Giáo dục cưỡng bách có thể thương mại hóa hay xã hội hóa ?!

Vietsciences- Hồng Lê Thọ       17/10/2007
 

Những bài cùng tác giả

 

Không chỉ Việt nam qui định miễn phí giáo dục ở cấp tiểu học(đến lớp 6) mà hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đã có chính sách cưỡng bách giáo dục cho trẻ em dưới 15 tuổi, xem đó là quyền lợi (của lớp trẻ) mà nhà nước phải có trách nhiệm  gánh vác trong việc nâng cao dân trí, tiền đề tạo ra nguồn nhân lực đạt chuẩn trong việc phát triển đất nước. Quyền được đi học, khám chữa bệnh của lứa tuổi đang trong quá trình hình thành nhân cách và thể chất quan trọng nầy liệu có nên ”thương mại hóa”--một khuynh hướng đang được cổ vũ hiện nay ở nước ta--dưới mô hình “xã hội hóa” hay “quốc tế hóa” khá lạ lùng  mà một trong những biểu hiện của nó là “tăng học phí”,”trường tiểu học quốc tế”, ”dân lập”…đang rộ lên trong mấy năm gần đây.

Điều 59 hiến pháp của nước ta qui định rất rõ ràng rằng Giáo dục cưỡng bách từ mẫu giáo đến Trung học cơ sở  (lớp 6) là trách nhiệm của nhà nước, được “miễn phí hoàn toàn”. Điều này không phải là một chủ trương xa lạ hay mới mẻ gì. Từ khi Nước Việt nam “mới” ra đời năm 1945, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa đã từng bước hình thành từ bao nhiêu năm nay, ngay cả trong thời kỳ chiến tranh ác liệt nhất, thế hệ đang  ở tuổi đi học vẫn được nhà nước và xã hội quan tâm chăm sóc tương đối đầy đủ thể hiện tính ưu việt của chế độ, không ai “chê bai” nền giáo dục nưc nhà thậm tệ như hôm nay.

Việc phân cấp chia lớp giỏi, dở, tạo đẳng cấp sai biệt giữa các trường mẫu giáo, tiểu học và trung học cơ sở vô tình đã tạo ra một ý thức sai lệch và phân biệt ngay từ khi tuổi còn thơ của các cháu, cách đối xử bất công (bất bình đẳng) giữa các em  với nhau, là nguyên nhân của những tệ nạn như chạy trường, chạy lớp, chạy điểm và chạy “thành tích” một cách vô lý. Ngay ở  lứa tuổi nầy mà các em đã chịu tác hại của tư duy “bon chen”, “chạy chọt” như thế thì khi trưởng thành chúng sẽ như thế nào, “sản phẩm” giáo dục của gia đình và nhà trường theo lề lối ấy sẽ gây tai ương đến cuộc đời  và cách sống, ứng xử của những người “rường cột”sau này ra sao ?

Tương tự như nhiều nước phát triển khác, tại Nhật bản, các em ở lớp tuổi từ mẫu giáo đến Trung học cơ sở (đến lớp 9) bất kỳ ai cũng có thể hưởng chế độ học tập miễn phí hoàn toàn,và còn được cung cấp (miễn hay thu phí tùy nơi và trường hợp) buổi ăn trưa theo chế độ dinh dưỡng phù hợp để phát triển thể chất và cả sách giáo khoa cần thiết! Một con số đáng nêu ở đây là chỉ có dưới 1% số trường tiểu học và 4% trung học cơ sở là  dân lập do các tổ chức tôn giáo, nước ngoài hay thiện nguyện tổ chức và những trường nầy vẫn được Ủy ban Giáo dục của Tỉnh,thành phố… (chính quyền địa phương) hỗ trợ về kinh phí để đảm bảo chất lượng giảng dạy ngang nhau, không hề có sự phân biệt đối xử giữa người học trường công và kẻ học trường tư, nhà nước địa phương có quyền phạt tù những phụ huynh cố tình cản trở hay ngăn chận việc học của con em mình. Số em tựu trường cấp phổ thông cơ sở đạt trên 99% trừ người tàn tật, dị dạng bẩm sinh thì hưởng qui chế giáo dục đặc biệt. Lương và phụ cấp của giáo viên được nhà nước chi trả ½ và ngân sách địa phương lo phần còn lại, với mức chuẩn là phải cao hơn ngạch công chức cùng cấp.

