Những bài
cùng tác giả
Từ ngày nhậm chức, ông Bộ trưởng Giáo dục Đào tạo,
nay là Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng, đã năng nổ nêu
vấn đề người học “ngồi nhầm lớp”
(cái nhầm thứ nhất trong nền giáo dục mà ông phải
thừa hưởng khi nhậm chức) và cố gắng sửa. Trừ trường
hợp cá biệt, chắc ông đã được sự đồng tình của cả
nước.
Tuy ông không dùng cụm từ nhà giáo “đứng nhầm
lớp”, nhưng một số vấn đề ông nêu,
cũng chứng tỏ là ông cũng đã thấy vấn đề đặt ra cho
cái nhầm thứ nhì này trong nền giáo dục nói trên.
Nhưng cái nhầm thứ ba về người, còn quan trọng hơn
cả. Đó là cái mà có ai đó gọi là nhà quản lý “giữ
(ngồi) nhầm ghế ”, hay nói cho rõ : đó là
cái nhầm trao trách nhiệm cho một số nhà quản lý
giáo dục cao hay thấp, và họ nhận mà không đảm nhiệm
nổi trách nhiệm này. Cái “nhầm thứ ba” này về người
– tôi không muốn dùng cụm từ đao to búa lớn “vì cơ
chế” – là cái khó sửa nhất, tuy nó là cái trầm trọng
nhất vì chính nó đã sinh ra hai cái nhầm kể trên, và
nhiều hậu quả khác. Tất nhiên, tôi không vơ đũa cả
nắm. Ở đây, tôi không đề cập đến những người “giữ
đúng ghế” : tôi chỉ có thể hoan hô các vị. Mục đích
bài của tôi là chỉ nói đến những trường hợp “giữ
nhầm ghế” thôi.
Tôi không thể dài dòng, nên chỉ xin nêu vài thí dụ
của hậu quả của cái nhầm thứ ba này:
1/ Có những việc “thường” , mà người chẳng có chuyên
môn cũng hiểu, như : vấn đề nhà vệ sinh ở các trường
học (mặc dù nó đụng đến sức khỏe của cả triệu học
sinh, có thể kéo theo bệnh tật, mà sau này xã hội
phải trả giá rất đắt : lực lượng lao động giảm sút,
chi phí mà cá nhân và xã hội phải trả chi phí y tế
để chữa chạy); vấn đề sách giáo khoa (kể cả trọng
lượng của cái cặp của học sinh – ở Pháp, họ tính
rằng cái cặp và sách vở đựng trong đó khi học sinh
mang đến trường không được nặng quá 10% trọng lượng
của học sinh, nếu không thì sẽ hại cho cột sống của
trẻ em, và họ đề ra mấy giải pháp như sách giáo khoa
phải nhẹ, nếu cần thì tách ra làm hai, tránh bìa
cứng nặng, vở với số trang giới hạn, dùng cặp loại
nhẹ, vv.); vấn đề bạo lực và kỷ luật trong trường
học ; vấn đề chạy theo thành tích, với những con số
giả tạo về học sinh giỏi, đạt thành tích cao, ngày
nay mới được phần nào phanh phui, vv. là những vấn
đề mà nhà quản lý lẽ ra phải quan tâm ngay từ đầu.
2/ Nhưng cũng có những vấn đề “kỹ thuật” hơn:
Có vấn đề thi cử kiểm tra trình độ học tập. Đề án “2
trong 1” – gộp thi tốt nghiệp Trung học phổ thông
và thi tuyển đại học – là một đề án nguy hiểm vì 2
mục đích hoàn toàn khác nhau (nước ngoài người ta
muốn tránh, mà có người nước mình lại khẳng định
rằng làm vậy là rút kinh nghiệm của người ta). Đề án
thi “trắc nghiệm” – cũng do lý luận không chính xác
– đã có lúc lăm le đưa vào sử dụng, nay tạm thời
chỉ sử dụng “một nửa”. (Nói đơn giản cho dễ hiểu:
thi trắc nghiệm – mà tôi thấy ở Pháp, (gọi là QCM :
Questionnaires à Choix Multiples,
câu hỏi có nhiều lựa chọn giải đáp)
– là nhiều giải đáp sai xen lẫn một giải đáp đúng để
thí sinh chọn. Ngoại trừ cái nguy cơ đi thi đoán mò
mà trúng, tôi cũng liên tưởng đến ý rằng chớ để cho
hình ảnh của cái sai đã thâm nhập vào đầu, dù là
“mang máng nhớ ”, sau khó xua đuổi nó ra lắm). E
rằng việc chưa áp dụng hoàn toàn hình thức thi loại
này chỉ là kế hoãn binh, vì theo
http://www.hanoimoi.com.vn/vn/47/149988,
bài “Lấy ý kiến dân về Đề án đổi mới thi và tuyển
sinh” (gồm 6 vấn đề), 2 vấn đề dẫn trên đây
được Bộ Giáo dục Đào tạo nêu ra rõ ràng
(thí dụ như – tôi chép nguyên văn : “Chuyển việc ra
đề từ hình thức tự luận sang hình thức trắc nghiệm
đối với các môn thi, trừ môn Ngữ văn phối hợp tự
luận và trắc nghiệm”).
