Những bài
cùng tác giả
Gần đây, báo VietNamNet nêu câu hỏi
“Đại học Việt
Nam đẳng cấp quốc tế: Tại sao không?”
và kêu gọi bạn đọc tham gia thảo
luận. Trong điều kiện hiện
nay, có thể nói đây là một ý nghĩ
táo bạo. Nhưng tình trạng
“chảy máu chất xám” hiện nay ở nước
ta, sự có mặt tương đối đông đảo của
người Việt trong thành phần khoa
bảng thuộc các trường đại học nước
ngoài, và tham vọng công nghiệp hóa
đất nước, thiết tưởng ý nghĩ này
không phải là quá xa vời. Thực
ra, chẳng riêng gì nước ta, hầu như
nước nào cũng mong muốn có một đại
học đẳng cấp quốc tế, nhưng ít ai
bàn cụ thể một đại học như thế đòi
hỏi những gì và phải vận hành ra
sao. Qua bài viết này tôi muốn
đóng góp một vài ý kiến chung quanh
chủ đề này.
Ý tưởng về một đại học đẳng cấp quốc
tế được hình thành ở Đức từ thời
cuối thế kỉ 19. Theo đó, một
đại học đẳng cấp quốc tế không chỉ
đơn thuần là một trung tâm đào tạo
xuất sắc theo các tiêu chuẩn quốc
tế, mà chủ yếu là một trung tâm
nghiên cứu khoa học kĩ thuật.
Nhưng câu hỏi đặt ra ai là người đề
ra những tiêu chuẩn này? Chưa
ai trả lời được câu hỏi này, nhưng
nói đến một đại học đẳng cấp quốc tế
tức là nói đến một bối cảnh xuyên
quốc gia. Và, theo xu hướng
quốc tế, các đại học danh tiếng ở Mĩ
và Tây phương thường được xem là
những mô hình “chuẩn” để tham khảo.
Theo sắp hạng của các tạp chí quốc
tế, các đại học hàng đầu thế giới là
Harvard, Yale, Stanford, MIT,
California Institute of Technology,
Cambridge, Oxford, Sorbonne, và
Tokyo. Nhìn qua những đại học này
chúng ta thấy vài đặc điểm chung, và
cũng có thể là những yêu cầu mà
chúng ta phải xem xét đến:
Thứ nhất, một đại học đẳng cấp quốc
tế cần phải có những giáo sư đẳng
cấp quốc tế. Đó là những
giáo sư, nhà nghiên cứu có uy tín
cao trên trường quốc tế, những người
“có tên tuổi” trong lĩnh vực chuyên
môn của họ. Điều này đòi hỏi
chúng ta không chỉ thu hút giáo sư
giỏi gốc Việt ở trong và ngoài nước,
mà còn phải thu hút cả những nhà
nghiên cứu tài danh quốc tịch nước
ngoài. Chẳng hạn như trong nỗ
lực nâng cao khả năng nghiên cứu và
phát triển, một số nước trong vùng Á
châu như Đài Loan đã thu hút được
Yang Chen Ning (giải Nobel vật lí)
về làm việc, và Hàn Quốc đã thuyết
phục Robert Laughlin từ Mĩ (giải
Nobel vật lí, Đại học Stanford) về
nghiên cứu tại Viện Khoa học và Công
nghệ. Điều kiện để thu hút các
giáo sư đẳng cấp quốc tế như thế là
một môi trường làm việc tự do để họ
có thể theo đuổi định hướng nghiên
cứu của họ, tự do tuyển dụng chuyên
gia nghiên cứu, tự do phát biểu ý
kiến về những vấn đề khoa học mà
không chịu sự ràng buộc hay chi phối
từ các áp lực chính trị và quản lí
hành chính.
Thứ hai, một đại học đẳng cấp quốc
tế phải là nơi nuôi dưỡng những
tài năng đẳng cấp quốc tế tương lai.
