Những bài cùng tác giả
Không chỉ Việt nam
qui định miễn phí giáo dục ở cấp tiểu học(đến lớp 6)
mà hầu hết các quốc gia trên
thế giới đều đã có chính sách cưỡng bách giáo dục cho trẻ em dưới 15 tuổi,
xem đó là quyền lợi (của lớp trẻ) mà nhà nước phải có trách nhiệm gánh vác
trong việc nâng cao dân trí, tiền đề tạo ra nguồn nhân lực đạt chuẩn trong
việc phát triển đất nước. Quyền được
đi học, khám chữa bệnh của lứa tuổi đang trong quá trình hình thành nhân
cách và thể chất quan trọng nầy liệu có nên ”thương mại hóa”--một khuynh
hướng đang được cổ vũ hiện nay ở nước ta--dưới mô hình “xã hội hóa” hay
“quốc tế hóa” khá lạ lùng mà một trong những biểu hiện của nó là “tăng học
phí”,”trường tiểu học quốc tế”, ”dân lập”…đang rộ lên trong mấy năm gần đây.
Điều 59 hiến pháp
của nước ta qui định rất rõ ràng rằng Giáo dục cưỡng bách từ mẫu giáo đến
Trung học cơ sở (lớp 6) là trách nhiệm của nhà nước, được “miễn phí hoàn
toàn”. Điều này không phải là một chủ trương xa lạ hay mới mẻ gì.
Từ khi Nước
Việt nam “mới” ra đời năm 1945, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa đã từng bước
hình thành từ bao nhiêu năm nay, ngay cả trong thời kỳ chiến tranh ác liệt
nhất, thế hệ đang ở tuổi đi học vẫn được nhà nước và xã hội quan tâm chăm
sóc tương đối đầy đủ thể hiện tính ưu việt của chế độ, không ai
“chê bai” nền giáo dục nước nhà thậm tệ như hôm nay.
Việc phân
cấp chia lớp giỏi, dở, tạo đẳng cấp sai biệt giữa các trường mẫu giáo, tiểu
học và trung học cơ sở vô tình đã tạo ra một ý thức sai lệch và phân biệt
ngay từ khi tuổi còn thơ của các cháu, cách đối xử bất công (bất bình đẳng)
giữa các em với nhau, là nguyên nhân của những tệ nạn như chạy trường, chạy
lớp, chạy điểm và chạy “thành tích” một cách vô lý. Ngay ở lứa tuổi nầy mà
các em đã chịu tác hại của tư duy “bon chen”, “chạy chọt” như thế thì khi
trưởng thành chúng sẽ như thế nào, “sản phẩm” giáo dục của gia đình và nhà
trường theo lề lối ấy sẽ gây tai ương đến cuộc đời và cách sống, ứng xử của
những người “rường cột”sau này ra sao ?
Tương tự
như nhiều nước phát triển khác, tại Nhật bản, các em ở lớp tuổi từ mẫu giáo
đến Trung học cơ sở (đến lớp 9) bất kỳ ai cũng có thể hưởng chế độ học tập
miễn phí hoàn toàn,và còn được cung cấp (miễn hay thu phí tùy nơi và trường
hợp) buổi ăn trưa theo chế độ dinh dưỡng phù hợp để phát triển thể chất và
cả sách giáo khoa cần thiết! Một con số đáng nêu ở đây là chỉ có dưới 1% số
trường tiểu học và 4% trung học cơ sở là dân lập do các tổ chức tôn giáo,
nước ngoài hay thiện nguyện tổ chức và những trường nầy vẫn được Ủy ban Giáo
dục của Tỉnh,thành phố… (chính quyền địa phương) hỗ
trợ về kinh phí để đảm
bảo chất lượng giảng dạy ngang nhau, không hề có sự phân biệt đối xử giữa
người học trường công và kẻ học trường tư, nhà nước địa phương có quyền
phạt tù những phụ huynh cố tình cản trở hay ngăn chận việc học của con em
mình. Số em tựu trường cấp phổ thông cơ sở đạt trên 99% trừ người tàn tật,
dị dạng bẩm sinh thì hưởng qui chế giáo dục đặc biệt. Lương và phụ cấp của
giáo viên được nhà nước chi trả ½ và ngân sách địa phương lo phần còn lại,
với mức chuẩn là phải cao hơn ngạch công chức cùng cấp.
Một thí
dụ cụ thể như ở một làng quê hẻo lánh vùng rừng núi xa xôi, số học sinh tiểu
học chỉ có 3 em 3 cấp học khác nhau vì lệch tuổi nhưng Ủy ban giáo dục của
Tỉnh (hay thị xã) vẫn duy trì để bảo đảm việc học (quyền lợi)
của các em.
