Những bài cùng tác giả
I.
Định hướng cho thiết kế
1. Đặc
trưng cơ bản nhất của bậc tiểu học là thực hiện được bước phát triển từ lứa
tuổi 0-6 (ở nhà) sang lứa tuổi 6-12 (ở trường). Bước phát triển này đặc
trưng bởi sự phát triển trí tuệ, nhận thức, tư duy. (Lĩnh vực này
được nghiên cứu kỹ nhất, tập trung nhất trong triết học và tâm lý học lứa
tuổi). Đặc trưng cơ bản của bước phát triển này là từ tư duy kinh nghiệm
chủ nghĩa, với khái niệm kinh nghiệm chủ nghĩa, có được bằng các thao
tác tay chân chuyển sang tư duy khoa học với các khái niệm khoa
học, hình thành bằng các thao tác trí óc. Do đó, vào lớp Một, học
sinh thực hiện bước phát triển cơ bản, quan trọng bậc nhất của đời người
hiện đại.
Sự phát triển trí tuệ diễn ra trong lĩnh vực khoa học, bằng Hệ thống
khái niệm khoa học, gọi là Môn học.
Các Môn học khoa học làm nên cốt thép vững chắc của toà nhà trí tuệ
hiện đại, là sức mạnh “vật chất” tạo ra sự phát triển của lứa tuổi và là
nền tảng trí tuệ và tâm hồn của cả đời người. Vì vậy việc học ở lứa tuổi
này đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển cá nhân.
2. Nói
rằng, ở lứa tuổi 6-12 tuổi, sự phát triển trí tuệ đóng vai trò chủ đạo,
tự nó có nghĩa là có nhiều lĩnh vực tinh thần cùng làm nên Cuộc sống thực tự
nhiên của em:
Khoa học cho Trí tuệ.
Nghệ thuật cho Tình cảm.
Niềm tin
cho Đạo đức.
ý chí cho Lối sống.
…………………..
Tất cả đều có sẵn, hình thành một cách tự phát tự nhiên bằng kinh
nghiệm trực tiếp, ngay trong cuộc sống hằng ngày, suốt cả lứa tuổi 0-6,
nên những gì có sẵn một cách tự nhiên ấy như phù sa lắng đọng, ở tận
đáy sâu tâm hồn bé, rất bền vững, nếu đã có là mãi mãi còn đó suốt đời.
Trong các lĩnh vực Tình cảm, Đạo đức, Niềm tin, ý chí… giáo dục tiểu học vẫn
cần đến khái niệm, nhưng chỉ để làm chỗ bấu víu, định hướng, làm
chuẩn cho sự điều chỉnh (uốn nắn…). Với chức năng này, chỉ cần các
khái niệm kinh nghiệm chủ nghĩa, phù hợp với phong tục tập quán, truyền
thống lâu đời của dân tộc…
Những gì đã có trong lĩnh vực trí tuệ làm nên (gọi ước lệ) cái tài,
bên cạnh những gì còn lại trong tâm hồn làm nên cái tâm. Cái tâm đã
có là có như thế, không phát triển. Cái tài thì có năng lực phát triển, ngày
càng có nhiều hơn, với chất lượng cao hơn.
3. Bậc tiểu học hiện đại dành cho lứa tuổi 6-12 có tầm quan trọng
quyết định đối với phần đời còn lại.
- Một cách tường minh, đóng vai trò chủ đạo là sự phát triển trí tuệ,
cơ hội đầu tiên tiếp cận nền văn minh hiện đại, em có thêm những cái lần
đầu tiên có. Một mình giáo dục nhà trường tự làm lấy việc này.
- Một cách ẩn tàng, đóng vai trì nhân lõi, hình thành từ lúc lọt
lòng, là cái tâm đã có (vì không thể tường minh, nên người đời nói: cha mẹ
sinh con, trời sinh tính). Giáo dục nhà trường cùng với giáo dục gia đình
cần củng cố, tận dụng, phát huy và điều chỉnh “cái tâm” đã có này,
làm cho nó “sáng hơn”, “vững chãi” hơn…
Từ sự phân tích trên, cần tổ chức lại giáo dục tiểu học theo hướng: -
Buổi sáng
dành cho các Môn học khoa học: Toán – Tiếng Việt – Văn. -
Buổi
chiều
dành cho các Hoạt động, Ngoại ngữ, Đất nước học (bao gồm Sử - Địa –
Môi trường…).