Cơ chế tuyển dụng và nuôi dưỡng các
nhà nghiên cứu trẻ có tiềm năng lớn
cần phải được minh bạch và công
bằng. Những ai từng quen thuộc
với cơ chế tuyển dụng của các trường
đại học lớn ở Mĩ đều biết rằng các
giáo sư và nhà nghiên cứu cấp thấp
thường được nâng đỡ trong vòng 3 đến
5 năm để họ tự chứng minh khả năng
của mình, sau đó họ phải trải qua
một quá trình bình duyệt từ bên
ngoài, và chỉ có những người xuất
sắc với những nghiên cứu đẳng cấp
quốc tế mới được giữ lại làm việc.
Dù cơ chế này chưa thể áp dụng cho
các trường đại học ở nước ta, nhưng
một đại học đẳng cấp quốc tế phải
xem xét đến cách thức nuôi dưỡng
nhân tài như thế.
Thứ ba, một đại học đẳng cấp quốc tế
cần phải có (hay tạo ra) một môi
trường nghiên cứu với những cơ
sở vật chất nghiên cứu đầy đủ.
Những công trình nghiên cứu tiên
tiến và sáng tạo nhất phụ thuộc một
phần lớn vào những thông tin mới
nhất và cơ sở thí nghiệm thích hợp.
Một đại học ngày nay, cho dù là đại
học không phải đẳng cấp quốc tế, khó
mà vận hành một cách hữu hiệu nếu
không có một hệ thống thư viện và
internet hoàn chỉnh. Do đó,
nhu cầu cho một thư viện đẳng cấp
quốc tế
với hàng triệu sách tham khảo và
tạp chí khoa học là một điều kiện
hàng đầu.
Thứ tư, để tận dụng năng lực của các
giáo sư đẳng cấp quốc tế cần phải có
ngân sách nghiên cứu dồi dào.
Và nghiên cứu phải là những nghiên
cứu cơ bản, bởi vì phần lớn những
tiến bộ khoa học gần đây đều xuất
phát từ những công trình nghiên cứu
cơ bản, đặc biệt là công nghệ sinh
học. Một công trình nghiên cứu
khoa học cơ bản trung bình có thể
tốn đến một triệu USD trong một năm.
Thành ra, không ngạc nhiên khi thấy
ngân sách dành cho nghiên cứu tại
các trường đại học lớn của Mĩ có khi
lên đến con số một tỉ USD. Tại
nhiều trường đại học Tây phương ngày
nay, trường đại học chỉ cung ứng cho
nghiên cứu và trả lương giáo sư
trong vòng 3 hay 5 năm, sau thời
gian này giáo sư phải tự tìm lấy
nguồn tài trợ cho nghiên cứu. Thành
ra, dù rằng một phần ngân sách
nghiên cứu (có thể là 60%) do nhà
nghiên cứu tìm được từ nước ngoài,
nhưng trường đại học vẫn phải sẵn
sàng cung ứng khi nguồn tài trợ từ
nước ngoài gặp khó khăn.
Thứ năm, dù đối với các giáo sư hay
nhà nghiên cứu đẳng cấp quốc tế,
lương bổng có thể không phải là
mối quan tâm hàng đầu, nhưng phần
lớn họ đều mong muốn được hưởng
lương bổng theo giá thị trường quốc
tế. Không thể kì vọng một giáo
sư với hàng trăm ngàn USD lương bổng
lại chịu làm việc tại một đại học
đẳng cấp quốc tế Việt Nam với số
lương 50 ngàn USD. Còn nhớ khi
Hồng Kông được Anh trao trả về Trung
Quốc, rất nhiều giáo sư ngoại quốc
rời bỏ các đại học Hồng Kông vì họ
không thể sống với lương bổng mới và
cách quản lí mới. Phải cần đến
5 năm các đại học Hồng Kông mới mời
các giáo sư này quay lại làm việc.