 Một thí dụ cụ thể như ở một làng quê hẻo lánh vùng rừng núi xa xôi, số học sinh tiểu học chỉ có 3 em 3 cấp học khác nhau vì lệch tuổi nhưng Ủy ban giáo dục của Tỉnh (hay thị xã) vẫn duy trì để bảo đảm việc học (quyền lợi) của các em. Tưởng rằng đây là một thí dụ cực đoan chăng ? Xin thưa rằng “không”, chẳng những một địa phương đặc thù nào mà là một nghĩa vụ của nhà nước đối với nhân dân, từ các đảo nhỏ ở Okinawa xa xôi đến làng quê hẻo lánh ở Hokkaido, phía bắc Nhật bản. Hơn thế nữa, khi các em nầy phải lên học trung học cơ sở ở thị xã hay thành phố theo qui định của giáo dục cưỡng bách thì chính quyền địa phương phải có trách nhiệm lo nơi ăn chốn ở thích hợp để các em có thể đeo đuổi việc học, không trở thành một gánh nặng cho gia đình, hay phải bỏ học nửa chừng. Những điều đó cho thấy Nhật bản là một trong những nước thực hiện chế độ giáo dục cưỡng bách khá triệt để, lớp tuổi nầy được “đào tạo” thành những công dân cơ bản, có trình độ ngang nhau và có thể học nghề (4%), tỷ lệ lên Trung học phổ thông (cấp 3) là 94%* hay thăng tiến sau nầy vào giáo dục đại học hay cao đẳng với một tỷ lệ không nhỏ (chiếm 40% số học sinh tốt nghiệp cấp 3).Tất nhiên, trong quá trình hoàn thiện một chế độ giáo dục hợp thời,bắt kịp với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, Nhật bản cũng như các nước khác luôn bắt buộc phải “xem lại” các chính sách giáo dục hiện thời nếu không nói là cải cách liên tục để đáp ứng tối ưu nhu cầu về nhân lực trong những thập niên tới cũng như khắc phục những tệ nạn trong xã hội thanh thiếu niên đang diễn ra không kém gay gắt như hiện tượng bỏ học, chọc ghẹo phải bỏ lớp, tự vẫn hay bệnh Hikkomori (núp trong phòng riêng, sợ tiếp xúc)…. không kể các hội chứng về vi tính, điện thoại cầm tay, blog trên internet ngày càng tăng gia với tốc độ khủng khiếp.

Mặt khác, khách quan chúng ta có thể hiểu điều nầy qua việc nhiều con em của các gia đình “di tản” ở các nước đều được học hành, thậm chí còn được hưởng chế độ đặc biệt như kèm học tiếng để có thể hội nhập và theo đuổi các bạn cùng lứa,  tỷ lệ thành công trong việc học của con em người Việt sinh sống nước sở tại là những thí dụ cụ thể nhất. Có phải vì “xem trọng người Việt đến đây sinh sống ?”, không phải, mà đó là quyền lợi của mọi trẻ em trước tuổi trưởng thành mà xã hội nước đó qui định.

Ở thành phố HCM hay Hà nội hiện tượng cha mẹ  “chạy” cho con em  không phải là ít vì lo âu cho tương lai cho con mình. Các em học sinh thì tối tăm mặt mũi, ngoài phần học ở trường lớp, còn học thêm (phụ đạo) với thầy cô tại nhà (hay tại lớp), rồi còn “tranh thủ” học thêm vi tính, tiếng Anh, học đàn… đến choáng ngợp. Sự phân cấp giàu nghèo càng rõ nét khi các cháu xin vào trường “quốc tế” trong khi nội dung học tập thì hầu như bỏ ngỏ cho nước ngoài (hay người Việt đứng liên doanh) không hề có sự chỉ đạo và quản lí chặt chẽ của cơ quan chức năng ngoài việc xét duyệt giấy phép lập trường! Giáo dục “cưỡng bách” vô hình trung trở thành những “sản phẩm” thương mại trọn gói mà không cần đăng kí chất lượng, chẳng rõ thành phần giáo viên “pha chế”, “nguyên liệu”giáo trình, “nhào nặn”ở trường lớp…ra sao. Nay lại tăng học phí ở những trường công lập với những biện bạch như không đủ tiền trả lương đầy đủ cho thầy cô, vì ngân sách hạn chế, phải tăng học phí mới đảm bảo chất lượng… nhưng liệu điều đó có phải “nhà nước” đang làm ngơ trách nhiệm tối hậu của mình, trút trách nhiệm lên đầu phụ huynh học sinh, những người nghèo, công nhân hay nông dân lam lũ với cuộc sống chật vật.

