Như vậy, người không có bằng Doctorat d’Etat, (bằng Doctorat d’université thuở ấy không giá trị trong vấn đề này, dù cho nội dung nghiên cứu có thể là quan trọng) không thể là giáo sư đại học Pháp được. Còn cái vụ đóng tiền để được ghi tên vào New York Academy of Sciences thì nói mãi rồi, đã nhàm. Tự xưng như vậy, chỉ có thể là mạo nhận , hay là … “nhớ nhầm”. Trước đây, tôi có viết chi tiết trong mấy bài báo, nay có thể đọc thấy trong trang mạng của tôi http://www.buitronglieu.net.

(7) Bài “Mémoire. Pourquoi elle nous trompe” gồm 2 phần : 1. Notre mémoire nous trahit … pour notre bien. 2. Notre passé invente notre futur. Science et Vie là tạp chí phổ biến khoa học, không phải là khuôn vàng thước ngọc. Tuy nhiên, cũng là một nguồn tài liệu có thể tham khảo để … giảm khinh, trong trường hợp hiện tại.

(8) Trong cuốn sách Giáo khoa thư này, các tác giả có ghi là mấy câu dạy luân lý đó lấy từ “Nguyễn Trãi gia huấn”. Điều này xem ra không phải vậy. Ngày nay, có nhiều lý do được nêu ra để phủ nhận, và cho rằng Nguyễn Trãi không thể là tác giả của Gia huấn ca. Theo tôi, cái gì hợp lý thì nên công nhận, cái gì không hợp lý thì gác sang một bên. Vì vậy ta nên tìm hiểu mọi nguồn, thí dụ như bài này:
http://www.viendu.com/bai%20viet/NguyenDu-DiTimTacGiaGiaHuanCa.htm
 

Đã đăng trên Diễn Đàn
 

            ©  http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org Bùi Trọng Liễu