Một đại học đẳng cấp quốc tế như các
điều kiện trên sẽ xây dựng dựa vào
các đại học đang tồn tại hay một đại
học hoàn toàn mới? Kinh nghiệm
trong thời gian qua về sự hình thành
của Đại học quốc gia cho thấy việc
chuyển các trường đại học hiện có
thành một đại học cực kì khó khăn và
đòi hỏi nhiều tiền bạc cũng như thời
gian. Do đó, tôi đề nghị Nhà
nước cần phải mạnh dạn xây dựng một
đại học mới và độc lập, với những
tiêu chuẩn quốc tế. Một trường
đại học đẳng cấp quốc tế có giá trị
hơn nhiều đại học trung bình, vì nó
sẽ phục vụ như là một đầu tàu cống
hiến vào nỗ lực phát triển khoa học
và công nghệ để góp phần đưa nước ta
vào hạng các nước đã phát triển.
Kinh nghiệm ở Mĩ cho thấy phần lớn
khám phá khoa học quan trọng đều
xuất phát từ các đại học danh tiếng,
và qua đó các đại học này góp phần
giữ vị thế lãnh đạo của Mĩ trong
khoa học và công nghệ.
Nhưng cũng nên cân nhắc trước những
hệ quả của việc xây dựng một đại học
đẳng cấp quốc tế ở nước ta.
Thứ nhất, cần phải nhận thức rằng
một đại học đẳng cấp quốc tế không
phải ưu tú trong tất cả mọi bộ môn
khoa học. Chẳng hạn như Đại
học Harvard chưa bao giờ đứng đầu
trong các ngành kĩ thuật. Do
đó một số đại học trên thế giới tập
trung vào việc xây dựng các phân
khoa “mạnh” để trở thành những trung
tâm nghiên cứu hàng đầu, như Mã Lai
tập trung vào công nghệ thông tin và
công nghệ cao su nhằm đáp ứng nhu
cầu địa phương.
Ở Việt Nam ta cũng có thể tập trung
vào công nghệ thông tin và
nghiên cứu
nông nghiệp.
Tập trung tài lực vào thiết lập một
đại học đẳng cấp quốc tế có thể gây
ảnh hưởng không tốt đến các đại học
khác và hệ thống khoa bảng.
Bởi vì dồn tài chính và nhân lực vào
việc xây dựng một trung tâm nghiên
cứu cấp cao sẽ ảnh hưởng đến ngân
sách cho nhu cầu giảng dạy của các
trường khác. Một đại học đẳng
cấp quốc tế đặt kì vọng rất cao vào
các giáo sư và nhà nghiên cứu, và
nếu những kì vọng này không đạt được
nó có thể ảnh hưởng đến tinh thần
làm việc của giáo sư và sinh viên
nói chung.
Trước những yêu cầu này có lẽ nhiều
bạn đọc sẽ hỏi trong điều kiện còn
nhiều khó khăn hiện nay liệu bao giờ
chúng ta mới có một đại học đẳng cấp
quốc tế. Vào cuối thế kỉ 19 ở
Mĩ, cũng có người đặt câu hỏi đó.
John D. Rockefeller từng hỏi Charles
W. Eliot (lúc đó là hiệu trưởng Đại
học Harvard suốt 40 năm liền) nếu
muốn thành lập một đại học đẳng cấp
quốc tế cần những điều kiện gì.
Eliot trả lời rằng cần 50 triệu USD
và 200 năm! Nhưng Eliot đã sai
lầm to. Trường Đại học Chicago
được thành lập vào đầu thế kỉ 20,
với trên 50 USD (do chính
Rockefeller trao tặng) nhưng chỉ sau
20 năm hoạt động, đã trở thành một
đại học đẳng cấp quốc tế.
Tất nhiên, đó là câu chuyện thời
xưa, thời mà trường đại học còn rất
hiếm và sự cạnh tranh quyết liệt
giữa các trường đại học chưa xảy ra,
nhưng câu chuyện cho chúng ta một
bài học: muốn có một đại học đẳng
cấp quốc tế, điều kiện tiên quyết là
tài chính và thời gian. Kinh
nghiệm của các trường như MIT và
Stanford ở Mĩ cho thấy trong thời
gian đầu Nhà nước phải tài trợ cho
các trường này, và sau một thời gian
hoạt động, nhất là kết quả nghiên
cứu được ứng dụng trong công nghiệp,
họ có khả năng tự tìm nguồn tài trợ
từ tư nhân hay từ các học sinh cũ.