 Tư duy “thương mại hóa” hay “xã hội hóa” giáo dục ở cấp cơ sở ra đời trong sự phản đối của nhiều người trong cũng như ngoài ngành giáo dục, những ai tâm huyết và lo lắng cho nền giáo dục nước nhà trước một điều mà chúng ta không thể tưởng tượng nổi, đi ngược lại xu thế phát triển, rằng càng phát triển nhân dân càng được hưởng lợi (phúc lợi xã hội) nhiều chứ không phải ngày càng gánh chịu nặng nề hơn những chi phí lẽ ra nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm từ ngân sách nhà nước như giáo dục,y tế, giao thông công cộng…. Hiện nay giáo dục cấp mầm non, tiểu học và trung học cơ sở  kèm theo biết bao nhiêu “đóng góp” đủ thứ phí không thành văn cho nhà trường (cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học…) chẳng theo luật nhưng là một cái “lệ” thực tế trong cuộc sống thì liệu giáo dục cấp cao hơn (cao đẳng,đại học…) sẽ còn được”thương mại hóa”đến đâu khi cung không đủ cầu và được nhà nước (bộ giáo dục) ủng hộ tối đa trong khi giáo dục ở những cấp nầy đang trở thành những món hàng kinh doanh béo b, siêu lợi nhuận không thể khiếu nại, với đầu vào và đầu ra  không đạt “chuẩn” (dù là chuẩn cấp thấp) như chúng ta đã thấy hiện trạng về giáo dục ở 25 trường đại học mới được thành lập ở các địa phương trong năm 2006. Hiện tượng sinh viên tốt nghiệp không có việc làm, phải đổi nghề hay học lại khá phổ biến.

Về thực trạng giáo dục và việc tăng chi phí ở cấp đại học, chúng tôi sẽ xin tiếp tục ở một bài khác, tuy nhiên lời phát biểu gần đây của BT Nguyễn thiện Nhân rất ấn tượng, rằng “Tăng học phí là một đột phá trong tài chính cho giáo dục đại học, thay vì trả học phí thấp theo mức thu nhập hiện tại của quốc gia và người dân thì chúng ta phải trả học phí ở mức đảm bảo chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và xã hội…” (trả lời phỏng vấn của VTC, ngày 10/10/2007) là một quan điểm cần  được trao đổi thêm để làm sáng tỏ vấn đề “tăng học phí” và tìm hiểu mối liên quan của “học phí” với chất lượng đào tạo một cách khoa học hơn.

10/2007

* 24% số học sinh trung học cấp 3 là học trường dân lập (tư) vì muốn vào đại học cùng nơi (hệ)sau khi tốt nghiệp. Thí dụ học sinh học trường THPT Keio là để sau khi tốt nghiệp vào được học đại học Keio nổi tiếng. Tỷ lệ đại học dân lập có luôn trường trung học cấp 3 là không nhỏ vì vậy tỷ lệ học sinh học THPT (cấp 3) khá phổ biến (chi phí khoảng 2500 USĐ/năm trong khi trường công lập là miễn phí) .Đây là chi tiết  quan trọng cho thấy cấp giáo dục càng lên cao thì việc thương mại hóa và “sản phẩm” kinh doanh trong giáo dục lại càng nhiều theo khuynh hướng của Mỹ. ._____________________________________________________

Bảng . Phạm vi miễn phí của trường công lập trong  chế độ cương bách giáo dục

Nước SGK Phí Đi lại   Khác
Nhật MP , hằng năm nhận sách mới Tự lo  Cơm ở trường,du ịch…trả, tham quan
Mỹ   MP MP Cơm ở trường..trả, Tham quan
Anh   0 MP Cơm ở trường.. trả
Pháp 0 0X Cơm ở trường..trả
Đức 0 MP Mang theo
Hàn quốc MP MP Cơm ở trường..trả

                                              

-Tất cả các nước nêu trên đều miễn học phí

-NB và HQ cấp sách giáo khoa miễn phí (MP), các nước khác cho mượn miễn phí (O)

-Chi phí đi lại chỉ có Pháp là tùy theo từng tỉnh, có nơi MP, có nơi thu (OX). 1/3 là miễn phí. Ở NB có chế độ giá vé tàu xe học sinh (1/10 giá qui định)

-Cơm trưa tại trường đều phải chi trả, trừ người thuộc diện quá nghèo, khó khăn thì được miễn.

-Tham quan theo chương trình học đều được miễn

 

 

            ©  http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org Hồng Lê Thọ