Tưởng rằng đây là một thí dụ cực đoan chăng ? Xin thưa rằng “không”, chẳng
những một địa phương đặc thù nào mà là một nghĩa vụ của nhà nước đối với
nhân dân, từ các đảo nhỏ ở Okinawa xa xôi đến làng quê hẻo lánh ở Hokkaido,
phía bắc Nhật bản. Hơn thế nữa, khi các em nầy phải lên học trung học cơ sở
ở thị xã hay thành phố theo qui định của giáo dục cưỡng bách thì chính quyền
địa phương phải có trách nhiệm lo nơi ăn chốn ở thích hợp để các em có thể
đeo đuổi việc học, không trở thành một gánh nặng cho gia đình, hay phải bỏ
học nửa chừng. Những điều đó cho thấy Nhật bản là một trong những nước thực
hiện chế độ giáo dục cưỡng bách khá triệt để, lớp tuổi nầy được “đào tạo”
thành những công dân cơ bản, có trình độ ngang nhau và có thể học nghề (4%),
tỷ lệ lên Trung học phổ thông (cấp 3) là 94%* hay thăng tiến sau nầy vào
giáo dục đại học hay cao đẳng với một tỷ lệ không nhỏ (chiếm 40% số học
sinh tốt nghiệp cấp 3).Tất nhiên, trong quá trình hoàn thiện một chế độ giáo
dục hợp thời,bắt kịp với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, Nhật bản cũng
như các nước khác luôn bắt buộc phải “xem lại” các chính sách giáo dục hiện
thời nếu không nói là cải cách liên tục để đáp ứng tối ưu nhu cầu về nhân
lực trong những thập niên tới cũng như khắc phục những tệ nạn trong xã hội
thanh thiếu niên đang diễn ra không kém gay gắt như hiện tượng bỏ học, chọc
ghẹo phải bỏ lớp, tự vẫn hay bệnh Hikkomori (núp trong phòng riêng, sợ tiếp
xúc)…. không kể các hội chứng về vi tính,
điện thoại cầm tay, blog trên
internet ngày càng tăng gia với tốc độ khủng khiếp.
Mặt khác,
khách quan chúng ta có thể hiểu điều nầy qua việc nhiều con em của các gia
đình “di tản” ở các nước đều được học hành, thậm chí còn được hưởng chế độ
đặc biệt như kèm học tiếng để có thể hội nhập và theo đuổi các bạn cùng
lứa, tỷ lệ thành công trong việc học của con em người Việt sinh sống nước
sở tại là những thí dụ cụ thể nhất. Có phải vì “xem trọng người Việt đến đây
sinh sống ?”, không phải, mà đó là quyền lợi của mọi trẻ em trước tuổi
trưởng thành mà xã hội nước đó qui định.
Ở thành
phố HCM hay Hà nội hiện tượng cha mẹ “chạy” cho con em không phải là ít vì
lo âu cho tương lai cho con mình. Các em học sinh thì tối tăm mặt mũi, ngoài
phần học ở trường lớp, còn học thêm (phụ đạo) với thầy cô tại nhà (hay tại
lớp), rồi còn “tranh thủ” học thêm vi tính, tiếng Anh, học đàn… đến choáng
ngợp. Sự phân cấp giàu nghèo càng rõ nét khi các cháu xin vào trường “quốc
tế” trong khi nội dung học tập thì hầu như bỏ ngỏ cho nước ngoài (hay người
Việt đứng liên doanh) không hề có sự chỉ đạo và quản lí chặt chẽ của cơ quan
chức năng ngoài việc xét duyệt giấy phép lập trường! Giáo dục “cưỡng bách”
vô hình trung trở thành những “sản phẩm” thương mại trọn gói mà không cần
đăng kí chất lượng, chẳng rõ thành phần giáo viên “pha chế”, “nguyên
liệu”giáo trình, “nhào nặn”ở trường lớp…ra sao. Nay lại tăng học phí ở những
trường công lập với những biện bạch như không đủ tiền trả lương đầy đủ cho
thầy cô, vì ngân sách hạn chế, phải tăng học phí mới đảm bảo chất lượng…
nhưng liệu điều đó có phải “nhà nước” đang làm ngơ trách nhiệm tối hậu của
mình, trút trách nhiệm lên đầu phụ huynh học sinh, những người nghèo,
công
nhân hay nông dân lam lũ với cuộc sống chật vật.