Ở nước ta, năm 2020 thường được đề
cập đến như một cái mốc thời điểm để
hoàn thành công cuộc kĩ nghệ hóa và
hiện đại hóa đất nước. Thời
gian 20 năm không phải là dài, nếu
không muốn nói là quá ngắn, cho một
mục tiêu xây dựng một đại học đẳng
cấp quốc tế đầy thử thách và tham
vọng này. Tuy nhiên, nếu lịch
sử là một bài học quí thì kinh
nghiệm từ các đại học trên cũng cho
chúng ta lí do và động cơ để phấn
đấu.
Đôi điều bàn thêm về đại đọc đẳng cấp quốc tế
Từ
chuyến viếng thăm Mĩ của Thủ tướng Phan Văn Khải vào cuối tháng Sáu vừa qua,
ý tưởng thành lập một đại học đẳng cấp quốc tế (1) cho Việt Nam đang được
nhiều người thảo luận (2-4). Phần lớn những ý kiến xoay quanh vấn đề nhân
sự: muốn có một trường đại học đẳng cấp quốc tế, cần phải có những giáo sư
đẳng cấp quốc tế. Điều này hoàn toàn đúng, nhưng tất nhiên là chưa đủ, bởi
vì có giáo sư tài giỏi mà không có phương tiện nghiên cứu hiện đại hay không
có sinh viên giỏi hay không có ngân sách dồi dào, thì trường đại học chỉ tồn
tại như bao nhiêu trường đại học khác.
Ở đây, tôi muốn
bàn
thêm những vấn đề xoay quanh các tiêu chuẩn mà tôi đã nêu ra trước đây (5).
Thứ
nhất là chất lượng giáo dục. “Thành phẩm” của đại học là sinh viên
tốt nghiệp và nghiên cứu khoa học. Do đó, nói đến chất lượng giáo dục là
nói đến chất lượng của sinh viên tốt nghiệp. Chất lượng ở đây phải hiểu
theo nghĩa thông thường là đào tạo nhân tài, những người có khả năng lãnh
đạo và cống hiến cho sự phát triển kinh tế và khoa học. Trong thời đại toàn
cầu hóa như hiện nay, đơn thuần đào tạo ra những chuyên gia chưa đủ, mà phải
đào tạo những chuyên gia tầm cỡ quốc tế, tức là có khả năng thích ứng và
theo đuổi sự nghiệp trong bất cứ quốc gia nào trên thế giới.
Điều
này dẫn đến một tiêu chuẩn đo lường chất lượng giáo dục là con số sinh viên
tốt nghiệp đạt được những thành tích cao trong hoạt động kinh tế và nghiên
cứu khoa học kĩ thuật. Một số cơ quan chuyên thẩm định chất lượng giáo dục
đặt ra cái chuẩn khá cao như tính số cựu sinh viên được bổ nhiệm khách quan
vào các chức vụ cao cấp trong guồng máy kinh tế, hay số cựu sinh viên chiếm
giải Nobel hay huân chương Fields (trong toán học) hay các giải thưởng tương
tự. Sở dĩ các đại học như Harvard, Yale, Stanford, Cambridge, Oxford,
Tokyo, v.v… có tiếng là “world class university” (đại học đẳng cấp quốc tế)
là vì sinh viên tốt nghiệp từ các trường này thường đóng vai trò “đầu tàu”
(lãnh đạo chính trị, khoa học, kinh tế) của nước họ và trên thế giới.
Đại
học không chỉ đơn thuần là một cơ sở chuyển giao tri thức giữa thầy và trò,
mà còn là sáng tạo tri thức mới. Sáng tạo không chỉ xuất phát từ thầy, mà
còn phải từ trò. Do đó, một trường đại học đẳng cấp quốc tế phải có cách
dạy và học mới nhấn mạnh đến việc phát triển tiềm năng của sinh viên sao cho
họ có thể phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề một cách độc lập. Sinh
viên phải được khuyến khích có đầu óc tìm tòi, học hỏi, tự tin và sáng tạo,
không máy móc đi theo những lối suy nghĩ cũ, tôn trọng sự thật, và nhất là
hợp tác làm việc với những người không cùng chuyên môn.