Trong
cái thiện ý nâng tỉ lệ nhà giáo đại học có bằng tiến
sĩ, đề án 2 vạn tiến sĩ cho 2020 trong khung cảnh mở
vung vãi rất nhiều trường đại học, gây ra nhiều nghi
vấn, vv. Vấn đề chấm điểm kiểu hành chính để đánh
giá công trình nghiên cứu, cũng gây ra nhiều câu hỏi
về trình độ hiểu biết thực sự của một số nhà quản
lý. Đó là chưa kể những chuyện cũ như vụ việc “bộ đề
thi”, việc “phong hàm giáo sư thay vì bổ nhiệm theo
chức vụ” mà đến nay vẫn chưa chỉnh được.
3/ Và cũng có những vấn đề quan trọng hơn, liên quan
đến chiến lược phát triển, đôi khi liên quan cả đến
độc lập tự chủ, đến sự tồn tại của đất nước Việt
Nam.
Vấn đề trầm trọng hơn cả là cái quan niệm “thị
trường hóa” giáo dục, hay hơn thế nữa, nói nôm na ra
là “thương mại hóa” giáo dục. Có lẽ vì nó mà sinh ra
nhiều điều kỳ lạ. Nếu sự mạo bằng cấp, tiếm xưng,
còn có thể giải thích là sự gian lận cá nhân, thì
việc “học giả bằng thật” không thể do đương sự tự
tạo ra ; nó phải có một sự “phối hợp”, hoặc đồng
lõa, hoặc chủ trương nào đó mới có thể xảy ra (lợi
tức?). Việc ẩn sau cụm từ “xã hội hóa” giáo dục,
giải thích quanh co để biện hộ cho việc đóng học phí
cao, tăng học phí, phân biệt học phí và “chi phí học
tập”, biện hộ cho lý luận “tiền nào của nấy” trong
giáo dục và đào tạo, thật là khó chấp nhận (một cách
khuyến khích nhà nước phủi tay ?), mặc dù sự bất
công phân hóa giàu nghèo rất là rõ rệt (đây là một
thứ kỳ thị theo tiền bạc), mà sự học sinh bỏ học vì
gia cảnh đã rành rành. Việc cho mở vung vãi những
đại học “ngoài công lập”, những cơ sở “giảng dạy”,
câu sinh viên với cái nhãn về những ngành được coi
là thời thượng, khi tiêu chuẩn về nhà giáo và phương
tiện học tập thiếu bảo đảm, không thể không có những
hậu quả tai hại lâu dài. Thậm chí, vì “thị trường”,
có người tóm gọn mục tiêu giáo dục đại học thành
việc đào tạo người có tay nghề để dễ có việc làm cho
công ty nước ngoài, mà bỏ qua vế chuyển giao kiến
thức, nguồn gốc của mọi nền văn minh. Một số người
lúc này tỏ vẻ mê kiểu Mỹ : không biết là họ mê
“thật” (nhưng lại không biết tiêu hóa những gì mà họ
tưởng là đã học được từ người Mỹ) hay là họ cao tay
ấn, mê “giả” vì có quyền lợi đâu đó?
Lại có người đề cao việc càng ngày càng tăng
số trường đại học hoàn toàn giảng dạy bằng tiếng
Anh. Đến một lúc nào đó, có ai sẽ đề nghị toàn thể
các đồng bào dân tộc, Kinh hay thiểu số, ở Việt Nam,
học thẳng ngay tiếng Anh từ thuở sinh ra, cho dễ
“hợp” với thị trường không ? Với lý luận về giáo
dục kiểu ấy, nền văn hóa, trí tuệ của cả một dân tộc
sẽ ra sao? vv. và vv.
Tôi nghĩ rằng không ít người Việt Nam trong hay
ngoài nước, trong hay ngoài nghề giáo, mong đợi có
những nhà quản lý “giữ đúng ghế” có đủ bản lĩnh để
ngăn chặn những sa đà tóm tắt kể trên.
Đã đăng trên tạp chí Hồn Việt số tháng12/2007
|