* Sẽ tốt
hơn nữa, nếu tổ chức nhiều Hoạt động tự nguyện, với nhiều loại hình,
với các tầm cỡ, với tính đa dạng về nội dung, địa điểm, thời gian: ngày
nghỉ, ngày hè, ngày lễ… cốt tạo ra sự gặp gỡ và hoạt động chung (giao
lưu) giữa nhiều người. * Các
Môn học hiện đại tạo ra sự phát triển trí tuệ bằng sức mạnh (năng lượng)
của khái niệm khoa học hiện đại. * Các
Hoạt động (thường là ở ngoài 4 bức tường lớp học) tạo ra sự hài hoà, tự
nhiên bình thường của Cuộc sống thực hiện đại. * Cả
hai cùng nhau tạo ra sự phát triển tự nhiên của từng cá nhân học
sinh, dù ở trường hay ở nhà, dù cùng hoạt động chung với Thầy hay với bạn…
III. Xử
lý thực tiễn
A. Những
chỉ dẫn chung
Xây dựng nền giáo dục hiện đại của thế kỷ XXI cũng như xây dựng một công
trình hiện đại: Dựa vào Định hướng lý thuyết (một hình thức “ra đầu bài”) mà
xử lý thực tiễn. Trong nền văn minh hiện đại, xử lý thực tiễn trước hết bằng
Bản thiết kế, trông cậy vào Năng lực thiết kế của những cá
nhân cụ thể.
Năng lực thiết kế kết tinh lại ở sản phẩm, với một giới hạn “công suất thiết
kế”, có thể cân đo đong đếm.
Thiết kế Bậc tiểu học hiện đại, trên thực tế, là xử lý các mối quan hệ
trong từng cặp phạm trù (khái niệm cơ bản), ví dụ: -
Nhiệm vụ xã hội – chính trị / Nghiệp vụ sư phạm -
Trưởng thành / Phát triển -
Giáo dục / Tự giáo dục -
Gia đình / Nhà trường Mỗi thành
phần, ví dụ, giáo dục nhà trường, đến lượt nó, cũng có những cặp khái
niệm của mình: -
Đồng loạt / Cá thể -
Mục đích / Phương tiện -
Cái / Cách -
Thầy / Trò
Tất cả
những gì đã nêu trên (tất nhiên, còn có những vấn đề khác nữa) đều liên hệ
hữu cơ với nhau trong toàn cục, còn xử lý thực tiễn như thế
nào thì phải trông cậy vào Nghiệp vụ sư phạm.
Nghiệp vụ
sư phạm hiện đại
phải xử lý theo các quan hệ giữa các cặp phạm trù cơ bản nhất.
1. Quan
hệ Trưởng thành / Phát triển
Trẻ em
sinh ra có đến 99,9% số gen giống nhau, nhưng lớn lên không ai giống ai, mỗi
cá nhân là duy nhất, có một không hai trên thế giới. Quá trình
“lớn lên” này có hai dòng đặc trưng cơ bản nhất của Trẻ em. Lớn lên
về thể chất gọi là Trưởng thành. “Lớn lên”
về tinh thần gọi là Phát triển. Trưởng
thành là một quá trình thụ động có bản tính tự nhiên thiên nhiên, theo một
lộ trình (chương trình) vạch sẵn từ trong bụng mẹ. Phát
triển là một quá trình nhân tạo, tự tạo, chỉ có thể có được, nếu Trẻ em sống
trong xã hội loài người và sống chung với người lớn. (Các bé chó sói đưa về
nuôi có trưởng thành, nhưng không phát triển theo kiểu người). Nói cách
khác, Giáo dục / Tự giáo dục quyết định sự phát triển của Trẻ em.