Thứ
hai là chất lượng giáo sư. Đã có nhiều người nói đến nhu cầu tuyển
dụng những giáo sư giỏi cho trường đại học đẳng cấp quốc tế, nhưng chưa có
ai cụ thể đề cập đến thế nào là giáo sư giỏi, hay giáo sư đẳng cấp quốc tế.
Theo tôi, một giáo sư giỏi là một nhà khoa học có uy tín cao và trong
lĩnh vực chuyên môn được công nhận trên trường quốc tế. Uy tín ở đây thường
được đo lường bằng những công trình nghiên cứu khoa học có ảnh hưởng
lớn trong lĩnh vực chuyên môn.
Ảnh
hưởng được đánh giá bằng số lần trích dẫn bởi các nhà khoa học khác, hay
bằng hệ số ảnh hưởng (impact factor) của tập san mà nhà khoa học công bố.
Một giáo sư đẳng cấp quốc tế phải có ít nhất là 100 bài báo khoa học, và 20%
trong số này được trích dẫn hơn 50 lần, hay 50% số này được công bố trên các
tập san với hệ số ảnh hưởng cao hơn 5.
Ngoài
ra, khi nói đến “được công nhận trên trường quốc tế” có nghĩa là vị giáo sư
đó được mời giảng dạy tại các trường đại học khác, được mời làm chủ tọa
(chair) các hội nghị chuyên môn hay được mời làm phát biểu viên chính
(keynote speaker) trong các hội nghị chuyên ngành, được bổ nhiệm vào ban
biên tập của các tập san khoa học quốc tế, được mời bình duyệt các dự án
nghiên cứu khoa học, v.v…
Nhìn qua các tiêu chuẩn chung cho một giáo sư đẳng cấp quốc tế như
tôi vừa đề cập đến trên đây, có thể nói con số giáo sư cỡ đẳng cấp quốc tế ở
nước ta không nhiều. Ngay cả trong giới khoa bảng Việt kiều, con số cũng
chẳng là bao (dù nhiều người cứ tưởng mình là giáo sư đại học Mĩ là “đẳng
cấp quốc tế”!). Do đó, một trường đại học đẳng cấp quốc tế ở Việt Nam cần
phải tuyển dụng giáo sư từ nước ngoài (tất nhiên kể cả tận dụng từ nguồn
Việt kiều). Điều này dẫn đến vấn đề lương bổng.
Hiện nay, lương bổng
của một giáo sư ở Mĩ hay Úc thường khoảng 100.000 đô-la trở lên, một phó
giáo sư khoảng 80.000 đến 110.000 đô-la, và giảng sư cũng khoảng 65.000 đến
85.000 đô-la. Đó là mức lương khá cao đối với một nước còn đang phát triển
kinh tế như ở nước ta. Do đó, ngân sách của một đại học đẳng cấp quốc tế
phải dồi dào, và phải có sự tham gia đóng góp tích cực của doanh nghiệp tư
nhân.
Thứ ba
là năng suất và chất lượng nghiên cứu khoa học. Đại học, như nói
trên, không chỉ là một cơ sở chuyển giao tri thức cho sinh viên, mà quan
trọng hơn còn là một “nhà máy” sản xuất ra tri thức mới qua nghiên cứu khoa
học. Trong hoạt động nghiên cứu khoa học, bằng sáng chế (patents) các bài
báo khoa học (scientific papers) đóng một vai trò rất quan trọng. Bằng sáng
chế sẽ được bàn trong một bài sau, ở đây tôi chỉ nói đến bài báo khoa học.