Tư duy
“thương mại hóa” hay “xã hội hóa” giáo dục ở cấp cơ sở ra đời trong sự phản
đối của nhiều người trong cũng như ngoài ngành giáo dục, những ai tâm huyết
và lo lắng cho nền giáo dục nước nhà trước một điều mà chúng ta không thể
tưởng tượng nổi, đi ngược lại xu thế phát triển, rằng càng phát triển nhân
dân càng được hưởng lợi (phúc lợi xã hội)
nhiều chứ không phải ngày càng gánh chịu nặng nề hơn những chi phí lẽ ra nhà
nước phải có trách nhiệm bảo đảm từ ngân sách nhà nước như giáo dục,y tế,
giao thông công cộng…. Hiện nay giáo dục
cấp mầm non, tiểu học và trung học cơ sở kèm theo biết bao nhiêu “đóng góp”
đủ thứ phí không thành văn cho nhà trường (cơ sở vật chất,
trang thiết bị dạy
học…) chẳng theo luật nhưng là một cái “lệ”
thực tế trong cuộc sống thì liệu giáo dục cấp cao hơn (cao đẳng,đại học…) sẽ
còn được”thương mại hóa”đến đâu khi cung không đủ cầu và được nhà nước (bộ
giáo dục) ủng hộ tối đa trong khi giáo dục ở những cấp nầy đang trở thành
những món hàng kinh doanh béo bở, siêu lợi nhuận không thể khiếu nại, với
đầu vào và đầu ra không đạt “chuẩn” (dù là chuẩn cấp thấp) như chúng ta đã
thấy hiện trạng về giáo dục ở 25 trường đại học mới được thành lập ở các địa
phương trong năm 2006. Hiện tượng sinh viên tốt
nghiệp không có việc làm, phải đổi nghề hay học lại khá phổ biến.
Về thực trạng giáo dục và
việc tăng chi phí ở cấp đại học, chúng tôi sẽ xin tiếp tục ở một bài khác,
tuy nhiên lời phát biểu gần đây của BT Nguyễn thiện Nhân rất
ấn tượng, rằng “Tăng học phí là một đột phá trong tài chính cho giáo
dục đại học, thay vì trả học phí thấp theo mức thu nhập hiện tại của quốc
gia và người dân thì chúng ta phải trả học phí ở mức đảm bảo chất lượng đào
tạo, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và xã hội…” (trả lời phỏng vấn của
VTC, ngày 10/10/2007) là một quan điểm cần được trao đổi thêm để làm sáng
tỏ vấn đề “tăng học phí” và tìm hiểu mối liên
quan của “học phí” với chất lượng đào tạo một cách khoa học hơn.
10/2007
* 24% số học sinh trung học cấp 3 là
học trường dân lập (tư) vì muốn vào đại học cùng nơi (hệ)sau khi tốt nghiệp.
Thí dụ học sinh học trường THPT Keio là để sau khi tốt nghiệp vào được học
đại học Keio nổi tiếng. Tỷ lệ đại học dân lập có luôn trường trung học cấp 3
là không nhỏ vì vậy tỷ lệ học sinh học THPT (cấp 3) khá phổ biến (chi phí
khoảng 2500 USĐ/năm trong khi trường công lập là miễn phí) .Đây
là chi tiết quan trọng cho thấy cấp giáo dục càng lên cao thì việc thương
mại hóa và “sản phẩm” kinh doanh trong giáo dục lại càng nhiều theo khuynh
hướng của Mỹ. ._____________________________________________________
Bảng . Phạm vi miễn phí của
trường công lập trong chế độ cương bách giáo dục
Nước |
SGK |
Phí Đi lại
|
Khác |
Nhật
|
MP , hằng năm nhận
sách mới
|
Tự lo
|
Cơm ở trường,du ịch…trả, tham
quan
|
Mỹ
|
MP |
MP
|
Cơm ở trường..trả, Tham quan |
Anh
|
0 |
MP
|
Cơm ở trường.. trả |
Pháp |
0
|
0X |
Cơm ở trường..trả |
Đức |
0 |
MP |
Mang theo |
Hàn quốc |
MP |
MP |
Cơm ở trường..trả |
-Tất cả các nước nêu
trên đều miễn học phí
-NB và HQ cấp sách giáo khoa miễn
phí (MP), các nước khác cho mượn miễn phí (O)
-Chi phí đi lại chỉ có Pháp là tùy
theo từng tỉnh, có nơi MP, có nơi thu (OX). 1/3 là miễn phí. Ở NB có chế độ
giá vé tàu xe học sinh (1/10 giá qui định)
-Cơm trưa tại trường đều phải chi
trả, trừ người thuộc diện quá nghèo, khó khăn thì được miễn.
-Tham quan theo chương trình học đều
được miễn
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Hồng Lê Thọ
|