2. Quan
hệ giáo dục / Tự giáo dục
Giáo dục
không có mục đích tự thân. Tự giáo
dục có mục đích tự thân, nhưng phải ở trong lòng Giáo dục của người lớn,
giống như thai nhi lớn lên trong lòng mẹ. Nói cách khác, giáo dục hiện đại
là “môi trường”, “điều kiện”, “phương tiện”, “cuống nhau” nuôi Tự giáo dục,
vì Tự giáo dục. Mối quan
hệ Giáo dục / Tự giáo dục là mối quan hệ có tính quyết định đối với đời sống
cá nhân. Mối quan hệ này luôn luôn biến động và tuỳ thuộc vào lứa tuổi, vào
thời đại… Trong mọi trường hợp, vấn đề cốt tử của giáo dục nói chung là:
Tất cả vì Tự giáo dục. (Giáo dục không có mục đích tự thân).
Trẻ em
hiện đại
phát triển qua từng lứa tuổi. Mỗi lứa tuổi có mục đích tự nhân (đóng vai trò
chủ đạo), sau đó tự biến thành cơ sở, điều kiện, phương tiện… cho
bước phát triển của lứa tuổi tiếp theo, ví dụ: -
Từ 0 đến 6 tuổi, Trẻ em tự hình thành những gì có tính sống còn, kết
thành tảng liền vững chắc, ở tận nơi sâu nhất, kiên cố nhất của tâm hồn và
đi theo em suốt đời. -
Từ 6 tuổi trở đi, Trẻ em hiện đại, tất cả 100% phải đến trường, mang theo
số vốn có sẵn từ nhà, em sẽ học để có thêm những gì chưa hề có, nhưng đã
có trong nền văn minh đương thời và đã trở thành “nhân tố tự nhiên”
của Cuộc sống thực.
3. Quan
hệ giáo dục gia đình / Giáo dục nhà trường
Giáo dục
gia đình / Giáo dục nhà trường, cả hai đều không có mục đích tự thân, cả hai
đều vì lợi ích cơ bản nhất của Trẻ em là trưởng thành bình thường và
phát triển tự nhiên. Nghiệp vụ
sư phạm hiện đại phải căn cứ vào Trẻ em, xuất phát từ Trẻ em, vì lợi ích cơ
bản nhất của từng em cụ thể (không so sánh với em khác) mà tổ chức quá
trình tự giáo dục sao cho thật tự nhiên, bình thường, không đòi hỏi phải
cố gắng. Xin lưu ý
rằng, Tự giáo dục – việc này bé đã làm từ lúc lọt lòng, ví dụ, tự bú…
Rồi bé tự học các thao tác tay chân, học nói… tất cả đều diễn ra tự nhiên,
ngay trong cuộc sống thường ngày, Việc học càng tự nhiên bao nhiêu thì càng
vững chắc, càng đáng tin cậy bấy nhiêu. Xin có
một lời khuyên này:
Đừng
cưỡng bức bé, mà có khi phải
²chịu
thua²
bé, chịu nghe theo bé, thì rồi mới mong sẽ đạt hiệu quả giáo dục tốt.
ở trường,
tự giáo dục vẫn tuân theo nguyên lý cơ bản là em tự làm ra sản phẩm giáo
dục cho chính mình, nhưng ở trường, quá trình này được Thầy giáo tổ chức
và kiểm soát sao cho sản phẩm là tất yếu, nghĩa là em học gì được nấy,
học đâu được đấy. Mối quan
hệ Gia đình / Nhà trường có bản chất là quan hệ Giáo dục gia đình / Giáo dục
nhà trường, cả hai đều có tính nhân tạo và tuỳ thuộc vào truyền thống
và nền văn minh đương thời. Nền văn
minh thế kỷ XXI rồi sẽ có nền giáo dục của riêng nó, dù là giáo dục gia đình
hay giáo dục nhà trường, nhưng về cơ bản, giáo dục gia đình vẫn cứ tự
nhiên, cuộc sống thực mách bảo gì nghe nấy. Còn giáo dục nhà trường thế
kỷ XXI thì ở trình độ tự giác cao hơn, Thầy giáo hiện đại có thể tổ chức và
kiểm soát quá trình giáo dục, dưới hình thức Công nghệ học cho các
Môn học hay Công nghệ giáo dục cho các Hoạt động, để có được những
sản phẩm đúng hay sản phẩm gần đúng.
©
http://vietsciences.free.frr
và http://vietsciences.org
Hồ Ngọc Đại
|