Bài báo khoa học không chỉ là một bản báo cáo về một công trình nghiên cứu,
mà còn là một đóng góp cho kho tàng tri thức của thế giới. Khoa học tiến bộ
cũng nhờ một phần lớn vào thông tin từ những bài báo khoa học, bởi vì qua
chúng mà các nhà khoa học có dịp trao đổi, chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm
lẫn nhau. Chính vì thế mà các cơ quan thẩm định và phân cấp đại học trên
thế giới thường dựa vào con số bài báo khoa học để đánh giá chất lượng của
một trường đại học.
Trên
thế giới ngày nay, có khoảng 100,900 tập san khoa học, và con số vẫn tăng
mỗi năm. Nhưng chỉ 50% trong số này được công nhận và đưa vào danh bạ tập
san khoa học (indexed journals). Chất lượng của các tập san này cũng không
tương đồng nhau. Một số tập san như Science, Nature, Cell,
hay Physical Reviews chỉ công bố những bài báo khoa học mà ban biên
tập cho rằng thể hiện những cống hiến cơ bản, những phát hiện quan trọng,
hay những phương pháp mới có tiềm năng ứng dụng rộng rãi trong cộng đồng
khoa học. Các tập san này chỉ công bố khoảng 1% những bài báo họ nhận được
hàng năm. Trong y học, các tập san hàng đầu như New England Journal of
Medicine, Lancet, và JAMA từ chối khoảng 95% các bài báo
gửi đến, và chỉ công bố những bài báo quan trọng trong y khoa.
Do đó,
chất lượng nghiên cứu khoa học thường được đo lường bằng số công trình
nghiên cứu được công bố trên các tập san hàng đầu trên. Thật vậy, các cơ
quan thẩm định chất lượng giáo dục đại học thường dựa vào con số bài báo
khoa học trên các tập san danh tiếng như Science, Nature, Cell, PNAS,
Lancet, New England Journal of Medicine, v.v…, hay các tập san số 1
trong chuyên ngành, hay các tập san có hệ số ảnh hưởng cao hơn 5, để xếp
hạng nghiên cứu khoa học của trường, bởi vì có bài báo đăng trên các tập san
này phải là những công trình nghiên cứu chất lượng cao. Ở Thái Lan có
trường đại học Mahidol được xem là đại học hàng đầu trong nước vì gần 70%
các bài báo y khoa và khoa học của Thái Lan xuất phát từ đó, nhưng chưa có
một bài báo y học nào được đăng trên các tập san khoa học với hệ số ảnh
hưởng cao hơn 10!
Thư tư
và vấn đề thời gian và trọng điểm. Cần phải nhận thức rằng không
phải một sớm một chiều chúng ta sẽ xây dựng được một đại học đẳng cấp quốc
tế, một đại học mà nói đến tên, người ta có thể đánh giá ngang cỡ với các
đại học danh tiếng khác ở Tây phương. Các đại học danh tiếng như Harvard,
Yale, Stanford, Oxford, Cambridge, v.v… phải trải qua hàng trăm năm để đạt
được vị thế như ngày nay. Ngay cả các đại học mới và danh tiếng “khiêm tốn”
hơn như University of Tokyo, Australian National University, National
Singapore University, v.v… cũng phải phấn đấu qua nhiều thập niên để được
xếp hạng trong danh sách các đại học đẳng cấp quốc tế.
Vì
thế, có thể nói một trường đại học đẳng cấp quốc tế ở nước ta vẫn cần phải
có ít nhất là 20 năm để có thể sánh vai với các trường danh tiếng trên thế
giới. Vấn đề đặt ra là chúng ta nên mô phỏng theo mô hình của các trường
đại học danh tiếng trên thế giới, hay là chúng ta tìm ra một hướng đi
riêng? Nếu bắt chước thì cuối cùng một đại học đẳng cấp quốc tế ở Việt Nam
cũng chỉ là đại học “hạng hai”, mãi mãi đuổi theo các trường khác.
Theo
tôi chúng ta nên chọn cho mình một hướng đi riêng. Kinh nghiệm phát triển
của các trường đại học danh tiếng trên thế giới là họ thường tập trung vào
một lĩnh vực nghiên cứu mới, một lĩnh vực mới mà các trường khác chưa quan
tâm. Thật vậy, một đại học đẳng cấp quốc tế không phải ưu tú trong tất cả
mọi bộ môn khoa học. Đại học Harvard chưa bao giờ đứng đầu trong các ngành
kĩ thuật. Do đó một số đại học trên thế giới tập trung vào việc xây dựng
các phân khoa “mạnh” để trở thành những trung tâm nghiên cứu hàng đầu, như
Mã Lai tập trung vào công nghệ thông tin và công nghệ cao su nhằm đáp ứng
nhu cầu địa phương. Do đó, tôi nghĩ một đại học đẳng cấp quốc tế Việt Nam
phải chọn cho mình mộ trung điểm để tập trung phát triển. Có thể trọng điểm
đó là nghiên cứu sinh học phân tử trong nông nghiệp, hay công nghệ sinh học,
hay công nghệ thông tin. Chúng ta cần nhiều thảo luận về trọng điểm để rút
ngắn thời gian cho đại học Việt Nam sánh vai cùng thế giới.
Đại học được ra đời với sứ mệnh phục vụ xã hội, đáp ứng nhu cầu
tri thức của công chúng. Tri thức là một tài sản chung của con người mang
tính phi biên giới. Thành ra, trách nhiệm của một đại học đẳng cấp quốc tế,
dù cho ở Việt Nam hay ở một nơi nào khác trên thế giới, không chỉ nhằm giải
quyết các vấn đề địa phương, mà phải nhắm vào việc phụng sự những vấn đề đa
chiều hơn, rộng lớn hơn, và qua đó để góp phần đưa giáo dục đại học thế giới
lên một chiều cao mới.
Ghi
thêm:
(1)
Một số người không thích cách gọi “đại học đẳng cấp quốc tế” và đề nghị cách
gọi khác như “đại học chất lượng cao” hay “đại học hàng đầu”. Trong giáo
dục đại học, không ai dùng từ đại học chất lượng cao (high-quality
university) hay đại học hàng đầu (premier university) cả, mà người ta nói
đến đại học đẳng cấp quốc tế (world class university).
Song,
tôi cho rằng tranh luận về cách gọi là không cần thiết và có thể làm lạc
hướng trọng tâm thảo luận. “Đẳng cấp quốc tế” chỉ là một cách gọi chung
chung, hàm ý đề cập đến chất lượng đào tạo cao, hay theo tiêu chuẩn mà quốc
tế công nhận. “Đẳng cấp quốc tế” là sản phẩm của giới truyền thông. Thật
vậy, trên thế giới không có một trường đại học nào gắn liền với những danh
từ như “đẳng cấp quốc tế”, “chất lượng cao” hay “hàng đầu” cả, mà chỉ với
cái tên. Và qua tên trường, công chúng có thể biết đại học đó thuộc hàng
đẳng cấp quốc tế hay địa phương. Chẳng hạn như khi nói đến tên các đại học
như Harvard, Stanford, Yale, Berkeley, Oxford, Cambridge, v.v… người ta đều
hiểu đây là những đại học đẳng cấp quốc tế, với chất lượng đào tạo cao hơn
các “đại học địa phương” như California State University, Kent State
University, University of Canterbury, v.v…
(2)
Xem bài viết “Muốn trường tốt phải có thầy hay” trên Tiền Phong
Online:
http://www.tienphongonline.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=26216&ChannelID=71.
(3)
Xem bài viết “Tuyển chọn giáo sư cho một đại học chất lượng cao” trên
Tuổi Trẻ Online:
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=106806&ChannelID=13
(4) Xem trang web chuyên bàn về đề tài đại học đẳng cấp quốc tế tại
http://vietnamnet.vn/dhqt/.
(5)
Xem ý kiến của tôi về đại học đẳng cấp quốc tế trên VietNamNet tại địa chỉ:
http://www.vnn.vn/60nam/2005/08/483729/
Xin mời đọc Trang Nguyễn Văn Tuấn
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Nguyễn Văn Tuấn
|